Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

THỰC TRẠNG RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ THEO PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI NGÂN HÀNG ĐT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.39 KB, 27 trang )

THỰC TRẠNG RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC
TẾ THEO PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI NGÂN HÀNG
ĐT & PT NAM HÀ NỘI.
2.1. Tình hình hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ tại NH ĐT & PT
Nam Hà Nội.
Nghiệp vụ TTQT bắt đầu thực hiện tại Chi nhánh khi chính thức được
nâng cấp lên thành Chi nhánh cấp I (năm 2005). Trong tất cả các phương thức
TTQT tại NH ĐT & PT Nam Hà Nội, phương thức thanh toán TDCT được sử
dụng phổ biến và chiếm tỉ trọng nhiều nhất trong tổng giá trị thanh toán XNK
của Ngân hàng. Các món hàng XNK chủ yếu được thanh toán bằng ngoại tệ
mạnh, trong đó phần lớn tập trung vào thanh toán bằng USD chiếm 85% giao
dịch trở lên tổng giá trị thanh toán.
Bảng 2.1. DOANH SỐ TTQT TẠI NH ĐT & PT NAM HÀ NỘI.
(Đơn vị: triệu USD)
CƠ CẤU
Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009
Số tiền
Tỷ
trọng(%)
Số tiền
Tỷ
trọng(%)
Số tiền
Tỷ
trọng(%)
Chuyển tiền 11,2 31,7% 22,4 33,6% 11 17,5%
Nhờ thu 3,9 11% 5,85 8,8% 2
3,2%
TDCT 20,2 57,2% 38,5 57,6% 50 79,3%
Tổng doanh số
TTQT


35,3 100% 66,75 100% 63 100%
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động TTQT các năm 2007- 2009)
Nhìn vào bảng số liệu ta thấy doanh số thanh toán theo phương thức
TDCT có tốc độ tăng trưởng đều qua các năm. Năm 2007, tổng doanh số thanh
toán TDCT đạt 20,2 triệu USD chiếm 57,2% tổng doanh số TTQT và đến năm
2008 đã tăng lên 18,3 triệu USD, tương ứng với tốc độ tăng 90,6%, chiếm
57,6% tổng doanh số TTQT. Tính đến 31/12/2009, tổng kim ngạch thanh toán
TDCT đạt 50 triệu USD, tăng 29,9% với mức tăng là 11,5 triệu USD (chiếm tỷ
trọng 79,3% trong tổng doanh số TTQT), chứng tỏ hoạt động thanh toán TDCT
có sự tăng trưởng rõ rệt.
Tại NH ĐT & PT Nam Hà Nội doanh số thanh toán L/C nhập khẩu luôn
cao hơn so với doanh số L/C xuất khẩu. Nguyên nhân là do đặc điểm khách
hàng của Chi nhánh chủ yếu là những đơn vị sản xuất, thường xuyên nhập khẩu
nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất kinh doanh như: CTy Phân lân nung chảy
Văn Điển nhập nguyên liệu, hóa chất và Cty Bao Bì Việt Nam nhập máy móc
thiết bị... Vì vậy, hoạt động thanh toán TDCT tại NH ĐT & PT Nam Hà Nội chủ
yếu phục vụ cho việc mở L/C và thanh toán cho L/C nhập khẩu. Do đó phải
thường xuyên khai thác ngoại tệ của các doanh nghiệp và tổ chức tín dụng khác
cùng sự hỗ trợ của Hội Sở Chính để đảm bảo nhu cầu thanh toán và nhập khẩu
cho các đơn vị kinh doanh. Nhằm mục đích hạn chế tối thiểu rủi ro trong thanh
toán TDCT.
Tính đến hết năm 2009, tổng giá trị thanh toán L/C đạt 50 triệu USD,
trong đó L/C nhập khẩu đạt 48 triệu USD (chiếm tỷ trọng 96%)
BẢNG 2.2. TỶ TRỌNG DOANH SỐ THANH TOÁN L/C TẠI NH ĐT &
PT NAM HÀ NỘI.
(Đơn vị: triệu USD)
CƠ CẤU
Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009
Số tiền
Tỷ

