Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất từ thực tiễn xét xử tại tòa án nhân dân huyện văn giang, tỉnh hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 89 trang )

LỜI CẢM ƠN

Để có được kết quả này, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc và chân thành tới
Khoa Sau Đại học, Viện Đại học Mở Hà Nội, cùng toàn bộ các cán bộ, giảng viên
đã giảng dạy, hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và
hoàn thành bản luận văn.
Đặc biệt, em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Như
Phát là giáo viên trực tiếp hướng dẫn đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em trong quá trình
nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.
Em xin chân trọng cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của TAND huyện Văn
Giang, tỉnh Hưng Yên đã tạo điều kiện cho em thu thập số liệu, những thơng tin cần
thiết để hồn thành luận văn.
Dù đã hết sức cố gắng, song chắc chắn ḷn văn khơng tránh khỏi những sai
sót, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các thầy cơ để em
chỉnh sửa, bổ sung, hồn thiện luận văn đạt chất lượng tốt hơn!
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2020

Tác giả luận văn

Trịnh Thị Phương

iii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................... ii


LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................... iii
MỤC LỤC ................................................................................................................. iv
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT .................................................................................... vi
PHẦN MỞ ĐẦU .........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. ...............................................................................................................6
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ QUYỀN SỬ
DỤNG ĐẤT VÀ PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THỪA KẾ QUYỀN
SỬ DỤNG ĐẤT TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN ............................................................6
1.1. Lý luận về thừa kế quyền sử dụng đất ............................................................6
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của thừa kế quyền sử dụng đất ............................6
1.1.3. Xác định di sản thừa kế là quyền sử dụng đất ........................................10
1.2. Lý luận pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất .......................................12
1.2.2. Nội dung của pháp luật thừa kế quyền sử dụng đất ................................12
1.3. Lý luận pháp luật về giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất tại Tòa
án nhân dân............................................................................................................20
1.3.1. Khái niệm pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa
án nhân dân cấp huyện. .....................................................................................20
1.3.2.

Các yếu tố ảnh hưởng đến việc giải quyết tranh chấp thừa kế

quyền sử dụng đất tại Tòa án ................................................................................22
CHƯƠNG 2. .............................................................................................................29
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TỪ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TẠI TAND HUYỆN VĂN GIANG, TỈNH HƯNG YÊN ........................................29
2.1. Thực trạng pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất và giải quyết tranh chấp
thừa kế quyền sử dụng đất tại Tòa án. ..................................................................29
2.1.1. Các quy định chung về thừa kế quyền sử dụng đất ................................29
2.1.2. Các hình thức thừa kế quyền sử dụng đất ...............................................37

iv


2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử
dụng đất tại Tòa án nhân dân huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên .........................46
2.2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật
thừa kế quyền sử dụng đất tại Văn Giang .........................................................46
2.2.2. Tình hình giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất tại Tòa án
nhân dân huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên .....................................................51
2.2.3. Đánh giá thực trạng giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất tại
Tòa án nhân dân huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên .........................................54
CHƯƠNG 3. .............................................................................................................70
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THỪA KẾ
QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÉT XỬ TRANH CHẤP
THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN
GIANG, TỈNH HƯNG YÊN ....................................................................................70
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật thừa kế quyền sử dụng đất ...................70
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật thừa kế quyền sử dụng đất ...........................71
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
của Tòa án nhân dân huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên ......................................77
KẾT LUẬN ...............................................................................................................83
TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................84

v


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Giải nghĩa

Từ viết tắt

BLDS

Bộ luật Dân sự

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng dân sự

QSDĐ

Quyền sử dụng đất

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

UBND

Ủy ban nhân dân

VKSNDTC

Viện Kiểm sát nhân dân tối cao

vi



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sinh – lão – bệnh – tử là một trong những quy luật của đời người mà ai cũng
phải trải qua. Khi một người chết có thể phát sinh ra việc dịch chuyển tài sản của
mình cho người khác. Đó là vấn đề thừa kế - một nội dung rất quan trọng của pháp
luật. Chế định thừa kế là một chế định luật thiết yếu của ngành luật dân sự và những
tranh chấp về quyền thừa kế xảy ra cũng là tất yếu khách quan. Mặt khác, từ xưa
đến nay, đối với đời sống sinh hoạt, kinh doanh và các hoạt động khác của con
người, có một tài sản có giá trị vơ cùng lớn lao đó là đất đai. Đất đai được coi là tài
nguyên vô giá đối với cá nhân, tổ chức và các quốc gia. Đó là tư liệu sản xuất đặc
biệt đối với mọi hoạt động sống trên Trái đất.
Do vậy, đất đai là một tài sản vô giá. Tuy nhiên, hiện trạng sử dụng đất đai
hiện nay cho thấy nguồn tài nguyên này càng ngày càng trở nên khan hiếm hơn.
Trên thực tiễn hiện nay, các tranh chấp về QSDĐ nói chung và tranh chấp thừa kế
về QSDĐ rất phổ biến và tính chất phức tạp hơn. Chính vì thế, thừa kế QSDĐ là
một vấn đề thời sự liên quan đến từng cá nhân, từng gia đình bởi QSDĐ là một tài
sản có giá trị lớn, các vấn đề thừa kế chủ yếu là liên quan đến nhà và đất ở giữa
những người có quan hệ gần gũi với nhau. Nếu vấn đề này không được giải quyết
dứt điểm, khơng phù hợp sẽ gây mất đồn kết trong gia đình, anh em từ đó ảnh
hưởng tới trật tự xã hội. Nghiên cứu các quy định pháp luật về thừa kế QSDĐ nhằm
tiếp tục hoàn thiện thêm chế định pháp luật về thừa kế QSDĐ cũng như nâng cao
hiệu quả xét xử các tranh chấp về thừa kế QSDĐ là một yêu cầu khách quan. Cụ thể
là, trong giai đoạn hiện nay, với xu hướng hội nhập quốc tế, vấn đề thừa kế QSDĐ
cần được nghiên cứu để mở rộng hơn nữa quyền tự định đoạt của chủ thể tham gia
quan hệ pháp luật thừa kế QSDĐ; tạo sự bình đẳng hơn nữa về thừa kế và để lại
thừa kế giữa cá nhân trong nước với cá nhân là người Việt nam định cư ở nước
ngoài. Các quy phạm pháp luật về thừa kế QSDĐ cần được xây dựng dựa trên cơ sở
bảo đảm mối quan hệ hài hồ giữa lợi ích của Nhà nước, lợi ích của các chủ thể
tham gia quan hệ pháp luật thừa kế QSDĐ và lợi ích của tồn xã hội, tơn trọng sự tự

