Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.74 KB, 36 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ
THÀNH SẢN PHẨM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
I, CHI PHÍ SẢN XUẤT.
I.1. Bản chất và nội dung kinh tế của chi phí sản xuất.
I.1.1. Khái niệm chi phí sản xuất.
Chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống,
lao động vật hoá mà Doanh nghiệp đã bỏ ra để tiến hành hoạt động sản xuất trong
một thời kỳ nhất định.
Thực chất, chi phí sản xuất là sự di chuyển vốn , chuyển dịch giá trị các yếu tố
sản xuất vào các đối tượng tính giá (sản phẩm, lao vụ, dịch vụ).
I.1.2 Bản chất và nội dung kinh tế của chi phí sản xuất.
Sự phát triển của loài người gắn liền với quá trình sản xuất. Khi tham gia vào
thị trường, hoạt động sản xuất của Doanh nghiệp đều đặt ra cho mình câu hỏi: Sản
xuất cái gì? Sản xuất cho ai? Sản xuất số lượng bao nhiêu? và hướng tới mục tiêu
cuối cùng là lợi nhuận. Đối với bất kỳ phương thức sản xuất nào của quá trình sản
xuất cũng gắn liền với sự vận động và tiêu hao các yếu tố cơ bản tạo nên quá trình
sản xuất, đó là sức lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động. Sự tham gia
của các yếu tố này vào quá trình sản xuất đã hình thành nên các khoản chi phí
tương ứng và kết quả là tạo ra giá trị của sản phẩm.
Sự vận đông của quá trình sản xuất là biểu hiện của chi phí đã bỏ ra và kết quả
thu về là những sản phẩm, lao vụ, dịch vụ đã hoàn thành. Do vậy, việc hình thành
nên các chi phí sản xuất để tạo ra giá trị sản phẩm sản xuất là yếu tố khách quan,
không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người sản xuất.
Trong các Doanh nghiệp sản xuất, ngoài những hoạt động sản xuất ra sản phẩm
hoặc lao vụ còn có các hoạt động kinh doanh và hoạt động khác không mang tính
sản xuất như hoạt động bán hàng hoạt động quản lý..., nên ngoài chi phí sản xuất
phát sinh trong kỳ còn phát sinh các chi phí không mang tính sản xuất. Vì vậy, chỉ
những chi phí gắn liền với hoạt động sản xuất mới được coi là chi phí sản xuất.
Chi phí sản xuất của Doanh nghiệp phát sinh thường xuyên trong suốt quá trình
tồn tại và hoạt động của Doanh nghiệp. Để phục vụ cho quản lý và hạch toán kinh
doanh, chi phí sản xuất phải được tính toán tập hợp thep từng thời kỳ: hàng tháng,


hàng qúy, hàng năm phù hợp với kỳ báo cáo. Chỉ những chi phí sản xuất mà Doanh
nghiệp phải bỏ ra trong kỳ mới được tính vào chi phí sản xuất trong kỳ.
Tuy nhiên cần phân biệt giữa chi phí và chi tiêu:
Chi phí: là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao
động vật hoá cần thiết cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh mà Doanh
nghiệp chi ra trong một kỳ kinh doanh. Như vậy, chỉ được tính vào chi phí của kỳ
hoạch toán những hao phí về tài sản và lao động có liên quan đến khối lượng sản
phẩm sản xuất trong kỳ.
Chi tiêu: Là sự giảm bớt đi đơn thuần các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của
Doanh nghiệp bất kể nó được dùng vào hoạt động sản xuất hay hoạt động không
mang tính sản xuất. Tổng số chi tiêu trong kỳ của Doanh nghiệp bao gồm: chi tiêu
cho các yếu tố đầu vào (chi mua sắm vật tư, hàng háo, thiết bị...), chi tiêu cho quá
trình sản xuất kinh doanh (chi cho sản xuất, chế tạo sản phẩm, trả tiền lương lao
động, công tác quản lý sản xuất...) và chi tiêu cho quá trình tiêu thụ (chi quảng
cáo, khuyến mại, vận chuyển bốc dỡ...).
Chi phí và chi tiêu là hai khái niệm khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với
nhau. Chi tiêu là cơ sở phát sinh của chi phí, không có chi tiêu thì không có chi
phí. Chi phí và chi tiêu không những khác nhau về lượng mà còn còn khác nhau về
thời gian, có những khoản chi tiêu kỳ này nhưng tính vào chi phí kỳ sau (VD: chi
phí nguyên vật liệu về nhập kho nhưng chưa sử dụng, ứng trước tiền lương cho
công nhân trực tiếp sản xuất...) . Sở dĩ có những khoản chi có sự khác biệt giữa chi
tiêu và chi phí trong các Doanh nghiệp là do đặc điểm, tính chất vận động và
phương thức dịch chuyển giá trị của từng loại tài sản vào quá trình sản xuất và yêu
cầu kỹ thuật hạch toán chúng. Xét về mặt lượng, chi phí sản xuất phụ thuộc vào hai
yếu tố cơ bản đó là:
- Khối lượng lao động và tư liệu sản xuất tiêu hao trong kỳ.
- Giá cả các tư liệu sản xuất đã tiêu hao trong quá trình sản xuất và tiền công
lao động .
Trong các yếu tố này thì sự biến động giá cả các tư liệu sản xuất có ảnh hưởng
lớn nhất đén chi phí sản xuất. Điều đó đặt ra yêu cầu phải tính toán chính xác, đầy

