Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN QUY TRÌNH KIỂM TOÁN CỦA CÔNG TY VAE

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.98 KB, 6 trang )

BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN
THIỆN QUY TRÌNH KIỂM TOÁN CỦA CÔNG TY VAE
I. NHẬN XÉT CHUNG VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỀ CÔNG TÁC
KIỂM TOÁN TẠI VAE
I.1. Những kết quả đạt được trong công tác kiểm toán tại VAE
Trong lịch sử 10 năm phát triển của ngành kiểm toán tại Việt Nam thì sự ra
đời của VAE là khá muộn. Tuy mới đi vào hoạt động được hơn 3 năm nhưng
những thành tích mà VAE đã đạt được thì quả thật là không nhỏ. Trong 3 năm hoạt
động, VAE đã thu hút được một đội ngũ nhân viên với số lượng tương đối lớn và
có trình độ chuyên môn cao. Với sự dẫn dắt của những kiểm toán viên giàu kinh
nghiệm, chất lượng công việc của Công ty không ngừng được nâng cao và ngày
càng thu hút thêm nhiều khách hàng. Dịch vụ của Công ty đã đến được với hàng
trăm khách hàng thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau trên mọi miền đất
nước.
Với mô hình tổ chức công ty cổ phần, VAE có nhiều lợi thế trong nền kinh tế
mở như hiện nay. Đồng thời cũng tạo điều kiện dễ dàng phát triển và hoạt động có
hiệu quả. Đội ngũ nhân viên trẻ có thể được đánh giá là một lợi thế của Công ty.
Nó phản ánh sự năng động và tiềm năng phát triển của Công ty.
Trong lĩnh vực kinh doanh của mình, VAE có thực hiện dịch vụ đánh giá tài
sản. Đây là một lĩnh vực kinh doanh hoàn toàn mới mẻ trong ngành kiểm toán hiện
nay, nó được đánh giá là một lợi thế của VAE so với các công ty kiểm toán khác.
Đặc biệt loại hình dịch vụ này rất cần thiết trong quá trình cổ phần hoá các doanh
nghiệp tại nước ta hiện nay.
Nhờ tận dụng được những thuận lợi hiện có mà VAE đã tự lực hành động và
tồn tại độc lập một cách vững chắc. Tuy nhiên VAE cũng còn không ít những khó
khăn, thách thức cần vượt qua trên con đường phát triển phía trước.
I.2. Những khó khăn và thách thức mới trong lĩnh vực kiểm toán tại VAE
VAE là một công ty kiểm toán độc lập mới đi vào hoạt động nên còn có ít
kinh nghiệm cũng như uy tín so với các công ty kiểm toán lâu năm. Đây có thể coi
là khó khăn lớn nhất của Công ty trong quá trình tìm kiếm khách hàng. Tuy nhiên
VAE cũng đã có nhiều nỗ lực trong việc nâng cao chất lượng kiểm toán để từng


