Tải bản đầy đủ (.docx) (64 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN THÀNH PHẨM VÀ TIÊU THỤ THÀNH PHẨM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (415.16 KB, 64 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ
TOÁN THÀNH PHẨM VÀ TIÊU THỤ THÀNH PHẨM TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
I.1 -YÊU CẦU QUẢN LÝ VÀ NHIỆM VỤ HẠCH TOÁN THÀNH PHẨM VÀ
TIÊU THỤ THÀNH PHẨM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT.
I.1.1 - Vị trí của doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân
Nền kinh tế quốc dân là một thể thống nhất mà mỗi doanh nghiệp là một đơn vị cơ sở của
hệ thống đó, do vậy mỗi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không chỉ liên quan
chặt chẽ với nhau trong nội bộ doanh nghiệp mà còn có mối liên hệ mật thiết khác với hoạt
động sản xuất kinh doanh của các đơn vị khác trong toàn bộ nền kinh tế, đặc biệt trong hoạt
động tiêu thụ sản phẩm.
Hiện nay với cơ chế mới đã tạo nên môi trường kinh doanh ,môi trường pháp lý để các
doanh nghiệp cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật quy định và các doanh nghiệp muốn tồn
tại và phát triển trong cơ chế mới khắt khe thì phải tạo cho mình một chỗ đứng vững chắc, từ
đó xây dựng cho mình kế hoạch sản xuất, tiêu thụ hợp lý để đảm bảo cho sự phát triển lâu
dài.
Doanh nghiệp sản xuất là nơi trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, cung cấp sản phẩm,
hàng hoá, lao vụ, dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu sản xuất và nhu cầu tiêu dùng của toàn xã
hội.
Doanh nghiệp sản xuất là một tổ chức kinh doanh độc lập, có tư cách pháp nhân, có
quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh
trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội đặt
ra.
I.1.2 - Thành phẩm và yêu cầu quản lý thành phẩm
I.1.2.1- Khái niệm thành phẩm
Sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp sản xuất ra bao gồm : Thành phẩm, nửa thành
phẩm và lao vụ mà doanh nghiệp sản xuất ra để cung cấp thoả mãn cho nhu cầu tiêu dùng của
toàn xã hội. Trong đó, thành phẩm chiếm đại đa số.
Trang 1
Thành phẩm là những sản phẩm đã kết thúc quy trình công nghệ sản xuất do doanh
nghiệp thực hiện hoặc thuê ngoài gia công chế biến , đã được kiểm nghiệm phù hợp với tiêu


chuẩn kỹ thuật và nhập kho để bán.
Nửa thành phẩm là những sản phẩm mới kết thúc một hay một số công đoạn của quy
trình công nghệ sản xuất (chưa qua công đoạn chế biến cuối cùng). Nhưng do yêu cầu của sản
xuất và tiêu thụ nó được nhập kho thành phẩm và khi bán cho khách hàng nó cũng có nghĩa
như thành phẩm.
Khi nói đến thành phẩm và sản phẩm chúng ta có thể dễ hiểu lầm chúng là một, song
thực chất giữa chúng có sự khác nhau khá rõ nét. Nói đến thành phẩm là nói đến kết quả của
quá trình sản xuất gắn với quy trình nhất định trong phạm vi của một doanh nghiệp, còn nói
đến sản phẩm là người ta nói đến kết quả của cả quá trình sản xuất chế tạo ra nó. Về phương
diện sản xuất thì sản phẩm có phạm vi rộng hơn thành phẩm, do đó khi đề cập đến sản phẩm
của một doanh nghiệp nào đó, nó có thể bao gồm cả thành phẩm và nửa thành phẩm.
Việc phân định chính xác các khái niệm trên có ý nghĩa hết sức quan trọng và thực sự cần
thiết vì nó giúp cho doanh nghiệp trong việc tập hợp chi phí sản xuất và tính đúng giá thành
sản phẩm hoàn thành, từ đó đánh giá được mức độ hoàn thành kế hoạch sản xuất cũng như
xác định chính xác kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị .
Thành phẩm thường được biểu hiện trên hai mặt : số lượng và chất lượng. Số lượng của
thành phẩm được xác định bằng các đơn vị đo lường như : kg, lít, mét, cái, bộ....
Chất lượng của thành phẩm phản ánh giá trị sử dụng của thành phẩm và được xác định
bằng tỷ lệ phần trăm tốt xấu hoặc phẩm cấp ( loại I, II, III...) của sản phẩm.
Như vậy thành phẩm là thành quả lao động sáng tạo của toàn thể cán bộ công nhân viên
trong doanh nghiệp. Do đó mọi tổn thất của thành phẩm đều ảnh hưởng tới quá trình tiêu thụ,
tới việc thực hiện các hợp đồng đã ký kết và còn làm giảm thu nhập của từng cán bộ công
nhân viên cũng như toàn doanh nghiệp. Vì vậy thành phẩm cần được bảo vệ an toàn, tức là
cần được doanh nghiệp quản lý một cách chặt chẽ, tránh mất mát, hư hỏng...
I.1.2.2- Yêu cầu quản lý thành phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất
Do thành phẩm là thành quả lao động sáng tạo của toàn thể cán bộ công nhân viên trong
doanh nghiệp mà có, nên cần được quản lý chặt chẽ và được bảo quản tốt. Tuy nhiên đã là
thành quả lao động thì không riêng gì thành phẩm mà bất cứ thành quả lao động nào chúng ta
đều phải trân trọng bảo vệ nó.
Với thành phẩm để tránh được mất mát, hư hỏng , tránh được những tổn thất lớn có thể