đủ và kịp thời chi phí sản xuất theo từng thời kỳ, từ đó giúp cho công tác tính giá
thành sản phẩm dược chính xác phù hợp.
I.2. Phân loại chi phí sản xuất.
Chi phí sản xuất của các Doanh nghiệp gồm nhiều loại nội dung kinh tế khác
nhau, mức độ và công dụng của chúng trong quá trình sản xuất cũng khác nhau. Để
phục vụ công tác quản lý và hạch toán chi phí cần thiết phải phân loại chi phí sản
xuất theo các tiêu thức khác nhau phù hợp với mục đích và yêu cầu khác nhau của
quản lý.
Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh là việc sắp xếp các chi phí khác nhau vào
từng nhóm, từng loại khác nhau theo những đặc trưng nhất định. Do vậy,
phân loại chi phí một cách khoa học và hợp lý là một yêu cầu quan trọng trong
công tác kế toán.
Mỗi cách phân loại đáp ứng ít nhiều cho mục đích quản lý, hạch toán, kiểm tra
kiểm soát chi phí phát sinh ở những góc độ khác nhau. Vì thế mỗi cách phân loại
tồn tại bổ sung cho nhau và giữ vai trò nhất định trong công tác quản lý chi phí sản
xuất và tính giá thành sản xuất sản phẩm.
Việc phân loại chi phí sản xuất dựa trên cơ sở các yêu cầu cơ bản sau:
- Đáp ứng yêu cầu thông tin cho quản lý một cách kịp thời, chính xác giúp cho
việc ra quyết định sản xuất kinh doanh đựơc phù hợp.
- Phân loại chi phí sản xuất phải thuận lợi cho công tác tổ chức hạch toán chi
phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm.
- Tiết kiệm tối đa chi phí lao động trong công tác tổ chức hạch toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản xuất sản phẩm.
- Đáp ứng triệt để và thúc đẩy hạch toán kiểm tra nội bộ, thuận lợi cho việc áp
dụng các tiến bộ kỹ thuật trong công tác hạch toán.
- Rõ ràng, dễ hiểu, dễ làm, thuận lợi cho việc kiểm tra kiểm soát chi phí sản
xuất.
Trên cơ sở đó có các cách phân loại sau:
I.2.1. Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung, tính chất kinh tế của chi phí.
Theo cách phân loại này, những chi phí nào có cùng nội dung kinh tế, có cùng

tính chất kinh tế thì được xếp vào cùng một yếu tố chi phí mà không cần xét đén
công dụng cụ thể, nơi phát sinh và nơi chịu chi phí. Toàn bộ chi phí sản xuất trong
kỳ của Doanh nghiệp đựoc chia làm các yếu tố chi phí sau:
+ Chi phí nguyên vật liệu: Bao gồm toàn bộ các chi phí về nguyên liệu chính,
vật liệu phụ, nhiên liệu phụ tùng thay thế, vật liệu thiết bị xây dựng cơ bản mà
Doanh nghiệp đã sử dụng cho các hoạt động sản xuất trong kỳ .
+ Chi phí nhân công: Là toàn bộ số tiền công và các khoản phải trả người lao
động mang tính chất lương.
+ Chi phí khấu hao tài sản cố định : Là toàn bộ số tiền trích khấu hao tài sản cố
định sử dụng cho sản xuất của Doanh nghiệp trong kỳ.
+ Chi phí dịch vụ mua ngoài: Bao gồm toàn bộ số tiền Doanh nghiệp đã chi trả
về các loại dịch vụ mua từ bên ngoài như: tiền điện, tiền nước, tiền bưu phí... phục
vụ cho hoạt động sản xuất của Doanh nghiệp.
+ Chi phí khác bằng tiền: Bao gồm toàn bộ số chi phí khác dùng cho hoạt động
sản xuất ngoài bốn yếu tố chi phí đã nêu ở trên.
Việc phân loại chi phí sản xuất theo các yếu tố này có tác dụng rất lớn trong
quản lý chi phí sản xuất, nó cho biết kết cấu tỷ trọng của từng yếu tố chi phí sản
xuất giúp cho Doanh nghiệp xác định được các định mức thuộc về vốn lưu động
giúp cho việc kiểm tra phân tích tình hình thực hiện dự toán chi phí sản xuất, làm
cơ sở cho việc dự trù hoặc xây dựng kế hoạch cung ứng vật tư, tiền vốn, kế hoạch
quỹ lương tính toán nhu cầu vốn lưu động cho kỳ sau.
I.2.2.Phân loại chi phí sản xuất theo khoản mục chi phí trong giá thành sản
phẩm
(Phân loại theo mức độ, công dụng và địa điểm phát sinh chi phí).
Mỗi yếu tố chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ đều có một công dụng nhất định
đối với hoạt động sản xuất. Theo cách phân loại này, căn cứ vào mức độ và công
dụng của chi phí trong sản xuất để chia ra các khoản mục chi phí khác nhau, mỗi
khoản mục chi phí chỉ bao gồm những chi phí có cùng mức độ và công dụng;
không phân biệt chi phí đó có nội dung kinh tế như thế nào.
Toàn bộ chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ được chia ra thành các khoản mục