trọng(%)
Số tiền
Tỷ
trọng(%)
Số tiền
Tỷ
trọng(%)
- L/C NK 16,4 81,2% 32,8 85,2% 48
96%
- L/C XK 3,8 18,8% 5,7 14,8% 2 4%
Tổng doanh số
thanh toán L/C
20,2 100% 38,5 100% 50 100%
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động TTQT các năm 29007- 2009)
Tỷ trọng L/C NK năm sau cao hơn so với năm trước, đây là tình trạng
chung của các Ngân hàng thương mại, do Việt Nam vẫn là nước nhập siêu. Năm
2009, tổng doanh số TTQT theo phương thức TDCT là 50 triệu USD, trong đó
thanh toán L/C NK đạt 48 triệu USD chiếm 96% tổng doanh số thanh toán L/C,
gấp rất nhiều lần so với L/C XK. Trong năm 2008, L/C NK chiếm 85,2% tổng
doanh số thanh toán L/C với doanh số là 82,8 triệu USD. Có thể thấy, tốc độ
tăng trưởng doanh số TTQT của Ngân hàng ổn định qua các năm, đây cũng là
điều kiện để giúp Ngân hàng nâng cao chất lượng trong hoạt động TTQT.
2.1.1. Hoạt động thanh toán L/C nhập khẩu:
Doanh số và số món phát hành L/C trong những năm gần đây luôn tăng
trưởng cao, năm sau cao hơn so với năm trước. Qua bảng số liệu thấy rõ riêng
năm 2009, số món phát hành và thanh toán L/C NK tăng lên đáng kể. Tính đến
31/12/2009, Chi nhánh đã thực hiện mở 416 món L/C (tăng 141 món so với
năm 2008) với doanh số quy USD đạt 48 triệu USD, tăng 46,3% so với năm
2008.
BẢNG 2.3. SỐ MÓN, DOANH SỐ L/C NK QUA CÁC NĂM TẠI NH ĐT

& PT NAM HÀ NỘI.
GIAO DỊCH 2007 2008 2009
2008/200
7
2009/2008
Phát
hành
L/C
Số món 143 282 418 69,2% 48,2%
Doanh số (quy triệu
USD)
17,9 36,2 50,8 102,2% 40,3%
Than
h toán
L/C
Số món 132 275 416 108,3% 51,3%
Doanh số (quy triệu
USD)
16,4 32,8 48 100% 46,3%
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động TTQT các năm 2007- 2009)
Các loại L/C này chủ yếu phục vụ khách hàng nhập khẩu máy móc (Cty
Bao Bì) và NK nguyên liệu, hóa chất (Cty Phân lân Nung chảy Văn Điển). Qua
sự tăng trưởng nhanh chóng trong hoạt động thanh toán TDCT tại Chi nhánh có
thể nhận thấy rõ tác động của sau khi Việt Nam gia nhập WTO, sức cầu hàng
hóa từ trong nước và sức cung hàng hóa từ bên ngoài được đáp ứng, đẩy mạnh
tỉ lệ hàng hóa nhập khẩu của các doanh nghiệp. Trong giai đoạn phát triển tới,
hoạt động thanh toán nhập khẩu TDCT tại Chi nhánh có xu hướng tăng và duy
trì ổn định mức doanh thu từ hoạt động này đóng góp tỷ trọng lớn vào doanh
thu của Chi nhánh.
- L/C được sử dụng phổ biến nhất hiện nay tại NH ĐT & PT Nam Hà

