Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.99 KB, 20 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY
XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Khái niệm
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh
tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế
nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại
thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân
hàng.
Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh
tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế-xã
hội đều gửi tiền tại ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò người thủ quỹ cho toàn
xã hội.
Ngân hàng cũng là một trong những tổ chức trung gian tài chính quan
trọng nhất. Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách
tiền tệ, vì vậy là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của Chính phủ
nhằm ổn định kinh tế.
Theo PGS. TS. Phan Thị Thu Hà, 2007, Giáo trình Ngân hàng thương mại,
NXB ĐH Kinh tế quốc dân: “Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một
danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm,
dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một
tổ chức kinh doanh nào khác trong nền kinh tế”.
1.1.2. Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho công chúng và
doanh nghiệp. Thành công của ngân hàng phụ thuộc vào năng lực xác định các
dịch vụ mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách có hiệu quả.
1.1.2.1. Cho vay
a) Cho vay thương mại
Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế
là cho vay đối với những người bán. Sau đó là bước chuyển tiếp từ chiết khấu
thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng, giúp họ có vốn để


mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh.
b) Cho vay tiêu dùng
Trong giai đoạn đầu hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với
cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng rủi ro vỡ
nợ tương đối cao. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh
trong cho vay đã buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng như là một
khách hàng tiềm năng. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, tín dụng tiêu dùng
đã trở thành một trong những loại hình tín dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các
nước có nền kinh tế phát triển.
c) Tài trợ cho dự án
Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các ngân hàng ngày
càng trở nên năng động trong việc tài trợ cho xây dựng nhà máy mới đặc biệt là
trong các ngành công nghệ cao. Do rủi ro trong loại hình tín dụng này nói chung
là cao song lãi lại lớn. Một số ngân hàng còn cho vay để đầu tư vào đất.
1.1.2.2. Nhận tiền gửi
Ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền với cam
kết hoàn trả đúng hạn. Trong cuộc cạnh tranh để tìm và giành được các khoản
tiền gửi, các ngân hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho khách
hàng về việc sẵn sàng hi sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép ngân
hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh.
1.1.2.3. Mua bán ngoại tệ
Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi
ngoại tệ - một ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền này lấy một loại tiền
khác và hưởng phí dịch vụ.
1.1.2.4. Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán
Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt,
tức là người gửi tiền không cần phải đến ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết
giấy chi trả cho khách, khách hàng mang giấy đến ngân hàng sẽ nhận được tiền.
Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, nhiều thể thức thanh toán được
phát triển như Ủy nhiệm chi, nhờ thu, L/C, thanh toán bằng điện, thẻ…

1.1.2.5. Các dịch vụ khác
Ngoài các dịch vụ được cung cấp ở trên, một ngân hàng thương mại còn
cung cấp thêm một số dịch vụ cơ bản như sau: bảo quản vật có giá, quản lý
ngân quỹ, tài trợ các hoạt động của Chính phủ, bảo lãnh, cung cấp dịch vụ bảo
hiểm, cho thuê thiết bị trung và dài hạn…
1.1.3. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
1.1.3.1. Khái niệm
Theo quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001: “Cho vay là
một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử
dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả
thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.”
Tín dụng là hoạt động sinh lời lớn nhất song rủi ro cao nhất cho NHTM.
Rủi ro này có rất nhiều nguyên nhân, đều có thể gây ra tổn thất, làm giảm thu
nhập của ngân hàng. Do vậy, các ngân hàng phải cân nhắc kỹ lưỡng, ước lượng
khả năng rủi ro và sinh lời khi quyết định cho vay.
1.1.3.2. Đặc điểm của hoạt động cho vay
Cho vay của NHTM là một hoạt động phức tạp, thường xuyên chịu sự tác
động của môi trường kinh tế. Nhưng về bản chất, hoạt động cho vay của NHTM
có ba đặc điểm sau:
Thứ nhất, cho vay là sự cung cấp một lượng giá trị dựa trên cơ sở lòng tin.
Điều đó có nghĩa là NHTM tin tưởng người đi vay sử dụng vốn vay có hiệu quả
sau một thời gian nhất định và do đó có khả năng trả được nợ.
Thứ hai, cho vay là sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn trong
một thời hạn xác định. Để đảm bảo thu hồi nợ đúng hạn, NHTM thường xác
định rõ thời hạn cho vay. Việc xác định thời hạn cho vay dựa vào quá trình luân
chuyển vốn của người đi vay và tính chất vốn của NHTM.
Về quá trình luân chuyển vốn của người vay: Thời hạn cho vay phải phù
hợp với chu kỳ luân chuyển vốn của người vay thì lúc đó người vay mới có điều
kiện để trả nợ. Nếu thời hạn cho vay nhỏ hơn chu kỳ luân chuyển vốn thì khi
đến hạn, khách hàng chưa có nguồn thu để trả nợ. Ngược lại, nếu thời hạn cho