chi phí sau:
* Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Bao gồm chi phí vệ nguyên liệu chính, vật
liệu phụ, nhiên liệu sử dụng vào mục đích trực tiếp sản xuất sản phẩm hoặc thực
hiện lao vụ, dịch vụ . Không tính vào khoản mục này những chi phí nguyên vật
liệu sử dụng vào mục đích sản xuất chung và những hoạt động ngoài sản xuất.
* Chi phí nhân công trực tiếp : Bao gồm chi phí về tiền công, phụ cấp phải trả
và các khoản tiền trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và kinh phí công đoànvào
tiền lương công nhân trực tiếp sản xuất theo quy định .
* Chi phí sản xuất chung: Là những chi phí dùng cho hoạt động sản xuất chung
ở các bộ phận sản xuất (phân xưởng, tổ, đội...) ngoài hai khoản mục chi phí trực
tiếp đã nêu trên . Chi phí sản xuất chung bao gồm sáu điều khoản sau:
- Chi phí nhân viên (phân xưởng, đội, trại sản xuất): Gồm chi phí về tiền
lương, tiền công, các khoản phụ cấp, trích bảo hểm... cho nhân viên quản lý, nhân
viên kế toán, thống kê, thủ kho... tại phân xưởng sản xuất.
- Chi phí vật liệu: phản ánh chi phí vật liệu sử dụng chung như vật liệu dùng
để sửa chữa, bảo dưỡng TSCĐ, và những vật liệu dùng cho nhu cầu quản lý chung
ở phân xưởng, đội sản xuất.
- Chi phí dụng cụ sản xuất: phản ánh chi phí về các loại công cụ, dụng cụ
dùng cho nhu cầu sản xuất chung ở phân xưởng, đội sản xuất như khuôn mẫu,
dụng cụ gá lắp, dụng cụ bảo hộ lao động...
- Chi phí khấu hao tài sản cố định: Phản ánh toàn bộ số tiền trích khấu hao của
tài sản cố định sử dụng ở các phân xưởng, đội sản xuất như khấu hao máy móc
thiết bị sản xuất, phương tiện vận tải , nhà xưởng...
- Chi phí dịch vụ mua ngoài: Phản ánh nhứng chi phí về lao vụ, dịch vụ mua từ
bên ngoài để phục vụ cho hoạt động sản xuất chung ở phân xưởng, đội sản xuất
như: chi phí về điện, nước , điện thoại , chi phí sửa chữa tài sản cố định thuê
ngoài .
- Chi phí bằng tiền khác: Phản ánh chi phí bằng tiền ngoài các khoản chi phí
đã nêu trên phục vụ cho yêu cầu sản xuất chung của phân xưởng, đội sản xuất.
Cách phân loại này có tác dụng phục vụ cho yêu cầu quản lý chi phí sản xuất