Nội là L/C không hủy ngang hoặc L/C không hủy ngang có xác nhận và điều kiện
thanh toán các loại L/C này là trả ngay hoặc trả chậm. Các loại L/C khác như
L/C tuần hoàn, L/C giáp lưng, L/C đối ứng... vẫn chưa được áp dụng tại Chi
nhánh. Thị trường thanh toán lớn nhất của Ngân hàng chủ yếu tập trung tại khu
vực Châu Á như Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan, Singapore... và gần đây bắt
đầu mở rộng ra thị trường Châu Âu, Châu Mỹ.
- Mức ký quỹ đối với L/C nhập khẩu: Tất cả các doanh nghiệp khi mở
L/C tại NH ĐT & PT Nam Hà Nội đều phải thực hiện đảm bảo ký quỹ với tỷ lệ
quy định từ 0% - 100% giá trị L/C. Tỷ lệ này cao hay thấp còn phụ thuộc vào
rất nhiều yếu tố như: độ tín nhiệm, uy tín của doanh nghiệp mở L/C, khả năng
quay vòng vốn của doanh nghiệp, tình hình tài chính của doanh nghiệp, loại
hình doanh nghiệp... Các trường hợp ký quỹ dưới 100%, Ngân hàng chỉ áp dụng
với doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh, quan hệ tài chính sòng
phẳng, không có nợ quá hạn, không có lãi treo, phương án kinh doanh hiệu quả.
Khách hàng truyền thống của Ngân hàng như Công Ty Bao Bì Việt Nam, Cty
TNHH Nhà Nước một thành viên Điện Cơ Thống Nhất, Công Ty phân lân nung
chảy Văn Điển tỷ lệ ký quỹ của hầu hết các món L/C đều ở mức 0%. Các khách
hàng này đều có một hạn mức NK để mở L/C với tổng trị giá bằng hạn mức đó.
2.1.2. Hoạt động thanh toán L/C xuất khẩu:
Sau khi nước ta gia nhập WTO, kim ngạch xuất khẩu tăng với tốc độ
nhanh và ổn định. Năm 2009, dù Việt Nam vẫn là nước nhập siêu nhưng kim
ngạch xuất khẩu vẫn đạt 56,584 tỷ USD, giảm 9,7% do khủng hoảng kinh tế
toàn cầu, nhưng trong 3 tháng cuối năm 2009 cán cân thương mại đã có sự đổi
chiểu đi lên, thể hiện tốc độ phát triển nhanh chóng của Đất nước trong giai
đoạn hội nhập kinh tế (Nguồn – Tổng cục Thống kê). Khối lượng XK tăng
nhanh kéo theo dịch vụ thanh toán XK của các Ngân hàng phát triển theo. Vì
vậy hoạt động thanh toán L/C XK tại NH ĐT & PT Nam Hà Nội cũng được
quan tâm phát triển và đóng góp một phần không nhỏ vào doanh thu TTQT tại
Ngân hàng.
BẢNG 2.4. SỐ MÓN & DOANH SỐ L/C XK QUA CÁC NĂM TẠI NH

ĐT & PT NAM HÀ NỘI.
GIAO DỊCH 2007 2008 2009 2008/2007 2009/2008
Thông
báo
L/C
Số món 18 34 9 88,9% -73,5%
Doanh số (quy triệu
USD)
4,1 5,9 2 43,9% -66,2%
L/C
đã
thanh
toán
Số món 16 32 9 100% -71,8%
Doanh số (quy triệu
USD)
3,8 5,7 2 50% -64,9%
(Nguồn: Báo cáo hoạt động TTQT các năm 2007- 2009)
Nhìn vào bảng số liệu ta thấy, năm 2008 được coi là năm đánh dấu tốc độ
tăng trưởng của hoạt động thanh toán L/C XK tại Ngân hàng. Với số L/C thông
báo là 34 món tăng 88,9% còn về doanh số tăng 43,9% so với năm 2007. Đến
năm 2009, cả số món và doanh số L/C thông báo và L/C thanh toán đều giảm,
trong đó L/C thông báo giảm 66,2% và L/C thanh toán giảm 64,9% so với năm
2008 (về doanh số). Có thể thấy được trong các năm qua nhu cầu thanh toán
L/C NK tại Ngân hàng ngày càng tăng cao và nhanh hơn so với nhu cầu thanh
toán L/C XK. Sự mất cân đối này có thể dẫn đến tình trạng mất cân đối ngoại tệ
nghiệm trọng và ảnh hưởng đến hoạt động TTQT. Mặc dù trong những năm vừa
qua, Ngân hàng đã có những cố gắng lớn trong việc làm giảm tỷ lệ mất cân đối
này, song Chi nhánh cần phải nỗ lực hơn nữa để thúc đầy L/C XK phát triển.
2.2. Thực trạng rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ tại NH ĐT & PT