vay dài hơn chu kỳ luân chuyển vốn sẽ tạo điều kiện cho khách hàng sử dụng
vốn sai mục đích và không có nguồn để trả nợ.
Về tính chất vốn của NHTM: nếu vốn của NHTM ổn định (vốn trung-dài
hạn chiếm tỷ trọng lớn hoặc khả năng huy động vốn tốt) thì thời hạn cho vay có
thể dài hơn, ngược lại thì thời hạn cho vay phải ngắn hơn để đảm bảo khả năng
thanh toán của NHTM.
Thứ ba, cho vay là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị trên
nguyên tắc phải hoàn trả cả gốc và lãi. Vì vốn cho vay của NHTM là vốn huy
động của những người tạm thời có vốn nhàn rỗi nên sau một thời gian nhất định
NHTM phải trả lại cho họ. Mặt khác, NHTM phải có nguồn để trả lãi cho người
gửi tiền cũng như bù đắp chi phí hoạt động nên người vay vốn ngoài việc phải
trả nợ gốc còn phải trả cho NHTM một khoản lãi.
1.1.3.3. Phân loại hoạt động cho vay của NHTM
a) Phân loại theo thời gian
Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời
gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng như khả
năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian, tín dụng được phân thành:
- Tín dụng ngắn hạn: từ 12 tháng trở xuống.
- Tín dụng trung hạn: từ trên 1 năm đến 5 năm.
- Tín dụng dài hạn: trên 5 năm.
Thời hạn tín dụng thường được xác định cụ thể và ghi trong hợp đồng tín
dụng, là thời hạn mà trong đó ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một
khoản tín dụng. Thời hạn tín dụng có thể được tính từ lúc đồng vốn đầu tiên của
ngân hàng được phát ra đến lúc đồng vốn và lãi cuối cùng phải thu về.
b) Phân loại theo tài sản đảm bảo
Tín dụng có thể được phân chia thành tín dụng có đảm bảo bằng uy tín của
khách hàng, có đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố tài sản.
Tín dụng không cần tài sản đảm bảo có thể được cấp cho các khách hàng
có uy tín, thường là khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính
vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa. Các khoản cho vay theo chỉ thị

của Chính phủ mà Chính phủ yêu cầu không cần tài sản đảm bảo. Các khoản
cho vay đối với các tổ chức tài chính lớn, các công ty lớn… cũng có thể không
cần tài sản đảm bảo.
Tín dụng dự trên cam kết đảm bảo yêu cầu ngân hàng và khách hàng phải
kí hợp đồng đảm bảo.
c) Phân loại theo rủi ro
Cách phân loại này giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại tính an toàn
của các khoản tín dụng, trích lập dự phòng tổn thất kịp thời.
- Tín dụng lành mạnh: các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao.
- Tín dụng có vấn đề: các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh
như khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm, khách hàng
gặp thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính…
- Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn
ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn.
- Nợ quá hạn khó đòi: nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản
thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì…
d) Phân loại theo mục đích sử dụng vốn
- Cho vay sản xuất lưu thông hàng hóa: là hình thức cho vay đối với các
doanh nghiệp, các chủ thể kinh doanh để tiến hành sản xuất và lưu thông hàng
hóa.
- Cho vay tiêu dùng: là hình thức cho vay đối với các cá nhân để đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng như: mua sắm nhà cửa, xe cộ, các loại hàng hóa lâu bền…
1.2. HOẠT ĐỘNG CHO VAY XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NHTM
1.2.1. Ngân hàng thương mại với hoạt động xuất nhập khẩu
NHTM tham gia Tài trợ ngoại thương: đây là một trong những chức năng
quan trọng nhất do các ngân hàng thương mại thực hiện, liên quan trực tiếp đến
quan hệ kinh tế đối ngoại. Mặc dù ngoại thương được hình thành và bắt nguồn
từ các hoạt động nội thương nhưng có những sự khác nhau đáng kể và chính từ
sự khác nhau đó mà các NHTM cần phải cung ứng các dịch vụ thanh toán quốc
tế nhằm làm cho quá trình này diễn ra một cách suôn sẻ. Chính vì vậy, các