bước tạo uy tín cho các khách hàng thường xuyên, từ đó mở rộng thị trường khách
hàng.
Sự hội nhập quốc tế dịch vụ đòi hỏi Công ty phải không ngừng hoàn thiện
chương trình kiểm toán cho phù hợp. Đồng thời phải tăng sự cạnh tranh không chỉ
với một số lượng lớn các công ty kiểm toán đang mọc lên ngày càng nhiều tại Việt
Nam mà còn phải cạnh tranh với các Công ty kiểm toán trong khu vực.
Hành lang pháp lí chưa đồng bộ, chưa chặt chẽ trong lĩnh vực kế toán, kiểm
toán đã tạo nên sự không thống nhất giữa Công ty với khách hàng trong một số vấn
đề nhất định. Độ trễ giữa việc ban hành các văn bản pháp lí và việc áp dụng chúng
vào thực tế cũng gây không ít khó khăn cho Công ty trong quá trình kiểm toán.
I.3. Bài học kinh nghiệm từ kiểm toán các khoản dự phòng tại VAE
Chương trình kiểm toán các khoản mục trên Báo cáo tài chính nói chung và
kiểm toán các khoản dự phòng nói riêng đã được thực hiện thống nhất theo quy
trình kiểm toán chung do VAE xây dựng: từ khâu lập kế hoạch kiểm toán, thực
hiện kiểm toán đến khâu kết thúc kiểm toán. Các thủ tục luôn được vận dụng một
cách linh hoạt trong quá trình kiểm toán.
- Giai đoạn chuẩn bị:
Để chuẩn bị cho cuộc kiểm toán, kiểm toán viên bắt đầu với việc tiếp cận
khách hàng, sau đó là lập kế hoạch kiểm toán. Nhận thức được tầm quan trọng của
giai đoạn này có tính chất quyết định cho sự hoạt động của Công ty, VAE luôn chú
trọng và làm tốt nó. Việc soạn thảo một Thư chào hàng ngắn gọn, súc tích nhưng
nêu bật được những ưu thế cũng như tiềm năng của Công ty nên rất thu hút khách
hàng.
Khi lập kế hoạch kiểm toán, tín thận trọng nghề nghiệp đòi hỏi kiểm toán
viên phải thực hiện đầy đủ các bước từ thu thập thông tin về tình hình kinh doanh
của khách hàng, về cơ sở pháp lí của khách hàng cho tới việc tìm hiểu hệ thống
kiểm soát nội bộ, đánh giá rủi ro, trọng yếu. Mô hình đánh giá mức độ trọng yếu
của Công ty được xây dựng khá chi tiết và hợp lí.
- Giai đoạn thực hiện kiểm toán:
Sau khi lập kế hoạch kiểm toán và phân công công việc cho các kiểm toán

viên, công việc kiểm toán được triển khai theo chương trình kiểm toán mà Công ty
đã xây dựng cho từng khoản mục trên Báo cáo tài chính. Riêng các khoản dự
phòng không có chương trình kiểm toán riêng mà được tiến hành kiểm toán kết
hợp với các phần hành có liên quan trực tiếp đến nó.
Về cơ bản nội dung tiến hành kiểm toán các khoản dự phòng đã bao hàm
đầy đủ các thông tin cần kiểm tra. Nhưng thực tế phản ánh trên các hồ sơ kiểm
toán cho thấy nhiều khi phần kiểm toán các khoản dự phòng chưa được đánh giá
đúng mức và thực hiện đầy đủ theo chương trình đã lập. Mặt khác, chương trình
kiểm toán cũng chưa thiết kế được nhiều các biện pháp kiểm tra chi tiết một cách
thiết thực và hiệu quả đối với các khoản dự phòng.
- Giai đoạn kết thúc:
Đây là giai đoạn cuối cùng của cuộc kiểm toán nhưng vẫn được kiểm toán
viên tuân thủ chặt chẽ theo quy trình kiểm toán chung. Để hình thành nên ý kiến
của mình về các khoản dự phòng trên Báo cáo tài chính, kiểm toán viên cần rà soát
và đánh giá lại các vấn đề phát sinh có ảnh hưởng tới kết quả kiểm toán tổng hợp,
xác định chênh lệch và đưa ra bút toán điều chỉnh, từ đó đưa ra ý kiến về tính trung
thực và hợp lí đối với các khoản mục trên Báo cáo kiểm toán. Trong trường có yêu
cầu của đơn vị khách hàng trong vấn đề tư vấn kế toán, Công ty còn có thể phát
hành thêm Thư quản lí.
Nhìn chung quy trình kiểm toán đối với các khoản dự phòng trong kiểm toán
Báo cáo tài chính đã được VAE thực hiện theo đúng quy định của các Chuẩn mực
Kiểm toán hiện hành.
I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI HOÀN THIỆN QUY TRÌNH KIỂM TOÁN
BÁO CÁO TÀI CHÍNH NÓI CHUNG VÀ QUY TRÌNH KIỂM
TOÁN CÁC KHOẢN DỰ PHÒNG NÓI RIÊNG
Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhu cầu đối với các thông tin tài
chính không ngừng tăng cao. Yêu cầu về thông tin tài chính đối với người sử dụng
cũng rất đa dạng, nhìn từ nhiều khía cạnh khác nhau. Có cầu ắt có cung, đó là quy
luật kinh tế từ lâu của nền kinh tế hàng hóa. Sự ra đời của ngành kiểm toán cũng
không nằm ngoài quy luật đó. Kiểm toán ra đời góp thêm một công cụ tích cực cho