Nam Hà Nội.
Nghiên cứu thực trang rủi ro tại NH ĐT & PT Nam Hà Nội, chúng ta sẽ
tiếp cận theo cách sau:
- Rủi ro từ môi trường vĩ mô: pháp luật, chính sách và tỷ giá.
- Chủ thể gây ra rủi ro: xuất phát từ ngân hàng (với tư cách là NHPH,
NHTB...) và xuất phát từ khách hàng (Người XN - NK), với các rủi ro
liên quan đến đạo đức và rủi ro về nghiệp vụ.
2.2.1. Rủi ro từ môi trường vĩ mô.
2.2.1.1. Rủi ro pháp luật, chính sách.
Những quy định về hạn chế XNK của Nhà nước cũng là nguyên nhân gây
nên rủi ro cho người XK. Trường hợp: vào năm 2007 Công ty cung ứng vật tư
xây dựng ký hợp đồng thương mại XK gỗ cho một công ty thương mại ở Trung
Quốc, trị giá hóa đơn là 12,075 USD. Và NH ĐT & PT Nam Hà Nội đóng vai
trò là NHTB. Sau khi ký hợp đồng, Nhà nước ban hành quyết định tăng thuế, hạn
chế XK mặt hàng này. Vì vậy, Công ty đáp ứng được 2/3 khối lượng hàng giao
theo hợp đồng cho bên mua. Bên mua phạt và giảm giá hàng bán vì việc không
thực hiện đầy đủ hợp đồng, gây thiệt hại rất lớn cho Công ty.
Lệnh cấm vận đối với một quốc gia không chỉ mang lại tổn thất cho chính
quốc gia đó mà còn là nguyên nhân dẫn đến rủi ro cho cả doanh nghiệp XNK và
Ngân hàng. Năm 2008, Công ty XNK Bảo Tuấn xuất khẩu lô hàng sang Iraq với
thời hạn thanh toán là 90 ngày sau ngày giao hàng. Nhưng đến thời hạn trả tiền,
NH ĐT & PT Nam Hà Nội đòi tiền thì Ngân hàng Iraq không thể thanh toán
được vì lý do Iraq bị cấm vận.
Bên cạnh đó, những quy định về biểu thuế thay đổi liên tục làm cho các
doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc tính toán hiệu quả kinh doanh. Từ
đó dẫn đến nhiều trường hợp do gặp thua lỗ trong kinh doanh vì thuế thay đổi
mà các doanh nghiệp kéo dài thời gian thanh toán cho đối tác, gây giảm sút uy
tín cho Ngân hàng. Cùng với thủ tục hành chính trong quản lý XNK còn rườm
rà, mất nhiều thời gian, gây phiền toái thậm chí mất cơ hội kinh doanh cho cả
doanh nghiệp và Ngân hàng. Do các Bộ ngành liên quan phối hợp chưa chặt chẽ

gây trở ngại cho hoạt động TTQT.
2.2.1.2. Rủi ro tỷ giá hối đoái.
Trong L/C được mở tại NH ĐT & PT Nam Hà Nội thường quy định sử
dụng một loại tiền tệ nhất định và có giá trị trên thế giới như USD, EUR... để
thanh toán. Song trên thực tế ở Việt nam, có rất ít doanh nghiệp vừa kinh doanh
mặt hàng NK vừa kinh doanh mặt hàng NK cùng một lúc. Do vậy, hầu như tất
cả các khách hàng mở L/C tại Ngân hàng thường không thể tự cân đối ngoại tệ
để thanh toán L/C. Thậm chí ngay cả khi doanh nghiệp khách hàng kinh doanh
cả hai mặt hàng XNK cũng không thể cân đối đủ lượng ngoại tệ cho NK và cần
Ngân hàng hỗ trợ trong việc tìm kiếm nguồn ngoại tệ bổ sung.
Cuối năm 2009, tỷ giá đồng USD tăng lên đột ngột so với VND, mặt khác
vào thời điểm đó khan hiếm nguồn ngoại tệ để thanh toán mà nhu cầu thanh
toán L/C lại rất lớn. Nên để đảm bảo độ tín nhiệm của mình trong thanh toán
NH ĐT & PT Nam Hà Nội cũng đã phải tạm ứng một khối lượng lớn ngoại tệ
bán cho khách hàng lấy tiền thanh toán L/C, song lượng ngoại tệ bị thiếu hụt
cũng không thể mua đủ được với giá đã bán và phải gánh chịu những rủi ro về
tỷ giá.
Ngoài ra, ngân hàng còn phải gánh chịu rủi ro khi chuyển đổi giữa các loại
ngoại tệ. Ví dụ như khi thanh toán L/C bằng đồng DEM (đồng Mác Đức) hay
JPY (Đồng Yên Nhật), do đồng tiền Việt Nam chưa phải là đồng tiền tự do
chuyển đổi trên thị trường, nên NH ĐT & PT Nam Hà Nội phải dùng USD làm
đồng tiền trung gian để đổi lấy DEM hay JPY theo giá trên thị trường quốc tế.
Nhưng khách hàng của Ngân hàng chỉ có đồng tiền VND để mua DEM hay JPY
của ngân hàng theo tỷ giá trong nước (của thị trường liên ngân hàng trong ngày
thanh toán). Vì vậy, rủi ro hối đoái sẽ xảy ra khi tỉ giá trên thị trường quốc tế
cao hơn thị trường trong nước.
2.2.2. Chủ thể gây rủi ro.
2.2.2.1. Khách hàng.
a). Rủi ro đạo đức.
- Doanh nghiệp NK.