do định đoạt của các chủ thể trong quan hệ pháp luật thừa kế QSDĐ.
1


Văn Giang là huyện nằm ở phía tây bắc tỉnh Hưng Yên, nằm trong đồng
bằng châu thổ Sông Hồng với địa hình đất đai tương đối bằng phẳng. Huyện Văn
Giang có điều kiện thuận lợi để giao lưu phát triển mọi mặt với các trung tâm phát
triển của Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Theo quan điểm phát triển của tỉnh Hưng
Yên thì Văn Giang được quy hoạch phát thành trọng điểm kinh tế động lực theo
hướng toàn diện và bền vững. Do đó, đất đai ở Văn Giang ngày càng có giá trị cao
hơn. Qua thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân huyện Văn Giang những năm gần
đây các vụ việc liên quan đến thừa kế QSDĐ cho thấy một số vấn đề khó khăn khi
giải quyết những vụ việc này như việc lưu trữ, quản lý hồ sơ về thửa đất khơng đầy
đủ, tình trạng hồ sơ bị thất lạc, đứt đoạn thông tin là không hiếm, không cập nhật
được di biến động về thửa đất (do thực hiện các giao dịch, chuyển từ đất tập đoàn,
hợp tác xã sang cá nhân, hộ gia đình quản lý vv…); thông tin trong hồ sơ về thửa
đất thiếu, khơng chính xác (khơng chính xác về kích thước, số đo, diện tích, hình
thù thửa đất, trên đất có tài sản như các công trình xây dựng, nhà ở không được thể
hiện trong giấy chứng nhận xuất phát từ quy định, cách làm không hợp lý của cơ
quan quản lý về đất đai tạo nên …)… Điều này khiến cho khi giải quyết các vụ việc
thừa kế QSDĐ các Thẩm phán khó xác định được lịch sử của thửa đất dẫn đến việc
phân chia tài sản thừa kế cũng gặp phải vướng mắc nhất định.
Do đó, việc nghiên cứu vấn đề pháp luật về thừa kế QSDĐ qua thực tiễn tại
TAND là rất cấp thiết, nên em chọn đề tài “Pháp luật về thừa kế QSDĐ từ thực
tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên” làm đề tài
luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề thừa kế nói chung và thừa kế QSDĐ nói riêng đã có nhiều nhà khoa
học nghiên cứu. Tuy nhiên, trải qua các thời kỳ, do sự thay đổi về các quy định của
pháp luật nên việc nghiên cứu pháp luật về thừa kế QSDĐ từ thực tiễn xét xử tại

TAND huyện vẫn rất cần thiết. Một số cơng trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
này của một số nhà nghiên cứu có thể đề cập đến như sau:

2


Đỗ Văn Đại (2010), Tuyển tập các bản án, quyết định của Tòa án Việt Nam
về QSDĐ, NXB Lao động. Đây là cuốn sách được tác giả Đỗ Văn Đại viết trên cơ
sở tuyển chọn phân tích các bản án quyết định của Tòa án Việt Nam về QSDĐ.
Đỗ Văn Đại (2016), Luật thừa kế Việt Nam – Bản án và Bình luận bản án
(tập 1, 2), NXB Hồng Đức. Cuốn sách là tập hợp các bản án và tác giả bình ḷn các
bản án đó nhằm cung cấp cho người đọc thông tin thực tế gắn với lý luận và nhằm
hoàn thiện pháp luật Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn xét xử (có đối chiếu
với pháp ḷt nước ngồi). Trong đó, tác giả có tuyển chọn và phân tích một số bản
án liên quan đến thừa kế QSDĐ.
Phạm Văn Tuyết và Lê Kim Giang (2014), Pháp luật về thừa kế và thực tiễn
giải quyết tranh chấp, NXB Tư pháp; Lương Thị Hợp (2012), Một số vấn đề về
thừa kế theo di chúc và thực tiễn giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc tại
Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng, Luận văn thạc sĩ luật học; Nguyễn Thị Phương
Thanh (2011), Áp dụng pháp luật dân sự về hiệu lực của di chúc trong thực tiễn xét
xử của Tòa án, Luận văn thạc sĩ luật học; Mai Thị Tú Oanh (2013), Tranh chấp đất
đai và giải quyết tranh chấp đất đai bằng Tòa án ở nước ta, Luận án tiến sĩ luật
học; Trần Văn Hà (2017), Pháp luật về thừa kế QSDĐ từ thực tiễn xét xử tại Tòa án
nhân dân ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ ḷt học…
Nhìn chung, các cơng trình này có nghiên cứu về khía cạnh thừa kế nói
chung và thừa kế QSDĐ qua thực tiễn tại TAND ở Việt Nam hoặc một địa phương
(Cao Bằng) từ đó giúp hồn thiện các quy định của pháp luật về thừa kế QSDĐ
cũng như nâng cao hiệu quả xét xử của TAND về vấn đề này.
Trong phạm vi luận văn của mình, tác giả chủ yếu tập trung nghiên cứu lý
luận và thực tiễn về pháp luật thừa kế QSDĐ từ thực tiễn TAND huyện Văn Giang,

tỉnh Hưng Yên là nội dung nghiên cứu mới không trùng với các công trình đã cơng
bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích của đề tài

3


Đề tài nhằm mục đích luận giải những nội dung cơ bản của pháp luật về thừa
kế QSDĐ ở Việt Nam hiện nay, những hạn chế trong quy phạm pháp luật và thực
tiễn giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ qua thực tiễn tại TAND huyện Văn Giang,
tỉnh Hưng Yên để kiến nghị những giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện
hành về giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ tại TAND cũng như nâng cao hiệu quả
giải quyết tại TAND huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Tìm hiểu các khái niệm về QSDĐ, thừa kế QSDĐ, thẩm quyền và thủ tục
giải quyết thừa kế QSDĐ tại TAND cấp sơ thẩm;
- Phân tích các quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng các
quy định pháp luật về thừa kế QSDĐ thông qua thực tiễn tại TAND huyện Văn
Giang, tỉnh Hưng Yên;
- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả giải
quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ tại TAND huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hệ thống các quy phạm pháp luật về thừa
kế QSDĐ và thực tiễn giải quyết vấn đề này tại TAND huyện Văn Giang, tỉnh
Hưng Yên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về không gian: Thực tiễn xét xử tại TAND huyện Văn Giang, tỉnh
Hưng Yên.