xảy ra thì yêu cầu quản lý thành phẩm đối với mọi doanh nghiệp là một việc làm cần thiết.
Trang 2
Trước hết phải quản lý về mặt số lượng thành phẩm, và để quản lý về số lượng thành
phẩm cần phải thường xuyên giám sát tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất, tình hình nhập,
xuất, tồn thành phẩm, dự trữ thành phẩm; kịp thời phát hiện các trường hợp ứ đọng lâu trong
kho không tiêu thụ được để có biện pháp giải quyết nhanh chóng .
Bên cạnh việc quản lý thành phẩm về mặt số lượng thì việc quản lý thành phẩm về mặt
chất lượng là một yêu cầu không thể thiếu được và không thể không làm, đặc biệt là trong
điều kiện như hiện nay. Mục đích cuối cùng của việc sản xuất là làm sao tiêu thụ được thành
phẩm và tiêu thụ càng nhiều càng tốt. Muốn thực hiện được việc đó, mỗi doanh nghiệp phải
sản xuất được những thành phẩm có chất lượng cao, hình thức đẹp, phong phú về chủng loại,
mẫu mã, kiểu dáng phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng.
I.1.3 - Tiêu thụ và yêu cầu quản lý tiêu thụ thành phẩm
I.13.1- Tình hình tiêu thụ thành phẩm ở các doanh nghiệp sản xuất từ khi chuyển sang nền
kinh tế thị trường :
Sản phẩm của các doanh nghiệp sản xuất ra mang tính chất là sản phẩm hàng hoá doanh
nghiệp, phải tổ chức tiêu thụ sản phẩm để thu tiền về, như vậy có thể thấy rằng các doanh
nghiệp không những có nhiệm vụ sản xuất ra sản phẩm mà còn có nhiệm vụ tổ chức tiêu thụ
sản phẩm đó.
Để thực hiện việc tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp cũng phải bỏ ra những chi phí nhất
định, tuỳ theo việc ký kết hợp đồng tiêu thụ. Doanh nghiệp có thể phải bỏ ra những chi phí
phục vụ như : chi phí đóng gói sản phẩm, vận chuyển, bốc dỡ... Mặt khác, trong điều kiện
cạnh tranh, thị trường hàng hoá ngày càng đa dạng phong phú , để sản xuất và tiêu thụ được
sản phẩm thì các doanh nghiệp còn phải bỏ ra chi phí nghiên cứu thị trường, quảng cáo giới
thiệu sản phẩm... Có như vậy mới có thể đảm bảo cho quá trình tiêu thụ một cách thông suốt.
Vậy, tiêu thụ chính là quá trình thực hiện trao đổi thông qua các phương tiện thanh toán
để thực hiện giá của sản phẩm hàng hoá ... tức là chuyển hoá vốn của doanh nghiệp từ hình
thái hiện vật sang hình thái tiền tệ.
Số tiền mà doanh nghiệp thu được từ việc bán sản phẩm hàng hoá cho khách hàng được
gọi là doanh thu tiêu thụ ( Doanh thu bán hàng ).

Trong nền kinh tế thị trường, việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá , dịch vụ là hoàn toàn dựa
trên nguyên tắc doanh nghiệp chấp nhận bán - khách hàng chấp nhận mua. Tuy nhiên để quá
trình này được thực hiện một cách nhanh chóng thì còn thể hiện ở nhiều mặt như : giá cả,
mẫu mã, hình thức và nhu cầu khách hàng...
Trang 3
Như vậy trong cơ chế thị trường sau khi sản phẩm sản xuất song thì vấn đề tiêu thụ được
mọi doanh nghiệp đặt lên hàng đầu bởi chính nó quyết định đến sự tồn tại phát triển cũng như
sự sống còn của doanh nghiệp . Sản phẩm được thị trường chấp nhận tức là được tiêu thụ thì
doanh nghiệp mới có khả năng bù đắp được chi phí sản xuất, cũng như những chi phí khác
đồng thời thực hiện nghĩa vụ với nhà nước và tiếp tục chu kỳ sản xuất tiếp theo
I.1.3.2- Yêu cầu quản lý tiêu thụ thành phẩm
Quản lý khâu tiêu thụ ( hay bán hàng ) là một yêu cầu thực tế bởi nó xuất phát từ thực tế
của doanh nghiệp .Có quản lý tốt khâu tiêu thụ thì doanh nghiệp mới hoàn thành kế hoạch
tiêu thụ của mình .Do vậy vấn đề dặt ra cho mỗi doanh nghiệp trong việc quản lý tiêu thụ là :
- Phải quản lý chặt chẽ về khối lượng, chất lượng ,chủng loại hoặc mặt hàng cũng như
chi phí phát sinh cho từng loại.
- Phải theo dõi chặt chẽ từng phương thức bán hàng, từng thể thức thanh toán và từng
khách hàng.
- Phải tính đúng ,tính đủ và hợp lý giá thành tực thế từng loại thành phẩm từ đó xác định
giá bán ,sao cho vừa bù đắp chi phí bỏ ra vừa có lãi .
- Phải đôn đốc việc thanh toán tiền hàng, thu hồi nhanh tiền vốn bỏ ra tránh những khoản
nợ lớn ,dây dưa.
- Phải xác định đúng doanh thu bán hàng ,từ đó tính đúng số thuế phải nộp và làm nghĩa
vụ với nhà nước.
Để tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp đều phải tìm mọi cách
để thúc đẩy quá trình tiêu thụ . Muốn vậy các doanh nghiệp phải tạo ra những sản phẩm phù
hợp với nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng , phải tích cực nghiên cứu thị trường để tìm ra
sản phẩm mà khách hàng cần chứ không phải doanh nghiệp cần, đồng thời phải thật sự coi
trọng khách hàng, có như vậy doanh nghiệp mới có chỗ đứng vững vàng trong cơ chế hiện
nay.

I.1.4 - Vai trò và nhiệm vụ của kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm :
I.2.1 - Vai trò của kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm
Thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm là hai mặt hoạt động độc lập với nhau trong một quá
trình sản xuất kinh doanh . Nói đến thành phẩm là người ta nói đến kết quả của quá trình sản
xuất chế tạo ra nó ,còn nói đến tiêu thụ thành phẩm thì người ta nói đến quá trình bán các
thành phẩm ra ngoài để thu tiền về . Một doanh nghiệp muốn hoàn thành một chu kỳ sản xuất
kinh doanh, doanh nghiệp không chỉ dừng lại ở việc sản xuất mà còn phải tổ chức tiêu thụ sản
phẩm đó sao cho kịp thời. Như vậy giữa kế hoạch sản xuất và kế hoạch tiêu thụ sản phẩm có
Trang 4
mối liên hệ chặt chẽ với nhau ,tác động qua lại lẫn nhau .Nếu kế hoạch sản xuất sản phẩm
hoàn thành thì coi như kế hoạch tiêu thụ được thực hiện và ngược lại kế hoạch sản xuất sản
phẩm không theo đúng tiến độ thì kế hoạch tiêu thụ coi như bị phá vỡ điều này ảnh hưởng rất
lớn tới quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp .
Qua đó có thể thấy sản xuất là cơ sở của tiêu thụ ,không có sản xuất tất yếu sẽ không có
tiêu thụ và sản xuất ra mà không tiêu thụ được thì doanh nhgiệp sẽ bị thua lỗ trong kinh
doanh .Nhận thức được vấn đề đó mà nhiệm vụ đặt ra cho kế toán thành phẩm và tiêu thụ
thành phẩm là phải luôn gắn liền với nhau ,thực hiện tốt nhiệm vụ này sẽ là tiền đề cho nhiệm
vụ kia được thực hiện. Để phát huy vai trò của kế toán trong việc quản lý ,chỉ đạo sản xuất
kinh doanh thì kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm cần phải thực hiện được những
nhiệm vụ sau :
- Tổ chức theo dõi, phản ánh chính xác, đầy đủ, kịp thời và giám đốc chặt chẽ về tình
hình hiện có, sự biến động của từng loại thành phẩm trên cá hai mặt hiện vật và giá trị
- Theo dõi, phản ánh và giám đốc chặt chẽ quá trình tiêu thụ ,ghi chép đầy đủ, kịp thời
các khoản chi phí bán hàng ,thu nhập bán hàng và các khoản thu nhập khác .
- Xác định chính xác kết quả của từng loại hoạt động trong doanh nghiệp, phản ánh và
giám đốc tình hình phân phối kết quả ,đôn đốc thực hiện nghĩa vụ với nhà nước.
- Cung cấp những thông tin kinh tế cần thiết cho những bộ phận có liên quan .Đồng thời
định kỳ tiến hành phân tích kinh tế đối với hoạt động bán hàng, thu nhập và phân phối kết quả
của doanh nghiệp.
Thực hiện tốt các nhiệm vụ trên có ý nghĩa rất lớn đối với việc tổ chức kế toán thành