theo định mức, cung cấp số liệu cho công tác tính giá thành sản phẩm, phân tích
kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm; đồng thời là tài liệu
tham khảo để xác định giá thành sản phẩm cho kỳ sau.
I.2.3. Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ chi phí với khối lượng sản phẩm hoàn
thành..
Để thuận lợi cho việc lập kế hoạch và kiểm tra chi phí, đồng thời làm căn cứ để
đề ra các quyết định kinh doanh, toàn bộ chi phí sản xuất lại được phân theo mối
quan hệ của chi phí với khối lượng sản phẩm hoàn thành. Theo cách phân loại này,
chi phí sản xuất được chia thành biến phí và định phí.
Biến phí: Là những chi phí có sự thay đổi về lượng tương quan tỷ lệ thuận với
sự thay đổi của khối lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ như : chi phí vật liệu trực
tiếp, chi phí nhân công trực tiếp..
Định phí: Là những chi phí không thay đổi về tổng số dù có sự thay đổi trong
mức độ hoạt động sản xuất hoặc khối lương sản phẩm, công việc lao vụ sản xuất
trong kỳ như: chi phí về khấu hao tài sản cố định theo phương pháp đường thẳng...
Tuy nhiên, nếu trong kỳ có sự thay đổi về khối lượng sản phẩm sản xuất thì chi phí
cố định trên một dơn vị sản phẩm sẽ biến động tương quan tỷ lệ nghịch với sự biến
động của sản lượng.
Trong thực tế, chi phí phát sinh thường mang tính chất hỗn hợp. Chi phí hỗn
hợp là chi phí mà bản thân nó gồm tất cả các yếu tố biến phí, định phí. Ở mức độ
hoạt đông căn bản, chi phí hỗn hợp thể hiện đặc điểm của định phí, quá mức đó, nó
lại thể hiện đặc tính của biến phí. Để phục vụ mục đích quản trị chi phí, kế toán
quản trị phải tách được chi phí hỗn hợp thành hai bộ phận: biến phí và định phí .
Nếu việc tách này được thực hiện chính xác tối đa thì sự gần đúng của các yếu tố
bất biến và khả biến của chi phí hỗn hợp cũng cho phép dự toán chính xác chi phí
hỗn hợp sẽ phát sinh trong những điều kiện cụ thể.
Phân loại chi phí sản xuất thành biến phí và định phí có tác dụng lớn đối với
quản trị kinh doanh, phân tích điểm hoà vốn và phục vụ cho việc ra các quyết định
quản lý cần thiết để hạ giá thành sản phẩm, tăng hiệu quả kinh doanh.
I.2. 4. Phân loại chi phí sản xuất theo phương pháp tập hợp chi phí sản xuất và

mối quan hệ với đối tượng tập hợp chi phí sản xuất.
Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất được chia thành hai loại: chi phí trực
tiếp và chi phí gián tiếp:
Chi phí trực tiếp: Là những chi phí sản xuất quan hệ trực tiếp với việc sản xuất
ra một loại sản phẩm, một công việc nhất định. Những chi phí này, kế toán có thể
căn cứ vào số liệu từ chứng từ kế toán để ghi trực tiếp cho từng đối tượng chịu chi
phí.
Chi phí gián tiếp: Là những chi phí sản xuất có liên quan đến việc sản xuất
nhiều loại sản phẩm, nhiều công việc. Những chi phí này kế toán phải tiến hành
phân bổ cho các đối tượng có liên quan theo một tiêu chuẩn thích hợp.
Cách phân loại chi phí sản xuất này có ý nghĩa quan trọng đối với việc xác định
phương pháp kế toán tổng hợp và phân bổ chi phí cho các đối tượng một cách đúng
đắn, hợp lý.
I.2.5. Phân loại chi phí theo nội dung cấu thành của chi phí.
Theo cách phân loại này chi phí sản xuất làm hai loại: chi phí đơn nhầt và chi
phí tổng hợp.
Chi phí đơn nhất: : Là những chi phí do một yếu tố cấu thành như: nguyên vật
liệu chính dùng trong sản xuất, tiền lương công nhân sản xuất.
Chi phí tổng hợp: Là những chi phí do nhiều yếu tố khác nhau tập hợp lại theo
cùng một công dụng như chi phí sản xuất chung.
Cách phân loại chi phí theo nội dung cấu thành của chi phí giúp cho việc nhận
thức vị trí của từng loại chi phí trong việc hình thành sản phẩm để tổ chức công tác
kế toán tập hợp chi phí sản xuất thích hợp với từng loại.
I.3. Đối tương tập hợp chi phí sản xuất.
Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là phạm vi, giới hạn mà chi phí sản xuất
cần phải được tập hợp nhằm đáp ứng yêu cầu kiểm soát chi phí, tính giá thành sản
phẩm. Thực chất là xác định nơi phát sinh chi phí và nơi chịu chi phí. Xác định đối
tượng tập hợp chi phí là khâu đầu tiên, rất quan trọng trong toàn bộ công tác quản
lý chi phí và tính giá thành sản phẩm. Nếu xác định đúng đối tượng tập hợp chi phí
thì Công ty sẽ có thể giảm được giá thành sản phẩm.