Phạm vi về thời gian: Số liệu cho nghiên cứu đề tài được thu thập từ năm
2015-2019.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác – Lê nin,
quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước và pháp luật; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đường lối phát triển
4


kinh tế nhiều thành phần, xây dựng nhà nước pháp quyền trong cơ chế thị trường
của Đảng và Nhà nước ta. Quá trình nghiên cứu của luận văn học viên đã sử dụng
một số phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp bình luận, phương pháp phân
tích, phương pháp so sánh, tổng hợp, phương pháp diễn giải…để thực hiện.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Sau khi thực hiện xong cơng trình nghiên cứu này, ḷn văn góp phần đóng
góp cho khoa học pháp lý về:
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ hơn những vấn đề lý luận về thừa kế QSDĐ
thông qua hoạt động xét xử tại TAND.
- Luận văn góp phần đánh giá tình hình thực thi pháp luật về giải quyết tranh
chấp thừa kế QSDĐ thông qua hoạt động xét xử tại TAND huyện Văn Giang, tỉnh
Hưng Yên.
- Luận văn tập trung đề xuất và luận giải một số quan điểm, giải pháp nhằm
góp phần hoàn thiện và thực thi pháp luật về thừa kế QSDĐ.
Đề tài có thể trở thành tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà nghiên cứu,
nhà lập pháp, các Thẩm phán, sinh viên… có nghiên cứu về chế tài phạt vi phạm
trong hợp đồng kinh doanh, thương mại hoặc đề tài có liên quan đến nội dung này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, bố cục của
luận văn gồm ba chương sau:
Chương 1: Lý luận chung về thừa kế QSDĐ và hoạt động giải quyết

tranh chấp thừa kế QSDĐ tại Tòa án nhân dân
Chương 2: Thực trạng pháp luật thừa kế QSDĐ qua thực tiễn xét xử tại
TAND huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên
Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật thừa kế
QSDĐ và nâng cao hiệu quả xét xử tranh chấp thừa kế QSDĐ của TAND
huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên

5


CHƯƠNG 1.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ QUYỀN SỬ
DỤNG ĐẤT VÀ PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THỪA KẾ
QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
1.1. Lý luận về thừa kế quyền sử dụng đất
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của thừa kế quyền sử dụng đất
1.1.1.1. Khái niệm thừa kế quyền sử dụng đất
Thừa kế là một phạm trù có lịch sử lâu đời, nó đã xuất hiện ngay từ trong
thời kỳ sơ khai của loại người. Việc thừa kế nhằm di chuyển tài sản của người chết
cho những người còn sống được tiến hành dựa trên quan hệ huyết thống và do
phong tục, tập quán quy định.
Ph. Ăng ghen đã viết “Theo chế độ mẫu quyền, nghĩa là chừng nào mà huyết
tộc chỉ kể về bên mẹ và theo tập tục thừa kế nguyên thủy trong thị tộc mới được
thừa kế những người trong thị tộc chết. Tài sản phải để lại phải trong thị tộc, vì tài
sản để lại khơng có giá trị lớn”1.
Theo Từ điển Tiếng Việt, “thừa kế là hưởng của người chết để lại cho”2. Như
vậy, thừa kế ở đây có mối liên hệ mật thiết đến tài sản và sự kiện phát sinh thừa kế
là người để lại khối tài sản đó chết.
Dần dần, khi có Nhà nước và pháp luật, thừa kế trở thành một quyền của con
người và được ghi nhận trong luật thành một chế định luật. Ở góc độ pháp lý, quyền

thừa kế là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định trình tự dịch chuyển tài sản
của người chết cho những người còn sống. Quyền thừa kế được xác định là một chế
định luật dân sự, bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh việc dịch
chuyển tài sản của người chết cho người khác theo di chúc hoặc theo một trình tự
nhất định đồng thời quy định phạm vi quyền, nghĩa vụ và phương thức bảo vệ các
quyền và nghĩa vụ của người thừa kế3.
Trên thực tế đã có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm quyền thừa kế,
Phạm Văn Tuyết và Lê Kim Giang, 2013 cho rằng: “Cá nhân có quyền lập di chúc
Ph. Ăng ghen (1961), Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và nhà nước, NXB Sự thật, Hà Nội, tr79.
Hoàng Phê (2018), Từ điển Tiếng Việt, NXB Hồng Đức, thành phố Hồ Chí Minh, tr1231.
3
Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, tập I, NXB Công an nhân dân,
1
2

6


để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp
luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”4. Theo Từ điển Luật học
thì: “Quyền thừa kế là quyền để lại tài sản của mình cho người khác sau khi chết,
hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”5.
Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, Điều 609 về quyền thừa kế
như sau“Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản
của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản thừa kế theo di chúc hoặc
theo pháp luật; Người thừa kế khơng là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di
chúc”.
Mỗi quan điểm đều đưa ra một nhận định riêng trên cơ sở một số điểm chung
của quyền thừa kế là quyền để lại tài sản của mình cho người khác, sau khi chết; các
nhà khoa học hay quy định của pháp luật đều thừa nhận có hai dạng thừa kế là thừa

kế theo pháp luật và thừa kế theo di chúc.
Tác giả tiếp cận quyền thừa kế theo góc độ là quyền của cá nhân, theo đó, có
thể khái quát rằng: Quyền thừa kế là quyền dân sự của cá nhân được pháp luật
công nhận về việc thể hiện ý chí của mình hoặc tuân thủ theo trình tự luật định về
việc dịch chuyển tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của cá nhân đó cho người khác sau
khi chết.
Như vậy, quyền thừa kế trước hết được xác định là quyền dân sự của cá
nhân. Ở đây, pháp luật không ghi nhận quyền thừa kế của tổ chức mà chri ghi nhận
quyền thừa kế của cá nhân bởi thừa kế từ sơ khai có liên quan đến quan hệ huyết
thống mà tổ chức thì khơng có mối quan hệ này. Do vậy, pháp ḷt các quốc gia
trong đó có Việt Nam thống nhất quyền thừa kế là quyền của cá nhân.
Một vấn đề quan trọng của quyền thừa kế là sau khi người để lại tài sản chết
thì tài sản mới dịch chuyển sang những người hưởng thừa kế, chấm dứt quyền sở
hữu đối với tài sản. Để thực hiện quyền năng này một cách hợp pháp, người để lại
di sản thừa kế phải có quyền sở hữu hợp pháp với khối tài sản mà họ để lại, nếu
khơng có quyền sở hữu đối với tài sản đó thì khơng thực hiện được quyền thừa kế.

Phạm Văn Tuyết và Lê Kim Giang (2013), Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh chấp, NXB Tư
pháp, Hà Nội.
5
Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, NXB Tư pháp, Hà Nội.
4

7


Có hai hình thức thừa kế là thừa kế theo pháp luật và thừa kế theo di chúc.
Đối với thừa kế theo di chúc thể hiện rõ rệt ý chí của cá nhân, sau khi chết họ sẽ để
lại tài sản của mình cho ai. Tuy nhiên ý nguyện của người lập di chúc không phải
bao giờ và khi nào cũng được pháp luật bảo hộ một cách tuyệt đối mà quyền định