+ Do doanh nghiệp NK đã vi phạm cam kết với Ngân hàng, không thực
hiện đúng nghĩa vụ của mình theo quy định.
NH ĐT & PT Nam Hà Nội cũng đã chịu nhiều thiệt hại trong việc mở L/C
NK trả chậm, các doanh nghiếp sau khi nhận hàng kinh doanh không hiệu quả,
mất khả năng thanh toán hoặc đang trong vòng tố tụng, nên đến hạn không thể
thanh toán cho Ngân hàng. Nhiều trường hợp Ngân hàng đứng ra trả tiền thay
cho khách hàng để bảo vệ uy tín và tuân thủ thông lệ quốc tế. (Theo điều 7 –
UCP 600, thì NHPH phải có trách nhiệm thanh toán tiền cho người thụ hưởng
ngay cả khi người mua mất khả năng thanh toán hoặc phá sản do kinh doanh
thua lỗ). Do đó, rủi ro mất vốn của Ngân hàng là rất cao vì khả năng thu hồi tiền
rất mong manh.
Ngoài ra, rủi ro mà Ngân hàng gặp phải đó là sự bội ước của doanh
nghiệp, không thực hiện đúng cam kết với Ngân hàng. Trường hợp, Ngân hàng
phát hành thư bảo lãnh nhận hàng do hàng về trước BCT, đông thời cam kết
thanh toán tiền hàng và không khiếu nại gì về BCT có sai sót, ủy quyền cho
Ngân hàng tự động ghi nợ vào tài khoản của khách hàng. Nguyên nhân khách
quan dẫn đến sự bội ước này là do: sự biến động của thị trường tiêu thụ trong
nước nằm ngoài dự đoán của doanh nghiệp, vì vậy khi nhập hàng về không tiêu
thụ được làm doanh nghiệp bị thua lỗ, không có khả năng thanh toán cho Ngân
hàng. Thực tế cho thấy, nhiều Ngân hàngThương mại khác cũng gặp rủi ro này
gây thiêt hại đáng kế cho mình.
Tình huống 1: Sự bội ước của doanh nghiệp XNK
Điển hình là trường hợp của Công ty Cổ phần xuất nhập khẩu Bảo
Tuấn, mở L/C tại NH ĐT & PT Nam Hà Nội nhập khẩu Ti Vi, người hưởng
lợi là công ty Chimie của Đức, phương thức thanh toán là thư tín dụng không
hủy ngang, trả sau.
Hợp đồng được ký ngày 18/03/2009 với tổng giá trị lô hàng là 28,068
USD. Ngày 18/04/2009, Công ty Chimie thông báo cho Công ty Bảo Tuấn
hàng đã xếp lên tầu, vận đơn lập ngày 17/03/2009, dự kiến ngày khỏi hành là
18/04/2009 và ngày hàng tới cảng Hải Phòng là 29/04/2009.