phẩm và tiêu thụ thành phẩm của doanh nghiệp .
I.4.2 - ý nghĩa của việc tổ chức kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm
Trong sản xuất kinh doanh ,việc tổ chức kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đối với doanh nghiệp. Bởi chính khâu này nó liên quan trực tiếp
đến kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp .Nếu khâu này tổ chức tốt sẽ cung cấp cho
nhà quản lý những thông tin hữu ích, từ đó gúp nhà quản lý biết được mức độ hoàn thành kế
hoạch sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp ,biết được sản phẩm của doanh nghiệp có đáp ứng
được nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng không biết được doanh thu về tiêu thụ là bao nhiêu
và số thuế phải nộp cho nhà nước như thế nào...Đồng thời còn gúp cho nhà quản lý trong việc
hoạch định chiến lược sản xuất và lựa chọn phương án sản xuất sản phẩm đạt hiệu quả cao.
bên cạnh đó làm tốt công việc này sẽ tạo ra một hệ thống quản lý chặt chẽ , khoa học và hợp
lý .Tuy nhiên nếu khâu này không làm tốt cũng ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả sản xuất kinh
Trang 5
doanh của cả doanh nghiệp, chẳng hạn nếu không phát hiện kịp thời những sai sót trong quá
trình hoạch toán dẫn đến kết quả sản xuất không đúng với thực tế ,từ đó nhà quản lý có những
nhận định sai lầm.
Việc tổ chức khoa học kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm là rất cần thiết, nó
không những gúp cho doanh nghiệp hoàn thành kế hoạch sản xuất kinh doanh mà còn xác
định đúng kết quả sản xuất của doanh nghiệp .
I.2 - NỘI DUNG KẾ TOÁN THÀNH PHẨM
I.2.1- Yêu cầu của kế toán thành phẩm .
Thành phẩm của doanh nghiệp thường rất đa dạng, phong phú bởi lẽ một doanh nghiệp
muốn đứng vững và tăng thêm thu nhập thì không chỉ dừng lại ở việc sản xuất ra một mặt
hàng duy nhất mà có thể có thể sản xuất ra nhiều mặt hàng khác nhau ,trong mỗi mặt hàng có
thể chia thành nhiều loại nhiều thứ...Do đó để quản lý và theo dõi cũng như để hạch toán một
cách chính xác ,khoa học thì kế toán thành phẩm cần phải thực hiện đầy đủ các yêu cầu sau :
- Phải tổ chức kế toán tiêu thụ theo từng loại ,từng thứ ,từng đơn vị sản xuất và theo đúng
số lượng cũng như chất lượng của thành phẩm.
- Khi hạch toán nhập, xuất kho thành phẩm, kế toán thành phẩm phải phản ánh theo giá
trị thực tế.

+ Thành phẩm do các bộ phận sản xuất chính ,phụ của đơn vị sản xuất ra phải được
đánh giá theo giá thành công xưởng bao gồm : CPNLVLTT; CPNCTT và CPSXC.
+ Thành phẩm thuê ngoài gia công chế biến thì được đánh giá theo giá thành thực tế gia
công bao gồm : CPNLVLTT,CP thuê gia công, chi phí khác liên quan trực tiếp đến quá trình
gia công ...
- Nếu hạch toán chi tiết nhập, xuất kho thành phẩm hàng ngày được ghi sổ theo giá hạch
toán ( giá thành kế hoạch hoặc giá nhập kho thống nhất quy định ) . Cuối tháng kế toán phải
tính giá thành thực tế của thành phẩm nhập kho và xác định hệ số chênh lệch giữa giá thực tế
và giá hạch toán của thành phẩm ( Tính cả số chênh lệch của thành phẩm tồn kho đầu kỳ )
làm cơ sở xác định giá thành thực tế của thành phẩm xuất bán trong kỳ .
- Phải kết hợp ghi chép kế toán thành phẩm giữa phòng kế toán với nhân viên hạch toán
phân xưởng ,giữa kế toán thành phẩm với thủ kho thành phẩm nhằm đảm bảo cho số liệu kế
toán thành phẩm được chính xác , kịp thời ,phục vụ cho việc quản lý thành phẩm chặt chẽ .
I.2.2- Phương pháp đánh giá thành phẩm .
Trang 6
Về nguyên tắc thành phẩm phải được phản ánh theo trị giá vốn thực tế. Tuy nhiên trong
quá trình hạch toán ,tuỳ từng điều kiện cụ thể ở doanh nghiệp mà khi tổ chức kế toán thành
phẩm người ta có thể sử dụng một trong hai cách sau :
- Đánh giá thành phẩm theo giá thực tế .
* Đối với thành phẩm nhập kho : giá thực tế được xác định với từng nguồn nhập :
- Nếu thành phẩm do doanh nghiệp sản xuất chế tạo ra được đánh giá theo giá thành công
xưởng thực tế ( giá thành sản xuất thực tế ) bao gồm : Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi
phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung.
- Nếu thành phẩm thuê ngoài gia công được đánh giá theo giá thành thực tế gia công bao
gồm : Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp ( đem gia công ), chi phí thuê gia công và các chi phí
khác có liên quan trực tiếp đến quá trình gia công.
- Trường hợp mua ngoài ( nếu có ) thì được tính theo tỷ giá vốn thực tế ( tương tự như vật
tư mua ngoài ).
* Đối với thành phẩm xuất kho :
Phải được đánh giá theo giá thực tế ,tuy nhiên do thành phẩm nhập từ các nguồn hay các