đoạt của người lập di chúc còn bị hạn chế trong những trường hợp luật định. Ý
nguyện của người lập di chúc được thể hiện thông qua quan hệ dân sự của cá nhân
được pháp luật quy định. Nếu sự dịch chuyển tài sản của người chết sang cho người
còn khác căn cứ vào quy định của pháp luật thì được gọi là thừa kế theo pháp luật.
Như vậy, thừa kế theo pháp luật được hiểu một cách đơn giản là quá trình dịch
chuyển di sản của người chết sang những người còn sống theo quy định của pháp
luật về thừa kế. Mặt khác, theo quy định của pháp ḷt thì khi khơng có căn cứ để
dịch chuyển di sản của người chết theo ý chí của họ thì di sản đó phải dịch chuyển
theo quy định của pháp luật về hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế.
Thừa kế là một chế định của luật dân sự, nên thừa kế QSDĐ phải tuân thủ
các quy định về tài sản được phép đưa vào tài sản thừa kế. Theo Hiến pháp năm
2013 quy định: “Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của để dành,
nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc
trong các tổ chức kinh tế khác. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp
luật bảo hộ”6. Đồng thời, theo khoản 1 Điều 105 BLDS năm 2015 quy định “Tài sản
là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”. QSDĐ được xếp vào nhóm quyền tài
sản.
Ở nước ta, chế độ sở hữu đất đai được ghi nhận từ những năm 1980 đến nay
là chế độ sở hữu toàn dân về đất đai do Nhà nước đại diện chủ sở hữu. Tuân thủ
nguyên tắc này nên pháp luật quy định cá nhân, tổ chức, hộ gia đình chỉ có QSDĐ
chứ không ghi nhận là quyền sở hữu đất đai. Nhưng với tư cách là một quyền tài
sản thì QSDĐ là tài sản đặc biệt và do vậy, pháp luật dân sự cũng như pháp luật đất
đai vẫn thừa nhận quyền thừa kế đối với QSDĐ.
Do QSDĐ là tài sản đặc biệt, loại tài sản mà không những liên quan đến
những quy định của BLDS mà còn liên quan đến những chính sách đất đai của Nhà
nước nên thừa kế QSDĐ có những nét riêng biệt đặc thù khác thừa kế các loại tài
6

Điều 32 Hiến pháp năm 2013.


8


sản khác ngoài đất đai. Điều 733 BLDS năm 2005 quy định: “Thừa kế QSDĐ là
việc chuyển QSDĐ của người chết sang cho người thừa kế theo quy định của Bộ
luật này và pháp luật về đất đai”. Đến nay, BLDS năm 2015 không quy định riêng
về thừa kế QSDĐ nữa.
Như vậy, có thể hiểu thừa kế QSDĐ là một quyền của người sử dụng đất,
phản ánh các chính sách đất đai của Nhà nước và thể hiện sự phát triển của pháp
luật về thừa kế, với nội dung là dịch chuyển QSDĐ từ người chết sang người còn
sống theo quy định của pháp luật.
1.1.1.2. Đặc điểm của thừa kế quyền sử dụng đất
Đất đai là một tài sản đặc biệt, do đó thừa kế QSDĐ có điểm khác biệt:
Thứ nhất, thừa kế QSDĐ vừa tuân theo quy định của pháp luật dân sự vừa
tuân theo luật đất đai. Pháp luật dân sự không điều chỉnh hết các nội dung quyền
thừa kế của người sử dụng đất, nên nếu chỉ căn cứ vào pháp ḷt dân sự thì khơng
đầy đủ, dễ dẫn đến sai lệch. Do đó, thừa kế QSDĐ khác với thừa kế những tài sản
khác là phải phụ thuộc vào các chính sách đất đai của Nhà nước.
Thứ hai, di sản thừa kế là QSDĐ thường có giá trị lớn và rất khó trong việc
xác định nguồn gốc. Đất đai là tài nguyên nên con người không thể tạo ra và có ý
nghĩa rất lớn trong cuộc sống của bất kỳ ai, do đó QSDĐ thường có giá trị lớn
không dễ để bỏ qua quyền dành được tài sản này. Trải qua từng thời kỳ, chính sách
của Nhà nước về đất đai lại có những thay đổi nhất định, cùng với đó là hàng loạt
những văn bản luật được ban hành gây khó khăn trong việc theo dõi, áp dụng. Việc
xác định nguồn gốc đất đai cũng trở nên khó khăn do quản lý chưa thực sự phù hợp,
ảnh hưởng không nhỏ đến việc giải quyết về thừa kế QSDĐ.
Thứ ba, đất đai được phân thành loại được sử dụng ổn định, lâu dài và loại sử
dụng có thời hạn. Người thừa kế QSDĐ không phải lúc nào cũng được sử dụng ổn
định lâu dài mà trong trường hợp đất sử dụng có thời hạn thì người thừa kế có thể
chỉ được sử dụng trong thời hạn cịn lại.

Thứ tư, có sự hạn chế nhất định đối với trường hợp người thừa kế là người
nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Hạn chế này cũng là một
chính sách đất đai của Nhà nước do đất đai cần được sử dụng hợp lý, phát huy được
tối đa giá trị của nó mà bản thân người nước ngoài và người Việt Nam định cư ở
9


nước ngoài lại bị hạn chế về điều kiện sử dụng đất so với người Việt Nam ở trong
nước. Tuy nhiên, những hạn chế này cũng có lúc thay đổi, do quan điểm của Nhà
nước thay đổi, nhưng nhìn chung thì đối với các đối tượng này ít nhiều cũng có
những khác biệt nhất định trong việc áp dụng quy định về thừa kế QSDĐ.
Thứ năm, đăng ký thừa kế là thủ tục bắt buộc. Thủ tục đăng ký thừa kế được
quy định tại Luật Đất đai. Di sản thừa kế là QSDĐ thì cần đăng ký thừa kế để thực
hiện việc quản lý đất đai của Nhà nước.
Thứ sáu, trong giải quyết tranh chấp về thừa kế QSDĐ, thủ tục hòa giải tại
Ủy ban nhân dân cấp xã là bắt buộc. Tranh chấp thừa kế QSDĐ là tranh chấp đất
đai, mà tranh chấp đất đai phải thơng qua hịa giải ở cơ sở trước khi nộp đơn xin
giải quyết ở cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khác với thừa kế tài sản khác, khi có
tranh chấp, các chủ thể có thể hịa giải trước, cũng có thể nộp đơn khởi kiện ngay.
Ngồi ra, tranh chấp này có khi được giải quyết bằng con đường hành chính qua Ủy
ban nhân dân thay vì bằng thủ tục tịa án. Do quy định của pháp luật đất đai, trong
một số trường hợp nhất định (thường là do giấy tờ chứng minh nguồn gốc đất đai
chưa rõ), tranh chấp phải được giải quyết tại Ủy ban nhân dân.
1.1.3. Xác định di sản thừa kế là quyền sử dụng đất
Trải qua các thời kỳ khác nhau thì quan niệm về di sản thừa kế cũng có
những thay đổi. Theo Sắc lệnh 97-SL ngày 22/5/1950 thì di sản thừa kế bao gồm tài
sản và quyền tài sản. Đến Thông tư 594-NCPL năm 1968 và Thơng tư 81 năm 1981
thì di sản thừa kế bao gồm toàn bộ tài sản, quyền tài sản và nghĩa vụ về tài sản.
Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 quy định di sản thừa kế bao gồm tài sản, quyền tài sản
mà không gồm nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại. Điều 637 Bộ luật Dân sự