Nhưng ngày 22/04/2009 hàng đã đến cảng Hải Phòng mà NH ĐT & PT
Nam Hà Nội chưa nhận được bộ chứng từ. Khi nhận hàng được giấy báo hàng
về của Công Ty vận chuyển hảng hải ở Hải Phòng, Công Ty Bảo Tuấn đã đến
NH ĐT & PT Nam Hà Nội yêu cầu phát hành thư bảo lãnh nhận hàng và cam
kết thanh toán tiền hàng mà không khiếu nại gì về bộ chứng từ có sai sót, ủy
quyền cho ngân hàng tự động ghi nợ vào tài khoản của Công Ty.
Ngày 28/04/2009 bộ chứng từ về đến NH ĐT & PT Nam Hà Nội, sau
khi kiểm tra ngân hàng phát hiện bộ chứng từ có lỗi là đã gửi thông báo cho
Công ty Bảo Tuấn về tình trạng bộ chứng từ, yêu cầu Công ty thực hiện cam
kết, nhưng Công ty đã từ chối thanh toán với lý do bộ chứng từ có lỗi. Mặt
khác, vào thời điểm đó nhu cầu thị trường thay đổi, người tiêu dùng thích sử
dụng ti vi LCD với giá cả hợp lý và chất lượng tốt. Vì vậy, các loại ti vi mà
Công ty vừa nhập không những giá đã giảm mạnh mà còn không tiêu thị
được. Do đó, Công ty kinh doanh thua lỗ nặng và không có khả năng thanh
toán tiền cho Ngân hàng. Phía NH ĐT & PT Nam Hà Nội yêu cầu ngân hàng
bên Đức lập lại bộ chứng từ cho đúng và yêu cầu của Công ty Bảo Tuấn thực
hiện cam kết, nhưng Công ty vẫn cố tình trì hoãn thực hiện thanh toán. Theo
quy định trong L/C thì NH ĐT & PT Nam Hà Nội vẫn phải thanh toán cho
phía Ngân hàng Đức vì bộ chứng từ hoàn hảo. Vụ việc này cũng gây thiệt hại
lớn cho NH ĐT & PT Nam Hà Nội.
Nguồn. Phòng Quản lý Rủi ro
Nhận xét tình huống: Như vậy Công ty Bảo Tuấn chỉ quan tâm tới lợi ích
của mình không giữ chữ tín trong quan hệ kinh doanh lâu dài. Công ty tìm mọi
cách để từ chối thanh toán mặc dù BCT hợp lệ sau khi sửa đổi. Điều này đã đẩy
ngân hàng vào tình thế tiến thoái lưỡng nan. Vì nếu không thanh toán cho người
hưởng lợi, ngân hàng sẽ mất uy tín trên trường quốc tế. L/C mở ra có thể bị từ
chối hay bị người hưởng lợi yêu cầu xác nhận làm phát sinh chi phí cao làm
phát sinh chi phí cao và sẽ dẫn đến mất những khách hàng có uy tín. Nếu ngân
hàng thanh toán thì ngân hàng phải dùng tiền của mình đề trả thay và việc đòi
tiền cũng khó khăn. Vậy nên, việc đánh giá khách quan về mặt đạo đức kinh

doanh và khả năng tài chính là rất quan trong.
+ Lợi dụng NHPH còn thiếu kinh nghiệm, thiếu khách hàng lửa đảo về
hàng hóa về chứng từ giả mạo. Trường hợp: Khi mới thành lập Chi nhánh năm
2005, NH ĐT & PT Nam Hà Nội tiếp nhận hồ sơ xin mở L/C yêu cầu mức ký
quỹ thấp (10%). Khi xem xét hợp đồng thì TTV nhận thấy chữ ký của người
XK đã được cắt dán và photocopy. Người NK giải thích đó là chữ ký qua fax.
Thấy giao dịch có nghi ngờ, Chi nhánh đã tiến hành điều tra thì kết quả cho
thấy, đây là một công ty ma, số điện thoại và số fax trên hợp đồng không có
thực. NH ĐT & PT Nam Hà Nội đã từ chối mở L/C. Qua tình huống trên, Chi
nhánh cũng như các Chi nhánh khác của NH ĐT & PT Việt Nam phải hết sức
cảnh giác để tránh mở L/C cho các công ty ma.
- Người XK:
+ Cố tình chậm xuất trình bộ chứng từ để ngân hàng phát hành bảo
lãnh nhận hàng theo bộ chứng từ của người NK, sau dó xuất trình bộ chứng từ
có giá trị cao hơn hay không xuất trình vận đơn gốc.
Tình huống 2: Bộ chứng từ về với số tiền cao hơn.
Tháng 5 năm 2007, Chi nhánh mở L/C cho Công ty xuất nhập khẩu
Vinashin. Để nhập khẩu thép cuộn, với điều khoản cho phép giao hàng từng
phần và L/C không quy định về đơn giá, chỉ quy định về số lượng.
Khi hàng về đến cảng Hải Phòng, để tránh chi phí phát sinh do phải lưu
kho bãi mặt khác cũng để kịp tiến độ của công trình, Công Ty đã đề nghị
Ngân hàng ký hậu bảo lãnh nhận hàng bộ chứng từ để nhận hàng với giá trị
528.000 USD. Tuy nhiên sau đó, Bên XK đã xuất trình bộ chứng từ hoàn hảo

×