việc kiểm tra và kiểm soát tình hình tài chính. Kiểm toán được coi là một tác nhân
làm trong sạch nền tài chính quốc gia.
Nhưng để hoạt động có hiệu quả thì cần phải xây dựng một hành lang pháp
lí cho nó. Trên thực tế cũng đã có nhiều văn bản pháp lí (Chuẩn mực Kiểm toán)
quy định và hướng dẫn việc thực hiện kiểm toán. Nhưng các văn bản này còn thiếu
đồng bộ, và chế độ kế toán thay đổi đòi hỏi các chương trình kiểm toán cũng phải
thay đổi theo cho phù hợp với tình hình thực tế.
Đồng thời trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế thì quy trình kiểm
toán cũng phải hoàn thiện cho phù hợp với thông lệ quốc tế, tăng khả năng cạnh
tranh trên thị trường thế giới.
Các khoản dự phòng là các khoản mục dùng để điều chỉnh và đánh giá giá
trị ròng (thực tế) của các khoản mục mà nó lập dự phòng. Đây là khoản mục góp
phần đánh giá chính xác tình hình tài chính thực tế của đơn vị. Đánh giá sai các
khoản mục này có thể dẫn tới sự đánh giá thiếu chính xác của người sử dụng thông
tin đối với các thông tin tài chính trên Báo cáo tài chính.
II. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN QUY TRÌNH KIỂM TOÁN
CÁC KHOẢN DỰ PHÒNG TẠI VAE
III.1. Hoàn thiện chương trình kiểm toán chung đối với các khoản dự phòng
Các khoản dự phòng tuy phát sinh không nhiều nhưng thực sự đó là những
khoản mục mà khách hàng thường ghi không hợp lí, nó có thể bị ghi cao hơn hay
thấp hơn thực tế vì những mục đích riêng của Ban Giám đốc đơn vị khách hàng.
Do liên quan đến lợi ích của khách hàng, các đơn vị khách hàng có thể phản ánh
quá mức trích lập dự phòng cần thiết để hạch toán tăng chi phí, từ đó làm giảm lợi
nhuận của đơn vị. Đó là cách mà đơn vị có thể áp dụng để giảm thuế thu nhập
doanh nghiệp phải nộp Nhà nước. Hoặc kế toán cố tình bỏ qua không trích đủ mức
dự phòng cần thiết để làm giảm chi phí, làm tăng lợi nhuận thực tế của đơn vị,
phản ánh sai tình hình tài chính của đơn vị. Như vậy các khoản dự phòng là
nguyên do nảy sinh rất nhiều sai phạm và khó có thể kiểm soát được chúng, do vậy
rủi ro khi kiểm toán các khoản dự phòng thường cao.
Trên thực tế, VAE đã xây dựng chương trình kiểm toán các khoản dự phòng