năm 1995 quy định “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của
người chết trong tài sản chung với người khác” và “Quyền sử dụng đất cũng thuộc
di sản thừa kế”. Bộ luật Dân sự năm 2005 cũng quy định di sản tương tự như quy
định tại Bộ luật Dân sự năm 1995 nhưng bỏ quy định về quyền sử dụng đất bởi vì
tài sản đã bao gồm quyền tài sản (quyền sử dụng đất) nên không cần quy định thêm.
Nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại chỉ là trách nhiệm cần phải thực hiện
trong phạm vi di sản mà không được coi là di sản thừa kế. Do đó, di sản thừa kế
chính là tồn bộ tài sản của người chết để lại sau khi đã thanh toán nghĩa vụ về tài
10


sản và các chi phí khác. Tài sản bao gồm "vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài
sản", nên quyền sử dụng đất chính là một loại tài sản (quyền tài sản) cũng thuộc di
sản thừa kế. Trước đây theo quy định của Hiến pháp năm 1980, đất đai thuộc sở
hữu tồn dân nên khơng là đối tượng của thừa kế. Từ khi có Hiến pháp năm 1992,
dù đất đai vẫn được quy định thuộc sở hữu toàn dân song người sử dụng đất vẫn
được thực hiện các quyền chuyển nhượng, chuyển đổi, tặng cho, thừa kế quyền sử
dụng đất. Quyền sử dụng đất là quyền phái sinh từ quyền sở hữu đất, trở thành tài
sản của cá nhân và được để lại thừa kế.
Di sản thừa kế là quyền sử dụng đất là tài sản riêng của người chết.
Tài sản riêng là tài sản không bị ràng buộc với các chủ thể khác, thuộc sở
hữu tư nhân gồm thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư
liệu sản xuất, vốn, hoa lợi, lợi tức và các tài sản hợp pháp khác. Tài sản của cá nhân
và di sản thừa kế đã được mở rộng hơn từ khi có chủ trương đổi mới nền kinh tế của
Nhà nước ta, công nhận nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình doanh nghiệp
cùng tồn tại, phát triển bình đẳng. Thông thường để xác định quyền sử dụng đất là
tài sản riêng của mỗi người thì căn cứ vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nếu
giấy chứng nhận chỉ ghi người đó có quyền sử dụng đất, thì nó thuộc riêng người
ghi trong giấy chứng nhận. Nếu giấy chứng nhận dù ghi tên một người nhưng lại là
người được ủy quyền hay đại diện thì quyền sử dụng đất khơng là tài sản riêng của

họ. Trong quá trình giải quyết những vụ việc liên quan đến thừa kế quyền sử dụng
đất, vấn đề xác định di sản thừa kế là quyền sử dụng đất là tài sản riêng hay tài sản
chung của vợ chồng là một trong những việc khó khăn, dễ gây nhầm lẫn. Trong
trường hợp tài sản riêng và tài sản chung của vợ chồng, để xác định được tài sản
nào là chung tài sản nào là riêng phải căn cứ theo quy định của Luật Hôn nhân và
gia đình.
Di sản thừa kế là quyền sử dụng đất là phần tài sản của người chết trong tài
sản chung với người khác
Phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác cũng thuộc di
sản thừa kế. Đây là phần tài sản thuộc hình thức sở hữu chung, gồm sở hữu chung
theo phần và sở hữu chung hợp nhất do được thừa kế chung, tặng cho chung hay
cùng góp vốn để sản xuất kinh doanh... Giống với việc xác định là tài sản riêng của
11


mỗi người, khi xác định phần tài sản quyền sử dụng đất của người chết trong tài sản
chung với người khác có thể căn cứ vào giấy chứng nhận để xác định hình thức là
sở hữu chung hay riêng, diện tích đất, thời hạn sử dụng đất.
1.2. Lý luận pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất
Đất đai như đã phân tích là một tài sản đặc biệt, có vai trò quan trọng trong
đời sống kinh tế - xã hội. Nhất là khi kinh tế ngày càng phát triển, dân số tăng lên,
đất đai lại là tài sản “có hạn” nên đất đai ngày càng có giá trị. Chính vì vậy, pháp
luật phải điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong khi các chủ thể thực hiện quyền
thừa kế QSDĐ.
Pháp luậtgiải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ bao gồm tổng hợp các quy
phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình giải quyết tranh
chấp thừa kế quyền sử dụng đất tại Tòa án khi cá nhân khi họ thực hiện quyền thừa
kế đối với QSDĐ với người được hưởng di sản thừa kế, hoặc quan hệ phát sinh
giữa những người thừa kế với nhau hoặc quan hệ phát sinh giữa người thừa kế với
cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

1.2.2. Nội dung của pháp luật thừa kế quyền sử dụng đất
1.2.2.1. Nguyên tắc thừa kế quyền sử dụng đất
Thứ nhất, nguyên tắc pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân:
Quyền thừa kế là một trong những quyền cơ bản của công dân được nhà
nước bảo hộ. Quy định này đã được khẳng định tại Điều 32 Hiến pháp năm 2013 và
cụ thể hóa tại Điều 609 BLDS năm 2015.
Trước hết, Nhà nước đảm bảo cho mọi cá nhân đều có quyền lập di chúc để
định đoạt tài sản của mình, nếu cá nhân khơng lập di chúc thì tài sản sẽ được tiến
hành dịch chuyển theo quy định của pháp luật thậm chí là quyền từ chối di sản thừa
kế. Mặt khác nhà nước còn bảo hộ quyền thừa kế, thể hiện trong việc đảm bảo cho
mọi cơng dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp của cải để dành, nhà ở, tư liệu
sinh hoạt, tư liệu sản xuất. Do đó tất cả mọi tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp
của cá nhân sẽ trở thành di sản thừa kế khi người đó chết, được nhà nước tơn trọng
và pháp luật bảo vệ. Riêng có QSDĐ về bản chất vẫn được xác định là sở hữu tồn
dân, cịn quyền năng được nhà nước ghi nhận trên thực tiễn với cá nhân là QSDĐ.
12


Thứ hai, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân về thừa kế:
Nguyên tắc này là sự cụ thể hoá một phần của nguyên tắc cơ bản được quy định tại
khoản 1 Điều 16 Hiến pháp 2013 “mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”. Từ sự
quy định mang tính khái quát đó, nên trong chế định riêng về thừa kế: “Mọi cá nhân
đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di
sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”7.
Do vậy khi một bên chết trước, nếu cần chia tài sản chung của vợ chồng thì
"chia đơi", phần tài sản của người chết được chia theo quy định của pháp luật. Ngay
đối với các con, nhà nước ta không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con, các
con có nghĩa vụ và quyền ngang nhau trong gia đình. Chính vì vậy mà con đẻ, con
ni, con riêng, con trong giá thú, con ngoài giá thú, con trai hay con gái, có năng
lực và hành vi dân sự hay khơng có năng lực hành vi dân sự... đều có quyền thừa kế