đợt nhập với giá khác nhau cho nên việc xác định giá thực tế xuất kho có thể có thể áp dụng
một trong các phương pháp sau :
- Tính theo đơn giá thực tế bình quân gia quyền (của thành phẩm tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ
) : Theo phương pháp này thì giá thực tế thành phẩm xuất kho được tính trên cơ sở số lượng
thành phẩm xuất kho và đơn giá thực tế bình quân thành phẩm để tính :
Giá thực tế xuất kho = Số lượng xuất kho x đơn giá thực tế bình quân
Giá thực tế tồn đầu kỳ + Giá thực tế nhập trong kỳ
Số lượng tồn đầu kỳ + Số lượng nhập trong kỳ
- Tính theo đơn giá thực tế từng loại thành phẩm theo từng lần nhập (giá thực tế đích danh )
Theo phương pháp này đòi hỏi phải quản lý theo dõi thành phẩm theo từng lô, từng mặt hàng.
khi xuất thành phẩm thuộc lô hàng nào căn cứ vào số lượng xuất kho và đơn giá nhập kho
thực tế của lô hàng đó để xác định giá thực tế xuất kho.
- Tính theo đơn giá thực tế tồn cuối kỳ trước :
Theo phương pháp này thì giá thực tế thành phẩm xuất kho được tính trên cơ sở số lượng
thành phẩm xuất kho và đơn giá thực tế thành phẩm tồn đầu kỳ ( Cuối kỳ trước ) :
Giá thực tế xuất kho = Số lượng xuất kho x đơn giá tồn đầu kỳ
- Tính theo đơn giá thực tế nhập trước ,xuất trước :
Trang 7
Đơn giá thực tế bình quân =
Theo phương pháp này phải xác định được đơn giá thực tế nhập kho của từng lần nhập và giả
thiết loại thành phẩm nào nhập kho trước thì xuất trước. Sau đó căn cứ vào số lượng xuất kho
để tính ra giá thực tế xuất kho theo nguyên tắc : Tính theo đơn giá thực tế nhập trước đối với
lượng xuất kho thuộc lần nhập trước, số còn lại ( Tổng số xuất kho - số đã xuất thuộc lần
nhập trước ). được tính theo đơn giá thực tế lần nhập tiếp theo. Như vậy giá thực tế của thành
phẩm tồn cuối kỳ chính là giá thực tế của thành phẩm nhập kho các lần nhập sau cùng.
- Tính theo đơn giá thực tế nhập sau , xuất trước
Theo phương pháp này cũng phải xác định được đơn giá thực tế nhập kho của từng lần nhập
và giả thiết loại thành phẩm nào nhập kho sau thì xuất trước. Sau đó căn cứ vào số lượng xuất
kho để tính ra giá thực tế xuất kho theo nguyên tắc : Tính theo đơn giá thực tế của lần nhập
sau cùng đối với lượng xuất kho thuộc lần nhập sau cùng, số còn lại được tính theo đơn giá

thực tế của lần nhập trước đó. Như vậy giá thực tế của thành phẩm tồn cuối kỳ chính là giá
thực tế của thành phẩm nhập kho các lần nhập đầu kỳ.
- Đánh giá thành phẩm theo giá hạch toán .
Để ghi chép kịp thời trị giá thành phẩm nhập, xuất thì doanh nghiệp cần sử dụng một loại giá
ổn định trong một thời gian dài , gọi là giá hạch toán .Giá có thể chọn hoặc làm cơ sở xây
dựng giá hạch toán là giá thành kế hoạch hoặc giá thành thực tế tại một thời kỳ nào đó.
Cuối kỳ tổng hợp giá thực tế thành phẩm nhập kho ,xác định hệ số giá từng loại thành phẩm
và tính giá thực tế thành phẩm xuất kho trong kỳ theo công thức sau :
Trị giá thực tế của thành phẩm Trị giá hạch toán của Hệ số giá
xuất kho trong kỳ = TP xuất kho trong kỳ X thành phẩm
Trong đó :
Trị giá thực tế của Trị giá thực tế của
TP tồn đầu kỳ + TP nhập trong kỳ
Hệ số giá TP =
Trị giá hạch toán + Trị giá hạch toán của
của TP tồn đầu kỳ TP nhập trong kỳ

I.2.3 - Kế toán chi tiết thành phẩm.
- Kế toán chi tiết thành phẩm: Được thực hiện tại kho và phòng Kế toán của doanh nghiệp.
Nội dung chủ yếu của kế toán chi tiết thành phẩm là nhằm theo dõi chi tiết cho từng loại, từng
nhóm, thậm chí đến từng thứ thành phẩm trên cả hai chỉ tiêu : hiện vật và giá trị.
I.2.3.1 – Chứng từ sử dụng
Trang 8
Mọi nghiệp vụ biến động của thành phẩm đều phải được ghi chép, phản ánh vào chứng
từ ban đầu phù hợp và theo đúng những nội dung đã qui định.
Các chứng từ chủ yếu gồm :
Phiếu nhập kho 01-VT , Phiếu xuất kho 02-VT, Thẻ kho 06-VT, Hoá đơn GTGT
Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ . . . .
Trên cơ sở chứng từ kế toán về sự biến động của thành phẩm để phân loại, tổng hợp và ghi
vào sổ kế toán thích hợp. Những chứng từ liên quan đến kế toán nhập, xuất kho thành phẩm

nêu trên đều phải được chuyển vào phòng Kế toán của doanh nghiệp theo đúng thời hạn quy
định và tất nhiên phải được kế toán thành phẩm kiểm tra tính hợp lý, hợp lệ và hợp pháp
trước khi được sử dụng để ghi sổ kế toán.
Trang 9
Thẻ kho
Bảng kê tổng hợp nhập- xuất- tồn
Chứng từ nhập
Chứng từ xuất
(2)
Bảng kê nhập
Bảng kê xuất
(3)
(4)
(1)(1)
(2)
(3)
I.2.3.2 – Phương pháp kế toán chi tiết thành phẩm
- Phương pháp ghi sổ song song.
Theo phương pháp ghi thẻ song song và việc hạch toán chi tiết này được tiến hành như sau :
Ở kho : Việc ghi chép tình hình nhập-xuất-tồn kho hàng ngày do thủ kho tiến hành trên
thẻ kho và chỉ ghi theo số lượng.
Hàng ngày , thủ kho nhận được các chứng từ nhập-xuất thủ kho tiến hành tính hợp lý, hợp
pháp của chứng từ rồi tiến hành nhập, xuất kho theo yêu cầu của chứng đó . Sau đó thủ kho
căn cứ vào các chứng từ này để ghi vào thẻ kho số lượng thành phẩm nhập, xuất thực tế .
Cuối ngày tính ra số tồn kho còn lại. Định kỳ thủ kho gửi ( hoặc kế toán xuống kho nhận ) các
chứng từ nhập-xuất đã được phân loại theo từng thứ, loại, thành phẩm.
Ở phòng kế toán : Kế toán sử dụng sổ chi tiết thành phẩm để ghi chép tình hình nhập-xuất-
tồn kho theo chỉ tiêu hiện vật và giá trị về cơ bản sổ chi tiết thành phẩm giống như thẻ kho
như có thêm các cột để ghi chép chỉ tiêu hiện vật và giá trị .
Cuối tháng kế toán cộng sổ chi tiết thành phẩm và kiểm tra đối chiếu với thẻ kho. Ngoài ra để