Để xác định đối tượng hạch toán chi phí cần dựa vào các yếu tố sau:
Đặc điểm qui trình công nghệ sản xuất: Với sản xuất giản đơn, đối tượng hạch
toán chi phí sản xuất là sản phẩm hay toàn bộ quá trình sản xuất. Với sản xuất phức
tạp thì đối tượng hạch toán chi phí là bộ phận, chi tiết sản phẩm.
Loại hình sản xuất: Với sản xuất đơn chiếc và sản xuất nhỏ hàng loạt thì đối
tượng hạch toán chi phí là các đơn đặt hàng riêng biệt. Đối với sản xuất hàng loạt
với khối lượng lớn thì phụ thuộc vào quy trình công nghệ mà đối tượng hạch toán
chi phí có thể là sản phẩm, nhóm sản phẩm.
Yêu cầu và trình độ quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh: Tuỳ vào trình độ
quản lý cao hay thấp mà xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất cho phù
hợp.
Xác định chính xác đối tượng tập hợp chi phí sản xuất theo đúng quy định sẽ
phục vụ tốt cho việc tăng cường quản lý sản xuất, kiểm tra, kiểm soát quá trình
phát sinh chi phí. Đồng thời phục vụ tốt cho việc tính giá thành sản phẩm và tăng
cường được hạch toán kinh tế nội bộ.
I.4. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất.
Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là một phương pháp hay hệ thống các
phương pháp được sử dụng để tập hợp và phân loại các chi phí sản xuất trong
phạm vi, giới hạn của đối tượng hạch toán chi phí. Nội dung chủ yếu của các
phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là kế toán mở thẻ ( hoặc sổ) chi tiết hạch
toán chi phí sản xuất theo từng đối tượng đã xác định, phản ánh các chi phí sản
xuất có liên quan đến đối tượng, hàng tháng tổng hợp chi phí sản xuất theo từng
đối tượng, ứng với mỗi đối tượng hạch toán chi phí sản xuất sẽ có phương pháp
hạch toán chi phí sản xuất phù hợp. Hiện nay có các phương pháp hạch toán chi
phí sản xuất như sau:
 Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất theo chi tiết hay bộ phận SP.
 Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất theo sản phẩm
 Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất theo nhóm sản phẩm
 Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất theo dây chuyền sản xuất
 Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất theo đơn đặt hàng.

I.5. Nhiệm vụ kế toán chi phí sản xuất.
Với chức năng thông tin và kiểm tra về chi phí, làm cơ sở cho việc định giá và
đề ra các quyết định kinh doanh, hạch toán chi phí sản xuất phải thực hiện các
nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Phản ánh chính xác, kịp thời các chi phí phát sinh thực tế trong quá trình sản
xuất tại các phân xưởng, bộ phận sản xuất.
- Căn cứ vào đặc điểm qui trình công nghệ, đặc điểm tổ chức sản xuất của
Doanh nghiệp để xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất phù hợp.
- Xác định chính xác kết quả hạch toán nội bộ của các phân xưởng và các bộ
phận sản xuất.
- Kiểm tra tình hình thực hiện các định mức tiêu hao vật tư , lao động cũng
như tình hình chấp hành các dự toán chi phí.
I.6. Trình tự hạch toán chi phí sản xuất.
Việc tập hợp chi phí sản xuất phải được tiến hành theo một trình tự hợp lý,
khoa học thì mới có thể tính giá thành sản phẩm một cách chính xác, kịp thời.
Trình tự này phụ thuộc vào đặc điểm sản xuất của từng ngành nghề, từng doanh
nghiệp, vào mối quan hệ giữa các hoạt động sản xuất kinh doanh, vào trình độ
công tác quản lý và hạch toán....Tuy nhiên có thể khái quát chung trình tự hạch
toán chi phí sản xuất qua các bước sau:
Bước 1: Tập hợp các chi phí cơ bản có liên quan trực tiếp cho từng đối tượng
sử dụng.
Bước 2: Tập hợp các chi phí và tính giá thành sản phẩm lao vụ của ngành sản
xuất kinh doanh phục vụ cho các đối tượng.
Bước 3: Tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chung cho các đối tượng tính giá
thành.
Bước 4: Xác định chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ, tính ra tổng giá thành và
giá thành đơn vị sản phẩm.
II. GIÁ THÀNH SẢN PHẨM
II.1. Bản chất và nội dung kinh tế của giá thành sản phẩm .
II.1.1. Khái niệm giá thành sản phẩm.