tài sản của cha mẹ, đều được hưởng thừa kế bằng nhau, nếu di sản thừa kế được
chia theo pháp luật. Tóm lại, mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền thừa kế, là một
nguyên tắc cơ bản trong pháp luật thừa kế nói chung và pháp luật về thừa kế QSDĐ
nói riêng ở Việt Nam. Nó khơng những phản ánh chế độ chính trị nói chung mà
điều quan trọng là nhằm đảm bảo sự bình đẳng của mọi công dân trong lĩnh vực về
thừa kế, tạo được sự đoàn kết tốt giữa các thành viên trong gia đình, góp phần xây
dựng một gia đình ấm no, hạnh phúc, bền vững.
Thứ ba, nguyên tắc tôn trọng quyền định đoạt của người có tài sản, người
hưởng di sản
Đây là nguyên tắc hết sức quan trọng, một mặt đã ghi nhận sự bảo hộ của
pháp luật đối với quyền về thừa kế, mặt khác nó cịn thể hiện một cách đầy đủ nhất
các quyền dân sự chủ quan của mỗi cá nhân trong việc định đoạt toàn bộ tài sản của
mình.
Nội dung của nguyên tắc này được ghi nhận đầy đủ trong pháp luật dân sự,
nó là một trong những nguyên tắc cơ bản của ngành luật dân sự. Đối với cá nhân
người có QSDĐ để lại, họ có quyền lập di chúc để thực hiện quyền định đoạt tài sản

7

Điều 610 Bộ luật Dân sự năm 2015.

13


của mình sau khi chết. Pháp ḷt khơng cho phép bất kỳ ai có hành vi cản trở, cưỡng
ép, đe doạ... người lập di chúc.
Khi thực hiện quyền định đoạt trong di chúc, người lập di chúc có quyền chỉ
định người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của người thừa kế; phân định phần di
sản cho từng người thừa kế, dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ
cúng, giao nghĩa vụ cho người thừa kế, chỉ định người giữ di chúc; người quản lý di

sản, người phân chia di sản.
Trong trường hợp di chúc đã được xác lập, nếu cần có sự thay đổi “ý
nguyện” cũng như nội dung, người lập di chúc còn có quyền sửa đổi, bổ sung, thay
thế hoặc huỷ bỏ di chúc vào bất kỳ lúc nào.
Quyền định đoạt của cá nhân để lại di sản được thể hiện không những trong
việc lập di chúc để định đoạt tài sản của họ, mà cịn thể hịên ngay trong việc họ
khơng lập di chúc để định đoạt tài sản để lại sau khi họ chết. Đây cũng là một cách
thể hiện ý chí của cá nhân bằng việc khơng lập di chúc để định đoạt tài sản của họ,
mà ý chí đó thể hiện ở việc chỉ để lại di sản của họ cho những người có quyền thừa
kế theo pháp luật.
Đối với người thừa kế, pháp luật nước ta quy định người thừa kế có quyền
nhận di sản hoặc từ chối quyền nhận di sản của người thừa kế phù hợp với những
điều kiện, nguyên tắc, thời hạn mà pháp luật đã quy định.
1.2.2.2. Các quy định về điều kiện thừa kế, di sản, thời điểm mở thừa kế
Để thực hiện quyền thừa kế đối với QSDĐ, người để lại thừa kế và người
thừa kế phải đạt được những điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật dân sự
cũng như pháp luật chuyên ngành – luật đất đai.
Theo đó, trong luật đất đai chủ thể sử dụng đất có thể là cá nhân, tổ chức, hộ
gia đình nhưng khi thừa kế QSDĐ chỉ có một đối tượng có quyền này đó là cá nhân
người sử dụng đất. Trước khi chết, nếu có tài sản là QSDĐ hợp pháp theo quy định
của pháp ḷt thì cá nhân có thể thể hiện ý chí của mình (thừa kế theo di chúc) hoặc
nếu khơng lập di chúc thì sau khi họ chết QSDĐ họ đang có sẽ được chia theo trình
tự, điều kiện do luật định (thừa kế theo pháp luật).
Người được hưởng di sản thừa kế cũng được pháp luật dân sự ghi nhận.
Người được hưởng thừa kế theo di chúc là cá nhân, tổ chức được người để lại di sản
14


chỉ định trong di chúc, còn được hưởng thừa kế theo pháp luật thì xét theo diện thừa
kế, hàng thừa kế. Về yêu cầu đối với cá nhân người hưởng di sản cũng phải đảm

bảo theo quy định của pháp luật dân sự: còn sống vào thời điểm mở thừa kế….
Thời điểm mở thừa kế là thời điểm phát sinh quan hệ thừa kế. Theo quy định
của pháp luật tại Khoản 1 Điều 611 BLDS năm 2015 thì “thời điểm mở thừa kế là
thời điểm người có tài sản chết”. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người đã chết thì
thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định theo quy định tại khoản 2 Điều 71
BLDS năm 2015. Xác định thời điểm mở thừa kế là căn cứ xác định thời điểm dịch
chuyển QSDĐ từ cá nhân đang sử dụng đất sang những người hưởng di sản.
Địa điểm mở thừa kế thường được xác định là nơi cư trú cuối cùng của người
để lại di sản; nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế
là nơi có tồn bộ di sản hoặc nơi có phần lớn di sản. Đối với đất đai, không thể dịch
chuyển được nên trong một số ngành luật thì nơi có bất động sản là nơi tiến hành
các giao dịch pháp lý (như TAND nơi có bất động sản sẽ là Tịa có thẩm quyền giải
quyết tranh chấp).
Di sản thừa kế ở đây là tài sản mà người chết để lại cho những người được
hưởng di sản. Di sản thừa kế bao gồm “tài sản riêng của người chết, phần tài sản
của người chết trong tài sản chung của người khác”. Đối với QSDĐ thì xác định
phần di sản ở đây thực sự phức tạp bởi đất khơng phải như tiền, khơng phải như vật
để có thể phân chia. Ví dụ: ơng A và bà B có tài sản chung là quyền sử dụng đối với
153m2 đất ở tại nơng thơn, khi ơng A chết thì di sản về QSDĐ của ông A sẽ là một
nửa QSDĐ đối với 153m2 đất kia. Và việc tiến hành chia di sản sẽ được thực hiện
trên sự trao đổi thống nhất trước giữa những người được hưởng thừa kế nếu ông A
không viết di chúc (có thể là người nhận đất thì thanh tốn giá trị cho những người
khác, hoặc chia đều theo diện tích QSDĐ thuộc phần di sản của ông A cho những
người thừa kế….) hoặc nếu ông A viết di chúc thì phần đất đó được định đoạt theo
ý chí của ơng A và người được hưởng phần di sản sẽ tiến hành đăng ký QSDĐ để
được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ theo quy định của pháp luật.
1.1.4.3. Các quy định về các dạng thừa kế
a. Thừa kế theo di chúc