có số liệu đối chiếu, kiểm tra với kế toán tổng hợp cần phải tổng hợp số liệu kế toán chi tiết
từ các sổ chi tiết vào bảng tổng hợp nhập-xuất-tồn kho thành phẩm theo từng nhóm từng loại
thành phẩm .
Sơ đồ phương pháp ghi thẻ song song:
Ghi hàng ngày hoặc định kì
Đối chiếu kiểm tra
Ghi cuối tháng
Trang 10
Thẻ kho
Chứng từ
xuất kho
Chứng từ
nhập kho
Sổ KT chi tiết
Bảng TH N-X-T kho
Ưu điểm: Ghi chép đơn giản, dễ kiểm tra đảm bảo độ tin cậy cao của thông tin, chu chuyển
thông tin nhanh.
Trang 11
Thẻ kho
Bảng kê tổng hợp nhập- xuất- tồn
Chứng từ nhập
Chứng từ xuất
(2)
Bảng kê nhập
Bảng kê xuất
(3)
(4)
(1)(1)
(2)
(3)

Nhược điểm: Sự ghi chép trùng lặp
Điều kiện áp dụng: áp dụng cho các doanh nghiệp có ít chủng loại TP, sự biến động TP ít.
+ Phương pháp ghi sổ đối chiếu luân chuyển
Cũng giống như phương pháp ghi thẻ song song chỉ khác là khi nhận được chứng từ,
kế toán chỉ phân loại, tổng hợp lại lên các bảng kê nhập - xuất thành phẩm cuối tháng trên cơ
sở tổng hợp ghi trên sổ tổng hợp kế toán ghi sổ đối chiếu luân chuyển đồng thời đối chiếu với
thủ kho và kế toán tổng hợp thành phẩm.
Sơ đồ kế toán chi tiết thành phẩm theo phương pháp đối chiếu luân chuyển.
Ghi chú: Ghi hàng ngày
Đối chiếu
Ghi cuối tháng
Ưu điểm: Khối lượng ghi chép ít, đảm bảo cng cấp thông tin kịp thời phục vụ
cho yêu cầu quản lý. Số liệu được kiểm tra kịp thời.
Nhược điểm: Phòng kế toán không nắm được tình hình biến động của từng loại
thành phẩm theo chỉ tiêu số lượng.
Điều kiện áp dụng: phù hợp với các doanh nghiệp có quy mô lớn, nhiều thành phẩm
xuất nhập thường xuyên với số lượng lớn
+ Phương pháp số số dư.
Trang 12
Thẻ kho
Sổ số dư
Chứng từ nhập
Chứng từ xuất
(2)
Bảng kê nhập
Bảng kê xuất
(5)
(1)(1)
(2)
Bảng luỹ kế nhập

Bảng luỹ kế xuất
Bảng kê tổng hợpnhập - xuất - tồn
(3)
(3)
(6)
(4)
(4)
Sơ đồ kế toán chi tiết thành phẩm theo phương pháp sổ số dư.
Ghi chú:
Ghi hàng ngày
Ghi hàng tháng
Đối chiếu
- Ở kho: Thủ kho cũng dùng thẻ kho để ghi chép tình hình nhập - xuất - tồn nhưng cuối tháng
phải ghi rõ tồn kho đã tính trên thẻ kho sang sổ số dư vào cột số lượng.
- Ở phòng kế toán: Kế toán mở sổ số dư trong từng kho cho cả năm để theo dõi tình hình
nhập - xuất - tồn kho. từ các bảng kế nhập bảng kê xuất kế toán lập bảng luỹ kế nhập, luỹ kế
xuất nhập bảng tổng hợp xuất nhập, loại thành phẩm theo chỉ tiêu giá trị.
I.2.4 - Kế toán tổng hợp thành phẩm.
Kế toán tổng hợp thành phẩm được sử dụng nhằm để tổng quát tình hình nhập, xuất, tồn
kho toàn bộ thành phẩm theo số tiền. Tuy nhiên, để kế toán tổng hợp thì kế toán phải mở tài
khoản kế toán và sổ kế toán tổng hợp.
* Tài khoản được dùng để hạch toán tổng hợp thành phẩm chủ yếu là :
TK 155 ″ thành phẩm″
Trang 13
TK 632 ″giá vốn hàng bán″
TK 157 ″hàng gửi đi bán″
- TK 155 ″thành phẩm″ :
Dùng để phản ánh giá trị hiện có và tình hình biến động của các loại thành phẩm của
doanh nghiệp.
- TK 632 ″giá vốn hàng bán″ :

Dùng để phản ánh trị giá vốn của thành phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ xuất bán trong
kỳ.
 Trình tự kế toán tổng hợp các nghiệp vụ chủ yếu về thành phẩm ( sơ đồ )
- Trường hợp doanh nghiệp hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên

TK 154 TK 632
Thành phẩm sản xuất xong đem bán không qua kho

TK 155

Giá thành thực tế thành phẩm nhập kho Giá thành thực tế thành phẩm
do doanh nghiệp sản xuất hoặc thuê xuất kho ,xuất giao bán cho
 
ngoài gia công chế biến khách hàng,xuất để trả lương
công nhân viên ,để đổi vật
tư hàng hoá

TK 338(1) TK138(1)

Thành phẩm thừa Thành phẩm thiếu
chưa rõ nguyên nhân chưa rõ nguyên
chờ giải quyết nhân chờ sử lý

TK157
Giá thành Trị giá vốn của
thực tế xuất thành phẩm
kho thành gửi bán nay
phẩm gửi đi xác định là
bán hoặc xuất tiêu thụ
gửi đại lý

ký gửi
Trang 14

Thành phẩm sản xuất song gửi bán không qua kho

Ưu điểm : Giám đốc chặt chẽ tình hình tăng ,giảm và trị giá thành phẩm tồn kho trên sổ
sách kế toán có thể được xác định ở bất kỳ thời điểm nào trong kỳ kế toán.
Nhược điểm : Khối lượng thành phẩm nhiều và phức tạp.
Điều kiện áp dụng : Phù hợp với những DNSX ( công nghiệp nhẹ, công nghiệp xây lắp... )
có giá trị sản phẩm lớn .
- Trường hợp doanh nghiệp hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kiểm kê định kỳ .
TK155 TK 632 TK 155
K/c trị giá thành phẩm tồn Cuối kỳ xác định trị giá thành

đầu kỳ vào giá vốn phẩm tồn kho cuối kỳ
TK 157 TK 157
K/c trị giá thành phẩm đã gửi Cuối kỳ ,xác định thành phẩm gửi
bán chưa xác định là tiêu thụ bán nhưng chưa xác định là tiêu thụ