Bên cạnh chất lượng, mẫu mã của sản phẩm phù hợp với thị hiếu người tiêu
dùng thì hạ giá thành sản phẩm là một yếu tố cơ bản để Doanh nghiệp có điều kiện
thực hiện cạnh tranh với các đối tác có liên quan trong nền kinh tế.
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền toàn bộ các hao phí về lao động
sống, lao đông vật hoá có liên quan đến khối lượng sản phẩm, lao vụ, dịch vụ đã
hoàn thành trong kỳ. Giá thành sản phẩm chỉ có thể xác định cho từng loại sản
phẩm, lao vụ, dịch vụ khi đã kết thúc quá trình sản xuất (thành phẩm) hoặc hoàn
thành với một giai đoạn công nghệ sản xuất (nửa thành phẩm).
II.1.2. Bản chất và nội dung kinh tế của giá thành sản phẩm.
Giá thành sản phẩm là một phạm trù kinh tế gắn với nền sản xuất hàng hoá,
phản ánh lượng giá trị của những hao phí về lao động sống và lao động vật hoá đã
thực sự chi ra cho sản xuất.
Quá trình sản xuất của một Doanh nghiệp phải bỏ ra những chi phí sản xuất,
mặt khác kết quả của sản xuất là Doanh nghiệp thu được những sản phẩm, công
việc, lao vụ nhất định đã hoàn thành gọi chung là thành phẩm cần phải tính được
giá thành tức là những chi phí sản xuất bỏ ra để sản xuất chúng.
Những chi phí đưa vào tổng sản phẩm phải là giá trị thực của các yếu tố sản
xuất dùng cho việc sản xuất sản phẩm. Mọi cách tính tóan chủ quan, không phản
ánh đúng các yếu tố giá trị trong giá thành đều có thể dẫn đến việc phá vỡ các quan
hệ hàng hoá tiền tệ, không xác định được hiêụ qủa kinh doanh và không thực hiện
được tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng.
Chức năng thông tin và kiểm tra của chỉ tiêu giá thành thể hiện trên các mặt:
- Giá thành là giới hạn bù đắp chi phí: Giá thành là căn cứ các mức tối thiểu để
xác định khả năng bù đắp chi phí mà Doanh nghiệp đã bỏ ra cho quá trình sản xuất
và thực hiện giá trị sản phẩm.
- Giá thành là căn cứ lập giá: để bù đắp được những chi phí đã bỏ ra, khi xác
định giá bán sản phẩm phải căn cứ vào giá thành của nó.
Với chức năng thông tin để bù đắp các chi phí và lập giá của mình, giá thành có
quan hệ mật thiết với giá trị và giá cả hàng hoá. Đây là mối quan hệ nhân quả, liên
quan mật thiết với nhau; trong đó giá thành được coi là xuất phát điểm để xác định

giá cả, là giới hạn tối thiểu về lượng của giá cả.
Tuy nhiên, giữa giá thành và giá trị sản phẩm có sự khác biệt nhau cả về lượng
và về chất.
Về Lượng: Giá thành nhỏ hơn giá trị sản phẩm; giá trị lao động xã hội biểu
hiện trong giá thành chỉ là một phần lao động xã hội biểu hiện trong giá trị.
Về chất: Giá thành là biểu hiện bằng tiền của các chi phí sản xuất tiêu hao để
sản xuất ra sản phẩm, còn giá trị sản phẩm hàng hoá là lượng lao động kết tinh
trong sản phẩm, hàng hoá, được đo bằng lượng hao phí xã hội cần thiết.
II.2. Phân loại giá thành sản phẩm.
Để giúp cho việc nghiên cứu hạch toán, quản lý tốt giá thành cũng như đáp ứng
được yêu cầu lập kế hoạch giá thành và xây dựng giá cả hàng hoá, kế toán cần phải
phân biệt các loại giá thành khác nhau.
Có hai cách phân loại giá thành chủ yếu dưới đây:
II.2.1. Phân loại giá thành theo thời điểm tính và nguồn số liệu tính giá thành.
Căn cứ vào thời gian và cơ sở số liệu tính giá thành, giá thành sản phẩm chia
làm 3 loại:
Giá thành kế hoạch: Được xây dựng trước khi bước vào sản xuất trên cơ sở giá
thành thực tế kỳ trước, các định mức và các dự toán chi phí kỳ kế hoạch. Giá thành
kế hoạch của sản phẩm là mục tiêu phấn đấu của Doanh nghiệp, là căn cứ để so
sánh, phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch hạ giá thành của Doanh
nghiệp.
Giá thành định mức: được xây dựng trước khi bắt đầu sản xuất và xây dựng
trên cơ sở các định mức kinh tế kỹ thuật chi phí hiện hành, bình quân tiên tiến tại
từng thời điểm trong kỳ kế hoạch (thường là ngày đầu tháng) nên giá thành định
mức luôn thay đổi phù hợp với sự thay đổi của các chi phí đạt được trong quá trình
sản xuất sản phẩm.
Giá thành định mức là công cụ quản lý định mức của Doanh nghiệp, là thước
đo chính xác để xác định kết quả số dư tài sản, vật tư, lao động trong sản xuất, giúp
cho đánh giá đúng đắn các giải pháp kinh tế kỹ thuật mà Doanh nghiệp đã thực
hiện trong quá trình hoạt động sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh .

Giá thành thực tế: Được xây dựng sau khi đã kết thúc quá trình sản xuất sản
phẩm trên cơ sở số liệu chi phí thực tế đã phát sinh trong quá trình sản xuất sản
phẩm và số lượng sản phẩm thực tế đã sản xuất ra trong kỳ.
Cách phân loại này có tác dung trong việc giám sát, quản lý chi phí và xác định
được nguyên nhân lãng phí hoặc tiết kiệm trong việc thực hiện định mức chi phí,
làm cơ sở cho việc xác định, lập định mức chi phí và lập dự toán chi phí cho kỳ
sau.
II.2.2 Phân loại gía thành theo phạm vi phát sinh chi phí.
Theo phạm vi phát sinh chi phí, chỉ tiêu giá thành được chia thành 2 loại, giá
thành sản xuất và giá thành toàn bộ.
Giá thành sản xuất (giá thành công xưởng): Phản ánh tất cả chi phí phát sinh
liên quan đến sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng sản xuất. Giá
thành sản xuất của sản phẩm được sử dụng ghi sổ cho sản phẩm đã hoàn thành
nhập kho hoặc giao cho khách hàng; đồng thời nó cũng là căn cứ để tính toán giá
vốn hàng bán và lãi gộp ở các Doanh nghiệp sản xuất.
Giá thành toàn bộ (giá thành tiêu thụ): Phản ánh toàn bộ chi phí phát sinh có
liên quan đến sản xuất và liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm. Giá thành toàn bộ
của sản phẩm là căn cứ để tính toán, xác định lãi trước thuế, lợi tức của Doanh
nghiệp. Giá thành toàn bộ của sản phẩm được xác định theo công thức:
Z
toàn bộ
=Z
sx
+ CPQLDN + CPBH
Phân loại giá thành theo phạm vi phát sinh chi phí không những giúp cho
Doanh nghiệp trong việc quản lý hạch toán nhằm để biết những nhân tố ảnh hưởng
đén việc tăng giảm giá thành, phục vụ cho yêu câu phân tích tình hình thực hiện kế
hoạch giá thành trong Doanh nghiệp.
II.3. Đối tượng tính giá thành sản phẩm.
Đối tượng tính giá thành là các loại thành phẩm, bán thành phẩm, công viêc,

lao vụ nhất định do Doanh nghiệp sản xuất ra đòi hỏi phải tính được tổng giá thành
và giá thành đơn vị.
Đối tượng tính giá thành có thể là sản phẩm đã hoàn thành ở giai đoạn cuối
cùng của quy trình công nghệ sản xuất hoặc bán thành phẩm đã sản xuất xong của
một giai đoạn công nghệ theo yêu cầu hạch toán kinh tế nội bộ và có tiêu thụ bán
thành phẩm ra ngoài.
Để việc xác định đối tượng tính giá thành được chính xác thì kế toán phải dựa
trên các căn cứ:
Xét về mặt tổ chức sản xuất:
Nếu Doanh nghiệp thuộc loại hình sản xuất đơn chiếc thì đối tượng tính giá
thành là từng sản phẩm, từng công việc đã hoàn thành như : từng công trình hoặc
hạng mục công trình là một đối tượng tính giá thành đối với công ty xây lắp.
Nếu Doanh nghiệp thuộc loại hình sản xuất hàng loạt thì từng loạt sản phẩm là
một đối tượng tính giá thành. Ví dụ: trong Doanh nghiệp sản xuất đồ gỗ (bàn học
sinh) thì từng loạt bàn học sinh sản xuất ra là một đối tượng tính giá thành.
Nếu Doanh nghiệp thuộc loại sản xuất nhiều, khối lượng lớn thì từng loại sản
phẩm khác nhau là một đối tượng tính giá thành. Ví dụ: Trong công ty may, đối
tượng tính giá thành là từng loại áo jắc két, từng loại quần trẻ em...
Xét về quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm:
Nếu quy trình công nghệ sản xuất giản đơn: đối tượng tính giá thành là sản
phẩm đã hoàn thành vào giai đoạn công nghệ sản xuất cuối cùng.
Nếu quy trình công nghệ sản xuất thuộc loại hình phức tạp, chế biến sản phẩm
liên tục qua nhiều giai đoạn sản xuất thì đối tượng tính giá thành có thể là thành
phẩm hoặc nửa thành phẩm.
Nếu quy trình công nghệ sản xuất thuộc loại hình phức tạp kiểu lắp ráp (kiểu
song song) thì đối tượng tính giá thành có thể là sản phẩm được lắp ráp hoàn chỉnh,
hoặc có thể là bộ phận chi tiết sản phẩm.
Đối tượng tính giá thành có nội dung khác với đối tượng kế toán tập hợp chi
phí sản xuất. Xác định đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất là căn cứ để kế
toán tổ chức ghi sổ chi tiết, tổ chức ghi chép ban đầu và tổ chức tập hợp phân bổ