15



Thừa kế theo di chúc là việc chuyển tài sản của người đã chết cho người thừa
kế theo ý chí tự nguyện của người để lại di sản thể hiện trong di chúc. Di chúc là sự
thể hiện ý chí của cá nhân nhằm dịch chuyển tài sản của mình cho người khác sau
khi chết. Di chúc là hành vi pháp lý đơn phương của người lập di chúc, do đó nó
phải tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của di chúc nói riêng.
Pháp luật về thừa kế nước ta quy định hai hình thức di sản là thừa kế theo di
chúc và thừa kế theo pháp luật. Thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật đồng
thời được áp dụng trong việc phân chia di sản của người chết để lại. Di sản của
người chết có thể vừa được chia theo di chúc, vừa được chia theo pháp luật hoặc di
sản chỉ được chia theo một hình thức là chia hết theo di chúc hoặc chia hết theo
pháp luật. Việc chia thừa kế theo hình thức này hoặc hình thức kia tùy thuộc vào
việc người chết có để lại di chúc hay khơng để lại di chúc hoặc tùy thuộc vào phần
của di chúc khơng có hiệu lực thi hành hoặc tồn bộ di chúc khơng có hiệu lực trong
việc chia di sản của người để lại di chúc.
Di chúc là sự thể hiện ý nguyện cuối cùng của người lập di chúc, do vậy
pháp luật thừa kế tôn trọng và bảo hộ ý nguyện cuối cùng đó của người lập di chúc
trong việc phân chia di sản của người đó cho những người thừa kế được chỉ định
hưởng di sản theo di chúc.
Theo quy định trên, ý chí của một cá nhân nhằm dịch chuyển tài sản của
mình sau khi chết cho người khác được thơng qua một di chúc. Sự thể hiện ý chí
của cá nhân nhằm định đoạt tài sản được thông qua hành vi pháp lý để dịch chuyển
quyền sở hữu của người để lại di sản cho người khác sau khi người này chết. Vì
vậy, di chúc gồm những đặc điểm sau: (i) Di chúc là giao dịch dân sự đơn phương
của cá nhân; (ii) Di chúc có hiệu lực kể từ ngày người lập di chúc chết; (iii) Di chúc
có thể bị sửa đổi hoặc hủy bỏ bất cứ lúc nào; (iv) Di chúc thể hiện sự định đoạt tài
sản bằng một hành vi pháp lý của người lập di chúc; (v) Di chúc phải được thể hiện
dưới một hình thức nhất định.
Đối với cá nhân người để lại tài sản, với tư cách là chủ sở hữu hợp pháp đối

với những tài sản của mình, cá nhân có quyền lập di chúc để thực hiện quyền định
đoạt tài sản của bản thân sau khi họ chết. Quyền định đoạt của người có tài sản lập
di chúc chỉ có hiệu lực khi việc định đoạt bằng di chúc thỏa mãn các điều kiện về di
16


chúc hợp pháp được quy định tại Điều 630 BLDS. Ngoài ra, quyền định đoạt của
người lập di chúc còn được thể hiện thông qua việc truất quyền hưởng di sản của
người thừa kế theo pháp luật như: cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em ruột, ông,
bà, cháu…mà không buộc phải nêu rõ lý do. Nếu người bị truất quyền thừa kế thì
người thừa kế khơng cịn quyền hưởng di sản theo di chúc và theo pháp luật. Nếu
người thừa kế không được chỉ định trong di chúc chưa hẳn đã bị truất quyền hưởng
di sản.
b. Thừa kế theo pháp luật
Nếu sự dịch chuyển di sản căn cứ vào ý chí của người chết để lại thì được
gọi là thừa kế theo di chúc, nếu sự dịch chuyển tài sản của người chết sang cho
người còn sống căn cứ vào quy định của pháp luật thì được gọi là thừa kế theo pháp
luật. Như vậy, thừa kế theo pháp luật được hiểu một cách đơn giản là quá trình dịch
chuyển di sản của người chết sang những người còn sống theo quy định của pháp
luật về thừa kế. Mặt khác, theo quy định của pháp luật thì khi không có căn cứ để
dịch chuyển di sản của người chết theo ý chí của họ thì di sản đó phải dịch chuyển
theo quy định của pháp luật về hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế. Điều 649
Bộ luật Dân sự năm 2015 đã định nghĩa về thừa kế theo pháp luật như sau: “Thừa
kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do
pháp luật quy định”.
Như vậy, quyền để lại di sản và quyền thừa kế là những quyền cơ bản của
công dân được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Trong bất kỳ một xã hội nào ở bất cứ
nhà nước nào, vấn đề thừa kế cũng chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống pháp
luật và bản thân nó cũng phản ánh phần nào bản chất của chế độ xã hội đó. Ở nước
ta, quyền thừa kế của công dân được đề cập ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên, Hiến

pháp năm 1946, trên cơ sở đó tiếp tục được kế thừa, xây dựng để ngày càng hoàn
thiện hơn. Hiện nay, nền kinh tế đất nước ta đang rất phát triển, vấn đề khu vực hóa,
tồn cầu hóa ngày càng mở rộng, cùng với mục tiêu xây dựng một nhà nước pháp
quyền Việt Nam của dân do dân và vì dân, các quyền của con người, quyền công
dân ngày càng được ghi nhận và quy định cụ thể trong các văn bản pháp lý, tối
thượng nhất là Hiến pháp năm 2013 trong đó có quyền thừa kế của người dân đối
tài sản mà người để lại di sản thừa kế cho mình.
17


1.1.4.4. Các quy định về giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ
Tranh chấp đất đai là một hiện tượng bình thường trong đời sống xã hội, cho
đến nay tranh chấp đất đai ln là một vấn đề mang tính thời sự và diễn biến phức
tạp. Ở nước ta trong giai đoạn hiện nay tranh chấp đất đai gây ra những hậu quả
nặng nề, ảnh hưởng xấu đến trật tự, an tồn xã hội, làm xói mịn lịng tin của người
dân đối với đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
Tranh chấp thừa kế QSDĐ là một dạng cụ thể của tranh chấp đất đai.
Theo nghĩa hẹp: Tranh chấp đất đai là tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể
tham gia quan hệ pháp luật đất đai về quyền và nghĩa vụ trong quá trình sử dụng đất
đai.
Theo nghĩa rộng: Tranh chấp đất đai là biểu hiện sự mâu thuẫn, bất đồng
trong việc xác định quyền quản lý, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng đối với đất đai,
xuất phát trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai.
Khi đất đai càng có giá trị, thì các tranh chấp thừa kế QSDĐ tăng lên cả về số
lượng và mức độ nghiêm trọng của các tranh chấp với nhiều dạng tranh chấp khác
nhau, cụ thể:
Thứ nhất: Tranh chấp về quyền thừa kế, là loại tranh chấp di sản do người
chết để lại giữa những người có quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ
nuôi dưỡng, phát sinh từ yêu cầu chia di sản thừa kế là là QSDĐ, quyền yêu cầu xác
nhận quyền thừa kế QSDĐ của mình hoặc quyền yêu cầu bác bỏ quyền thừa kế