TK 631 TK 911
ZTTTP hoàn thành nhập kho Kết chuyển giá vốn đã xác định
hoặc bán không qua kho là tiêu thụ ,xác định KQKD
Ưu điểm : Phương pháp này đơn giản , giảm được khối lượng công việc hạch toán .
Nhược điểm : Độ chính xác của trị giá thành phẩm xuất kho không cao.
Điều kiện áp dụng : Phù hợp với những loại doanh nghiệp có quy mô nhỏ khối lượng lớn
chủng loại quy cách khác nhau sản phẩm có giá trị thấp .
I.3 - Tổ chức kế toán tiêu thụ thành phẩm ( bán hàng )
I.3.1- Các phương thức bán hàng và chứng từ sử dụng để bán hàng
- Các phương thức bán hàng.
Trang 15

Bán hàng trong các doanh nghiệp sản xuất chủ yếu là bán những sản phẩm do
doanh nghiệp sản xuất ra, quá trình này gồm hai mặt :
Doanh nghiệp cung cấp hàng cho khách hàng còn khách hàng thanh toán tiền hàng theo
giá đã thoả thuận trước. Tuy nhiên việc thanh toán tiền hàng có thể diễn ra đồng thời (thu tiền
trực tiếp ) hoặc không đồng thời ( thu sau- bán chịu ). Trong cơ chế thị trường hiện nay, việc
tiêu thụ sản phẩm thường rất khó khăn bởi vì cùng một loại sản phẩm nhưng có nhiều hãng
sản xuất ra, do đó để chiếm lĩnh được thị trường các doanh nghiệp phải không ngừng nâng
cao chất lượng sản phẩm cải tiến mẫu mã, hình thức sao cho phù hợp với nhu cầu, thị hiếu
người tiêu dùng và tất nhiên phải đẩy mạnh chiến lược Maketing của mình. Bên cạnh đó việc
lưa chọn và áp dụng các phương thức bán hàng phù hợp góp phần không nhỏ vào mức độ
hoàn thành kế hoạch tiêu thụ của doanh nghiệp .
Hiện nay các doanh nghiệp thường sử dụng các phương thức bán hàng sau :
+ Bán hàng thu tiền trực tiếp : Theo phương thức này thì căn cứ vào hợp đồng đã ký kết
bên mua cử cán bộ đến nhận hàng tại kho của doanh nghiệp .Khi nhận hàng song người nhận
ký vào hoá đơn bán hàng ... khi đó hàng đó mới được doanh nghiệp coi là tiêu thụ và hạch
toán vào doanh thu ngay .
+ Bán chịu ( bán trả chậm ) : Theo phương thức này, khi doanh nghiệp chuyển quyền sở
hữu sản phẩm cho khách hàng ,khách hàng chấp nhận thanh toán ( nhưng chưa thanh toán )
.khi xuất giao hàng cho khách hàng ,doanh nghiệp cũng xác định là tiêu thụ và tính vào doanh
thu ngay .
+ Bán theo phương thức xuất kho gửi hàng đi bán : Khi xuất kho sản phẩm gửi đi bán
cho khách hàng nhưng số lượng sản phẩm đó vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, nên
chưa xác định là tiêu thụ, do đó chưa được hạch toán vào doanh thu ngay .
+ Bán theo phương thức bán lẻ. Chủ yếu áp dụng với những cửa hàng, quầy hàng bán lẻ
sản phẩm, do đó sản phẩm đó cũng hạch toán vào doanh thu .
- Các chứng từ sử dụng để bán hàng.
Trong quá trình bán hàng, kế toán phải lập, thu thập đầy đủ các chứng từ phù hợp theo
đúng nội dung đã quy định ,sở dĩ phải làm như vậy là nhằm để đảm bảo cơ sở pháp lý cho
việc ghi sổ kế toán, đồng thời đảm bảo cho yêu cầu quản lý kinh tế tài chính, quản lý bán
hàng và để xác định đúng kết quả bán hàng của doanh nghiệp.

Các chứng từ chủ yếu sử dụng trong kế toán tiêu thụ sản phẩm ( bán hàng ) :
- Hoá đơn bán hàng ( Giá trị gia tăng )
- Phiếu thu tiền mặt
- Giấy báo có của ngân hàng
Trang 16
- Bảng thanh toán hàng gửi đại lý ...
I.3.2 – Phương pháp kế toán tiêu thụ thành phẩm.
- Tài khoản sử dụng trong kế toán bán hàng
+ TK 511 '' Doanh thu bán hàng '' Phản ánh doanh thu bán hàng thực tế của doanh nghiệp
trong kỳ.
+ TK512 '' Doanh thu bán hàng nội bộ'' Phản ánh doanh thu bán hàng nội bộ
+ TK641 '' Chi phí bán hàng '' Dùng để phản ánh các chi phí thực tế phát sinh trong quá trình
tiêu thụ thành phẩm : chi phí vận chuyển ,bảo quản , đóng gói sản phẩm
+ TK642 '' Chi phí QLDN '' phản ánh toàn bộ chi phí liên quan đến việc quản lý và phục vụ
chung cho hoạt động SXKD của doanh nghiệp .
+ Các tài khoản liên quan khác : TK 333,TK111, TK112,TK811, TK911...
- Phương pháp hạch toán :
 Trường hợp bán hàng thu tiền ngay, bán chịu và bán hàng có phát sinh chiết khấu, hàng
bán bị trả lại, giảm giá hàng bán :
TK155 TK632 TK911 TK511 TK111,112

(1) (4) (5) (2) TK 531,532,811
(8)
(11)
TK641,642
TK131
(7)
(3) (9)
TK333
(6)


(12)

(10)
Giải thích :
1. Giá thành sản xuất thực tế của thành phẩm xuất kho bán .
2. Doanh thu tiêu thụ trong kỳ - nếu khách hàng thanh toán ngay
3. Doanh thu tiêu thụ trong kỳ - nếu khách hàng chưa thanh toán
Trang 17
4. Kết chuyển giá vốn hàng bán
5. Kết chuyển doanh thu thuần
6,12. Thuế GTGT phải nộp trong kỳ
7. Chi phí bán hàng, chi phí quản lý DN cho hàng đã tiêu thụ
8. Số chiết khấu, giảm giá, hàng bán bị trả lại ( T.h thu tiền ngay )
9. Số chiết khấu, giảm giá, hàng bán bị trả lại ( T.h chưa thu tiền )
10. Cuối kỳ hạch toán , k.c doanh thu chiết khấu, giảm giá, hàng bán bị trả lại
11. Nhận lại hàng ( nhập kho hàng bị trả lại )
 Trường hợp xuất kho gửi hàng đi bán .
TK155 TK157 TK632 TK911 TK511 TK111,112