chi phí sản xuất hợp lý, giúp cho Doanh nghiệp tăng cường được công tác quản lý
kiểm tra việc tiết kiệm chi phí, thực hiện tốt hạch toán kình doanh. Còn việc xác
định đối tượng tính giá thành lại là căn cứ để kế toán giá thành tổ chức các bảng
tính giá thành thích hợp, tổ chức công việc tính giá thành hợp lý, phục vụ cho việc
quản lý và kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch giá thành và tính toán hiệu quả
kinh doanh của Doanh nghiệp.
II.4. Kỳ tính giá thành sản phẩm.
Kỳ tính giá thành sản phẩm là thời kỳ bộ phận kế toán giá thành cần tiến hành
công việc tính giá thành cho các đối tượng tính giá thành.
Xác định kỳ tính giá thành cho từng đối tượng tính giá thành thích hợp sẽ giúp
cho tổ chức công việc tính giá thành sản phẩm được khoa học, hợp lý, đảm bảo
cung cấp số liệu thông tin về giá thành thực tế của sản phẩm, lao vụ kịp thời, trung
thực, phát huy được vai trò kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản
phẩm của kế toán.
- Trường hợp tổ chức sản xuất nhiều (khối lượng lớn), chu kỳ sản xuất ngắn và
xen kẽ liên tục, kỳ tính giá thành thích hợp là hàng tháng và vào thời điểm cuối
tháng. Trong trường hợp này, kỳ tính giá thành phù hợp với kỳ báo cáo, có tác
dụng cung cấp kịp thời giá thành sản xuất thực tế làm căn cứ tính toán ghi chép số
thành phẩm nhập kho hoặc giao trực tiếp cho khách hàng.
- Trường hợp tổ chức sản xuất đơn chiếc hoặc hàng loạt theo từng đơn đặt hàng
của khách hàng, chu kỳ sản xuất chi phí dài, sản phẩm hoặc loạt sản phẩm chỉ hoàn
thành khi kết thúc chu kỳ sản xuất của sản phẩm hoặc loạt sản phẩm đó thì kỳ tính
giá thành thích hợp là thời điểm kết thúc chu kỳ sản xuất, sản phẩm hoặc loạt sản
phẩm đã hoàn thành.
Một số sản phẩm nông nghiệp do tính chất thời vụ và chu kỳ sản xuất dài, kỳ
tính giá thành là hàng năm (hoặc hết chu kỳ thu hoạch sản phẩm), trong trường hợp
khi có sản phẩm nhập kho (hoặc giao thẳng cho khách hàng) có thể tạm tính theo
giá thành kế hoạch, khi tính được giá thành thực tế sẽ điều chỉnh.
II.5. Phương pháp tính giá thành.
Tính giá thành sản phẩm phải dựa vào số liệu chi phí sản xuất đã tập hợp

trong kỳ để tính ra tổng giá thành và giá thành đơn vị của sản phẩm đã hoàn thành
theo khoản mục chi phí. Tính giá thành sản phẩm chính xác là thông tin quan trọng
giúp người quản lý doanh nghiệp nắm được nguyên nhân tăng giảm giá thành, mức
hạ giá thành, tình hình tiết kiệm chi phí sản xuất để đề ra phương hướng sản xuất,
tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Hiện nay người ta thường tính giá thành theo 6 phương pháp:
- Phương pháp tính giá thành giản đơn.
- Phương pháp tính giá thành phân bước.
- Phương pháp tính giá thành loại trừ giá trị sản phẩm phụ.
- Phương pháp tính giá thành theo hệ số.
- Phương pháp tính giá thành theo tỷ lệ.
- Phương pháp tính giá thành theo định mức.
Tuỳ theo đặc điểm tổ chức sản xuất sản phẩm, quy trình công nghệ sản xuất,
yêu cầu quản lý hạch toán và trình độ cán bộ nhân viên kế toán của từng Doanh
nghiệp, từng loại hình sản xuất cụ thể, kế toán có thể sử dụng một trong các
phương pháp nói trên, hoặc áp dụng kết hợp một số phương pháp với nhau.
II.5.1. Phương pháp tính giá thành giản đơn ( p
2
trực tiếp)
Phương pháp này áp dụng trong các doanh nghiệp thuộc loại hình sản xuất
giản đơn, số lượng mặt hàng ít, sản xuất với khối lượng lớn, thường là không có
sản phẩm làm dở cuối kỳ hoặc có rất ít và chu kỳ sản xuất ngắn như các nhà máy
điện, nước, các doanh nghiệp khai thác.
Theo phương pháp này, giá thành sản xuất được tính:
Tổng giá thành của
từng đối tượng tính
giá thành
=
Giá trị sản
phẩm dở

dang đầu kỳ
+
Tổng chi phí sản
xuất phát sinh
trong kỳ
-
Giá trị sản
phẩm dở dang
cuối kỳ
Giá thành
đơn vị
=
Tổng giá thành của từng đối tượng tính giá thành
Tổng số lượng sản phẩm đã hoàn thành
II.5.2. Phương pháp tổng cộng chi phí.
Phương pháp này được áp dụng ở những doanh nghiệp mà sản phẩm bao gồm
nhiều chi tiết, bộ phận cấu thành. Đối tượng tập hợp chi phí là các bộ phận, chi tiết
sản phẩm. Đối tượng tính giá thành là sản phẩm hoàn chỉnh, giá thành sản phẩm
được xác định bằng cách tổng cộng chi phí sản xuất của các bộ phận, chi tiết sản
phẩm hay tổng chi phí sản xuất của các giai đoạn, bộ phận sản xuất tạo nên thành
phẩm.
Giá thành sản phẩm (Z) = Z
1
+ Z
2
+...+ Z
n
.

×