kết hợp trong chương trình kiểm toán các khoản mục mà nó trích lập dự phòng.
Chương trình này được đánh giá là khá hiệu quả, tuy nhiên một số kiểm tra chi tiết
chưa có phương pháp thực hiện cụ thể nên kết quả thu được chưa nhiều, có thể
chưa thực sự chính xác, Công ty cần xây dựng nhiều hơn các phương pháp kiểm
tra chi tiết để tăng độ chính xác của công việc và thực hiện chương trình kiểm toán
đã thiết kế một cách hiệu quả hơn.
III.2. Hoàn thiện công tác tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng
Bảng câu hỏi của Công ty thường được thiết kế dưới dạng câu hỏi đóng
(Có/Không). Kết quả thu được từ những câu hỏi này thường không đầy đủ và có
thể thiếu chính xác. Vì vậy khi thiết kế các câu hỏi phỏng vấn, kiểm toán viên có
thể kết hợp giữa câu hỏi đóng và các câu hỏi mở để thu thập thông tin có độ chính
xác cao hơn. Ví dụ:
- Thủ tục phê duyệt trích lập dự phòng được tiến hành như thế nào?
- Các căn cứ dùng để trích lập dự phòng được lấy từ nguồn nào?
- ……………..
Qua tìm hiểu thực tế kiểm toán tại hai đơn vị khách hàng (Công ty A và
Công ty B) cho thấy việc tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ được tiến hành chưa
đầy đủ như nội dung chương trình kiểm toán đã thiết kế. Các nhận định, đánh giá,
phân tích không được lưu lại trên hồ sơ kiểm toán mà chỉ được các kiểm toán viên
dùng làm căn cứ đánh giá theo kinh nghiệm và nhận định nghề nghiệp. Công ty
cần kiểm soát chặt chẽ các công việc của kiểm toán viên và yêu cầu ghi chép vào
giấy tờ làm việc, lưu trong hồ sơ kiểm toán để tiện xem xét, theo dõi và kiểm tra
sau này.
III.3. Việc áp dụng các thủ tục phân tích
Các thủ tục phân tích được áp dụng rất nhiều trong quá trình kiểm toán. Việc
phân tích chính xác sẽ giúp kiểm toán viên có được những nhận xét khái quát về
thực tế và dễ dàng đưa ra những kết luận phù hợp. Từ kết quả phân tích có thể thấy
được hướng làm tập trung công việc, tăng hiệu quả kiểm toán.
Các thủ tục phân tích đã được Công ty áp dụng trong cả khâu lập kế hoạch
và khâu thực hiện công tăc kiểm toán nhưng chưa được ghi chép lại trong hồ sơ

kiểm toán. Đề nghị kiểm toán viên cần thực hiện phân tích cụ thể và ghi chép lại để
tiện theo dõi, đối chiếu đối với những khách hàng thường xuyên.
III.4. Hoàn thiện kiểm toán chi tiết các khoản dự phòng
Các kiểm tra chi tiết đã được Công ty xây dựng khá đầy đủ song chưa khả
thi. Công ty cần thiết kế các thủ tục cụ thể để có thể tiến hành kiểm tra đơn giản, dễ
làm mà chính xác.
Đặc biệt đối với việc xác định quyền sở hữu của đơn vị khách hàng đối với
những tài sản được trích lập dự phòng phải có thủ tục gửi thư xác nhận sao cho đỡ
tốn chi phí mà đạt được kết quả cao nhất.
III.5. Áp dụng Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 540
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 540 đã quy định rõ nội dung, thủ tục
cũng như các phương pháp kiểm toán cần sử dụng trong quá trình kiểm toán các
ước tính kế toán, mà các khoản dự phòng cũng là một trong những ước tính kế toán
quan trọng. Cụ thể:
- Xem xét các cơ sở trích lập dự phòng;
- Kiểm tra các tính toán liên quan đến dự phòng;
- Lập ước tính độc lập;
- …………….
Trên đây chỉ là một số ý kiến chưa đầy đủ về phương hướng hoàn thiện của
em. Em rất mong được sự hướng dẫn của cô giáo Bùi Thị Minh Hải để em có thể
phát triển cụ thể và sâu sắc hơn nữa những ý kiến trên.

×