(1) (4) (7) (6) (2)
TK641,642 TK333 TK131
(8) (5) (3a) (3b)
(9)
Giải thích :
1. Giá thành sản xuất thực tế của thành phẩm gửi đi bán
2. Doanh thu tiêu thụ trong kỳcủa hàng gửi bán ( T.h thu tiền ngay )
3.a- Doanh thu tiêu thụ trong kỳ của hàng gửi bán ( T.h chưa thu tiền )
3.b- Thu tiền bán hàng
4. Trị giá vốn thực tế của hàng gửi bán

5,9. Thuế GTGT phải nộp trong kỳ
6. Kết chuyển doanh thu thuần
7. Kết chuyển giá vồn hàng bán
8. Kết chuyển chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp
I.3.3 - Tổ chức kế toán chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp và xác định kết
quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
I.3.3.1- Kế toán tập hợp và phân bổ CPBH, CPQLDN
+ Chi phí bán hàng thực chất là chi phí lưu thông và chi phí tiếp thị phát sinh trong quá
trình tiêu thụ sản phẩm như : Chi phí quảng cáo, giao hàng, giao dịch, đóng gói, vận chuyển,
Trang 18
bảo hành và gới thiệu sản phẩm. Việc tập hợp và phân bổ CPBH được phản ánh trên tài
khoản 641 '' chi phí bán hàng '' tài khoản này mở chi tiết theo từng nội dung chi phí
+ Chi phí quản lý doanh nghiệp là toàn bộ chi phí liên quan đến việc quản lý và phục vụ toàn
bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ nhất định. Việc tập hợp và phân
bổ CPQLDN được phản ánh trên TK642
TK334,338 TK641,642 TK111,112,138(1)
Chi phí nhân viên bán hàng, QL CP bằng tiền của BH,QL
TK152
CP vật liệu bán hàng,quản lý TK911

TK 153 K/c để tính kết quả
CP công cụ bán hàng, QL
phân bổ một lần
Tk 142 TK142
Phân bổ nhiều lần Để chờ kết chuyển tiếp
TK214
CP khấu hao TSCĐ bán hàng, QL
TK335,142
Dịch vụ mua ngoài bán hàng, QL
trích trước bán hàng, quản lý

TK 111,112,141,331
Dịch vụ mua ngoài QL
TK133
TK139,159
CP dự phòng quản lý
TK333(6),111,112
Thuế , phí và lệ phí của QL


I.3.3.2- Kế toán xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
Trang 19
TK333,111,112
Thuế & các khoản phải nộp
TK336
CP quản lý nộp cấp trên
Để xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh kế toán sử dụng tài khoản 911 '' Xác định
kết quả kinh doanh '' . Tuy nhiên tài khoản này phải hạch toán chi tiết cho từng loại hoạt động
và trong từng loại hoạt động chi tiết theo từng loại sản phẩm lao vụ ...
Trang 20
TK 632 TK911 TK511
kết chuyển gía vốn hàng bán kết chuyển doanh thu thuần
TK641,642 TK711,721
Kết chuyển chi phí bán hàng K/c thu nhập hoạt động TC
chi phí quản lý DN thu nhập bất thường
TK811,821
K/c chi phí hoạt động tài chính
chi phí bất thường
TK421
Kết chuyển lãi
Kết chuyển lỗ

I.4 - Đặc điểm tổ chức sổ kế toán toán tổng hợp về thành phẩm và tiêu thụ thành
phẩm.
Sổ kế toán là những tờ theo mẫu quy định có liên hệ chặt chẽ với nhau được dùng để ghi
chép các nghiệp vụ kinh tế theo đúng phương pháp kế toán. Sổ kế toán có thể tổ chức đóng
thành quyển ,cũng có thể tổ chức sổ tờ rời hoặc tờ thẻ ... Tuy nhiên tuỳ vào việc doanh nghiệp
vận dụng hình thức kế toán nào mà sử dụng các loại sổ kế toán cho phù hợp .
Nếu doanh nghiệp áp dụng hình thức nhật ký chứng từ thì hệ thống sổ kế toán bao gồm :
- Sổ kế toán tổng hợp bao gồm các NKCT ,sổ cái các tài khoản ,các bảng kê và bảng phân
bổ
- Sổ kế toán chi tiết được mở tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể và yêu cầu quản lý của
doanh nghiệp.
Trang 21
Sơ đồ nghi sổ theo hình thức nhật ký chứng từ được khái quát như sau :








Ghi chú :
Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
Đối chiếu kiểm tra
Trang 22
Chứng từ gốc và
các bảng phân bổ
Thẻ và sổ kế
toán chi tiết

Bảng

Nhật ký
chứng từ
Sổ
cái
Bảng tổng hợp
chi tiết
Báo cáo tài chính
PHẦN II
TÌNH HÌNH THỰC TẾ VỀ TỔ CHỨC KẾ TOÁN THÀNH PHẨM
VÀ TIÊU THỤ THÀNH PHẨM Ở CÔNG TY CƠ KHÍ 19-8
TỔNG CÔNG TY CƠ KHÍ GTVT- BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI
II.1 - ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA CÔNG TY CƠ KHÍ 19-8 .
II.1.1. - Quá trình hình thành và phát triển của công ty :
Công ty cơ khí 19-8 được thành lập ngày 06-6-1979 Theo quyết định số 137 CL/ TC của
bộ cơ khí luyện kim, với tên gọi ban đầu là : Nhà máy đại tu ô tô Kim Anh. Nhiệm vụ chính
của nhà máy là sửa chữa và sản xuất phụ tùng ô tô, sự ra đời của nhà máy chính là sư hợp tác
giữa hai chính phủ Việt Nam và Liên Xô cũ trước đây . Công xuất dự kiến sữa chữa ban đầu
là khoảng 1.000 xe năm. Năm 1983 nhà máy đổi tên là : Nhà máy ô tô số 7 và chuyển sang
cục vận tải ô tô trực thuộc Bộ Giao Thông Vận Tải .
Năm 1993 theo quyết định thành lập doanh nghiệp nhà nước , nhà máy đổi tên là : Nhà
máy cơ khí GTVT 19-8 Thuộc liên hiệp Cơ khí GTVT với nhiệm vụ mới là sản xuất phụ tùng
ô tô và phụ kiện đường sắt .
Năm 1996 theo quyết định số 1465 QDD/ TCCB-LĐ ngày 15-06-1996 của Bộ GTVT nhà
máy đổi tên là Công ty cơ khí 19-8 thuộc Tổng Công ty cơ khí GTVT - Bộ Giao thông vận
tải .
Công ty cơ khí 19-8 Nằm ở ngoại thành Hà Nội trên địa bàn xã Minh Trí- huyện Sóc Sơn
Tổng diện tích ban đầu là 63.000 m2 , sau khi bàn giao một phần cho liên doanh sản xuất ô tô
VINDACO . Diện tích hiện giờ là khoảng 15.000 m2, trong đó nhà xưởng kho bãi chiếm