QSDĐ của người khác. Khi có tranh chấp thừa kế QSDĐ, thì theo đề nghị của các
bên liên quan đề nghị UBND xã, phường, thị trấn nơi có đất tổ chức hoà giải theo
quy định Điều 202 Luật Đất đai, khoản 1 Điều 88 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 của Chính phủ, nếu việc hồ giải tại UBND xã khơng thành thì các bên
đương sự liên quan có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết là Tồ án có
thẩm quyền theo quy định của BLTTDS. Tuy nhiên không phải là thủ tục bắt buộc.
Thứ hai: Tranh chấp về thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại,
thanh toán các khoản chia di sản có thể là những nghĩa vụ về các khoản tiền người
để lại di sản còn nợ, tiền thuế, tiền phạt, chi phí quản lý di sản, chi phí mai táng phí.
18


Người được hưởng di sản thừa kế phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ này trong
phạm vi giá trị tài sản.
Để giải quyết những tranh chấp đất đai về QSDĐ thì theo quy định tại Luật
Đất đai năm 2013 thì tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp khơng hịa giải được
thì gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để hịa giải. Tranh
chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã mà không thành thì được
giải quyết như sau: (1) Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc
có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật Đất đai năm 2013 và tranh
chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tịa án nhân dân giải quyết; (2) Tranh chấp
đất đai mà đương sự khơng có Giấy chứng nhận hoặc khơng có một trong các loại
giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật Đất đai năm 2013 thì đương sự chỉ được lựa
chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định sau đây:
- Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm
quyền theo quy định của pháp luật;
- Khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật
về tố tụng dân sự;
Mặt khác, tại Điều 3 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP có quy định đối với
các tranh chấp liên quan đến QSDĐ sau đây thì thủ tục hòa giải tại Ủy ban nhân dân

cấp xã nơi có đất tranh chấp không phải là điều kiện khởi kiện vụ án:
- Tranh chấp về giao dịch liên quan đến QSDĐ;
- Tranh chấp về thừa kế QSDĐ;
- Tranh chấp chia tài sản chung của vợ chồng là QSDĐ…
Như vậy, đối với tranh chấp về thừa kế QSDĐ thì thủ tục hịa giải tại Ủy ban
nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp không phải là điều kiện khởi
kiện vụ án. Đồng nghĩa, đối với tranh chấp về thừa kế QSDĐ thì khơng bắt buộc
phải hịa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã trước khi khởi kiện.

19


1.3. Lý luận pháp luật về giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất tại
Tòa án nhân dân
1.3.1. Khái niệm pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án
nhân dân cấp huyện.
Pháp luậtgiải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ bao gồm tổng hợp các quy phạm
pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình giải quyết tranh chấp
thừa kế quyền sử dụng đất tại Tòa án khi cá nhân khi họ thực hiện quyền thừa kế
đối với QSDĐ với người được hưởng di sản thừa kế, hoặc quan hệ phát sinh giữa
những người thừa kế với nhau hoặc quan hệ phát sinh giữa người thừa kế với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.
So với quy định tại khoản 1 Điều 136 Luật Đất đai năm 2003 thì thẩm quyền
giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ của Tòa án được quy định tại khoản 1, 2 Điều
203 Luật Đất đai năm 2013 được mở rộng hơn nhiều, các đương sự có hay khơng có
giấy chứng nhận QSDĐ hoặc khơng có các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật
Đất đai năm 2013 mà lựa chọn khởi kiện đến Tòa án yêu cầu giải quyết, thì Tòa án
thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.
Để tránh việc đương sự gửi đơn đến cả hai cơ quan cùng thụ lý giải quyết
một vụ việc, nên khi Tòa án có thẩm quyền nhận được đơn khởi kiện của đương sự

yêu cầu giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ, thì Tòa án phải hỏi rõ đương sự có
gửi đơn yêu cầu UBND có thẩm quyền giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ đó hay
khơng.
Trường hợp đương sự đã gửi đơn đến hai nơi thì Tòa án phải yêu cầu người
khởi kiện làm văn bản lựa chọn cơ quan có thẩm quyền giải quyết; Trường hợp
người khởi kiện khơng làm được văn bản, ví dụ như không biết chữ…thì Tòa án
phải lập biên bản ghi rõ về việc người khởi kiện lựa chọn cơ quan nào giải quyết.
Trong trường hợp người khởi kiện lựa chọn Tòa án giải quyết thì Tòa án thụ
lý giải quyết theo thủ tục chung, đồng thời có văn bản thơng báo cho UBND có
thẩm quyền đã nhận đơn của đơn sự biết là Tòa án sẽ thụ lý giải quyết theo sự lựa
chọn của đương sự và yêu cầu UBND có thẩm quyền chuyển tồn bộ tài liệu, hồ sơ
giải quyết đơn (nếu có) cho Tòa án; trong trường hợp người khởi kiện lựa chọn
20


UBND có thẩm quyền giải quyết và vụ việc chưa thụ lý thì Tòa án căn cứ vào điểm
đ khoản 1, khoản 2 Điều 192 BLTTDS năm 2015 trả lại đơn khởi kiện và tài liệu
chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện. Tòa án phải có văn bản ghi rõ lý do trả lại
đơn khởi kiện, đồng thời gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp.
Thẩm quyền theo lãnh thổ có thể hiểu là quyền của một Tòa án cụ thể xem
xét giải quyết vụ việc này, được xác định trên cơ sở nơi cư trú, nơi có trụ sở của
một trong các bên đương sự, nơi có bất động sản hoặc nơi phát sinh sự kiện hoặc
các dấu hiệu khác mà pháp luật quy định. Theo quy tại khoản 1 Điều 39 BLTTDS
năm 2015 thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác
định như sau: “a) Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc
nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo
thủ tục sơ thẩm nhưng tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động quy định tại Điều 26,28,30 và 32 của Bộ luật này; b) Các
đương sự có quyền thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú,
làm việc của nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên

đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 26, 28, 30 và 32 của
Bộ luật này; c) Đối tượng tranh chấp là bất động sản thì chỉ Tịa án nơi có bất động
sản có thẩm quyền giải quyết”.
Theo quy định của BLDS thì QSDĐ là bất động sản, nên việc xác định thẩm
quyền theo lãnh thổ trong vụ án tranh chấp thừa kế QSDĐ sẽ được xác định theo
quy định tại điểm c khoản 1 Điều 39 BTTDS, tức là Tòa án nơi có bất động sản có
thẩm quyền giải quyết.
Đối với những vụ án tranh chấp thừa kế QSDĐ, TAND cấp có thẩm quyền
khi giải quyết sẽ phải thu thập chứng cứ, thông tin dữ liệu liên quan đến nguồn gốc,
quá trình sử dụng đất…nhưng những chứng cứ, thông tin, tài liệu này luôn được lưu
giữ ở phòng Tài nguyên và Môi trường cấp huyện, UBND xã, phường, thị trấn nơi
có đất. Do đó, Tòa án nơi có bất động sản sẽ có điều kiện tốt nhất để xem xét, giải
quyết vụ án dân sự. Vì vậy, điểm c khoản 1 Điều 39 BLTTDS năm 2015 quy định
Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết đối với đối tượng tranh chấp là
21


×