khoảng 1.200 m2 .
Những năm trước đây , trong cơ chế cũ nhà nước giao chỉ tiêu và phân bổ số xe xuống cho
công ty sửa chữa và công ty đều hoàn thành chỉ tiêu .
Sự chuyển đổi cơ chế từ cơ chế tập chung quan liêu bao cấp sang cơ chế mới ( cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước ) là một bước ngoặt lớn đối với nền kinh tế nhà nước và
điều đó cũng thật cần thiết nếu chúng ta muốn vươn lên ngang tầm với sự phát triển kinh tế
của các nước trong khu vực và trên toàn thế giới . Tuy nhiên bất cứ sự chuyển đổi nào cũng
vậy thường trong giai đoạn đầu chưa thật ổn định bởi cơ chế cũ đã ăn sâu vào tiềm thức và
gần như thói quen trong hành động. Trong thời kỳ này không riêng gì công ty cơ khí 19-8 mà
bất kỳ công ty ,xí nghiệp nào cũng đều rất bỡ ngỡ và khó có thể hình dung được điều gì sẽ
sảy ra .
Trang 23
Tuy nhiên nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển đổi mà nhu cầu phương tiện vận
tải và phụ tùng cho phương tiện vận tải lại đòi hỏi tăng lên, đó cũng chính là thuận lợi của
công ty cơ khí 19-8 .
Hơn thế nữa phương tiện giao thông vận tải phát triển rất nhanh trên thế giới , do đó khiến
cho một số hệ thống thiết bị sản xuất của công ty bị lỗi thời nếu công ty vẫn duy trì việc tổ
chức tiếp theo là không kinh tế , bởi vậy sản phẩm sản xuất ra sẽ không đáp ứng được nhu
cầu của thị trường và không đủ sức để cạnh tranh . Trước những tình hình trên đặt ra cho
công ty hàng loạt các vấn đề cần phải giải quyết và giải quyết càng nhanh càng tốt và yêu cầu
nổi lên hàng đầu và chung nhất là làm thế nào để đứng vững, tồn tại và phát triển trong cơ chế
thị trường . Chính vì vậy lãnh đạo CNV trong công ty đã đổi mới tư duy mạnh dạn đầu tư
từng phần mà mình có thể làm được đưa công ty đứng vững và đi lên .
Doanh thu hàng năm Công ty cơ khí 19-8 đạt 12 tỷ đổng ( từ năm 1993 đến nay ) . Sản phẩm
chính của công ty là nhíp xe ô tô các loại và phụ kiện đường sắt , tổng sản lượng đạt khoảng
1.000 - 1.200 tấn /năm .
Như vậy, sau 22 năm qua đó là một chăng đường đi tuy dài , nhưng trong cơ chế mới thì
còn nhiều gian truân . Công ty cơ khí 19-8 đã trải qua nhiều bước thăng trầm ,trăn trở , khó
khăn nhưng với sự phấn đấu hết mình của Ban lãnh đạo công ty cũng như tập thể cán bộ công
nhân viên trong công ty cho nên công ty không ngừng lớn mạnh và phát triển nhanh về mọi

mặt .
II.1.2 - Đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh của công ty cơ khí 19-8
Công ty cơ khí 19-8 là một công ty có quy mô sản xuất vừa và nhỏ, có địa bàn hoạt động
sản xuất kinh doanh tập chung tại một địa điểm và là một đơn vị sản xuất hàng cơ khí GTVT,
sản xuất theo nhu cầu của thị trường .
Sản phẩm chủ yếu của công ty là Nhíp ôtô và phụ kiện đường sắt . Với công nghệ sản xuất
từ khâu đầu đến khâu cuối của sản phẩm . Hàng năm công ty sản xuất và tiêu thụ khoảng
1.000 - 1.200 tấn . Tổng số cán bộ CNV trong công ty hiện nay là 271 người . Hiện nay công
ty đang trong quá trình đầu tư nâng sản lượng sản xuất lên từ 4.000-5000 tấn/ năm
Hiện nay việc tổ chức sản xuất ở công ty gồm 3 phân xưởng :
- Phân Xưởng : Tạo Phôi
- Phân xưởng : Gia công cơ khí
- Phân xưởng : Nhiệt luyện hoàn chỉnh.
Mỗi phân xưởng có chức năng nhiệm vụ khác nhau song lại kết hợp với nhau một cách chặt
trẽ trong quá trình chế tạo sản phẩm, cụ thể nhiệm vụ chính từng bộ phận như sau :
Trang 24
- Phân xưởng Tạo Phôi : Có nhiệm vụ Tạo hình sản phẩm
- Phân xưởng gia công cơ khí : Có nhiệm vụ gia công bề mặt, tạo độ cong, uốn dập ,khoan
lỗ ...
- Phân xưởng nhiệt luyện hoàn chỉnh : Có nhiệm vụ nhiệt luyện , sơn phủ , lắp sản phẩm và
hoàn thiện ( từ phân xưởng gia công cơ khí chuyển sang ).
Sau khi kết thúc quá trình sản xuất ở phân xưởng Nhiệt luyện hoàn chỉnh những sản
phẩm hoàn thành được bộ phận KCS ( bộ phận kiểm tra chất lượng sản phẩm ) Xác nhận phù
hợp với tiêu chuẩn kỹ thuật quy định và ghi rõ số lượng thực tế của từng loại sản phẩm, đồng
thời ký vào biên bản kiểm tra chất lượng lúc đó mới tiến hành nhập kho thành phẩm của công
ty .
Như vậy sản phẩm của công ty tuy sản xuất nhiều loại sản phẩm ( nhíp ô tô và phụ kiện
đường sắt ), hai loại sản phẩm này kiểu dáng có khác nhau nhưng cùng gần như sản xuất trên
một dây chuyền ,sản phẩm đều được sản xuất theo một quy trình khép kín từ đầu đến cuối
phần lớn máy móc thiết bị đều được nhập ngoại chủ yếu là của : Liên Xô ( cũ ), Trung Quốc,

Đức, các thiết bị chính gồm :
+ Băng chuyền
+ Máy cán ,cắt ,uốn , tiện ,phay , đột dập. . .
+ lò nhiệt luyện, máy thử độ cứng và các thiết bị máy móc khác.
Thực tế trong quá trình sản xuất công ty cũng chỉ sử dụng ít chủng loại vật liệu . Vật liệu
chính được nhập từ nước ngoài là chủ yếu . Với tình trạng trang thiết bị như vậy phần nào đáp
ứng được nhu cầu sản xuất của công ty song vì là sản phẩm phục vụ cho giao thông vận tải
nên nó không ngừng đòi hỏi đổi mới và hoàn thiện không những về mặt chất lượng cũng như
về số lượng, để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội . Muốn làm được điều này đòi hỏi
phải có một khối lượng máy móc thiết bị vừa đa dạng lại vừa có tính năng công nghệ cao và
đó cũng là nguyện vọng mà công ty đang tiến hành làm .
Trang 25

×