NHTM có vai trò rất quan trọng trong thương mại quốc tế, điều này được thể
hiện ở các mặt sau:
- Cung cấp các khoản bảo lãnh hoặc tín dụng: bao gồm bảo lãnh tín chấp,
bảo lãnh phát hành LC, cho vay… đối với nhà nhập khẩu và chiết khấu chứng
từ xuất khẩu, mua lại chứng từ nhờ thu… đối với nhà xuất khẩu.
- Trung gian thanh toán: hệ thống NH cho phép việc thực hiện thanh toán
giữa các bên liên quan, đảm bảo an toàn nhanh chóng và chính xác.
- Tư vấn: trong bất kỳ trường hợp nào nếu gặp phải những vấn đề liên quan
đến thanh toán trong giao dịch ngoại thương, khách hàng liên quan đều có thể
nhận được những tư vấn tốt nhất từ cán bộ chuyên môn trong các NHTM.
- Quản lý rủi ro tín dụng: trong thương mại quốc tế, người mua có thể phải
giao dịch với một người bán mà họ không hề biết. Người mua người bán không
thể chắc chắn về khả năng tài chính, uy tín và khả năng thực hiện trách nhiệm
thanh toán với nhau, do đó khó lường trước những rủi ro có thể xảy ra. Với sự
giúp đỡ của ngân hàng, người mua và người bán sẽ yên tâm và tin tưởng hơn vì
sẽ loại trừ được rủi ro.
- Quản lý rủi ro về ngoại hối: trong thương mại quốc tế người mua và
người bán ở hai nước khác nhau, nhưng chỉ giao dịch với cùng một loại tiền, họ
phải đương đầu với những rủi ro dao động về tỷ giá tiền tệ, những rủi ro này sẽ
dễ dàng loại trừ khi có sự giúp đỡ của ngân hàng thông qua các nghiệp vụ
phòng ngừa rủi ro do ngân hàng thực hiện.
- Cung cấp khả năng lựa chọn các phương thức thanh toán: hiện nay các
NHTM có thể cung cấp cho khách hàng nhiều phương thức thanh toán quốc tế
khác nhau như: thanh toán trước, thanh toán sau, tài khoản mở, nhờ thu và L/C.
Trong tất cả các phương thức này, quan trọng nhất là L/C.
1.2.2. Khái niệm và vai trò của hoạt động cho vay XNK
1.2.2.1. Khái niệm và sự ra đời của hoạt động cho vay XNK
Trong quan hệ mua bán trong nước, chúng ta thường thấy có hình thức tín
dụng thương mại. Điều này là rất khó khăn trong lĩnh vực ngoại thương, bởi vì
các quốc gia đều có hệ thống tiền tệ, luật pháp riêng, ngoài ra các quốc gia còn

có sự khác nhau về môi trường văn hóa, phong tục tập quán… Vì vậy, để thực
hiện các hợp đồng ngoại thương trong quan hệ XNK, các doanh nghiệp thường
tìm kiếm các khoản tài trợ từ các NHTM. Các NHTM có nguồn vốn lớn, am
hiểu và có mối quan hệ rộng trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ và thanh toán
quốc tế có thể đáp ứng nhu cầu vốn của các doanh nghiệp XNK. Vì vậy hoạt
động cho vay XNK của NHTM đã ra đời gắn với sự ra đời của hoạt động
thương mại quốc tế.
Cho vay XNK là hình thức cho vay trong lĩnh vực sản xuất và lưu thông
hàng hóa. Hoạt động cho vay XNK có thể được định nghĩa như sau:
Hoạt động cho vay XNK của NHTM là việc NHTM cho các doanh nghiệp
XNK vay nhằm giúp các doanh nghiệp hoàn thành nghĩa vụ của mình khi tham
gia vào hoạt động XNK.
1.2.2.2. Vai trò của hoạt động cho vay XNK
Thương mại quốc tế ngày càng phát triển mạnh mẽ khiến cho nhu cầu vay
vốn tài trợ cho hoạt động XNK của các doanh nghiệp ngày càng tăng. Điều này
cho thấy vai trò ngày càng quan trọng của hoạt động cho vay XNK. Cụ thể, vai
trò của hoạt động cho vay XNK được thể hiện như sau:
a) Đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu:
Các khoản vay của NHTM sẽ giúp doanh nghiệp có thể thực hiện những
thương vụ lớn mà doanh nghiệp không thể có đủ tiềm lực tài chính để tự thực
hiện, không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh.
Cho vay XNK còn góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả kinh
doanh của các doanh nghiệp XNK. Thông qua các khoản cho vay của NHTM,
các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ có vốn để thu mua hàng hóa, nguyên vật liệu
đúng thời vụ và giao hàng đúng thời điểm, các doanh nghiệp nhập khẩu có thể
mua được những lô hàng lớn, giá rẻ.
Ngoài ra, thông qua các khoản cho vay XNK, doanh nghiệp có thể nhập
khẩu các máy móc, công nghệ hiện đại từ nước ngoài để đổi mới sản phẩm,
nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, nâng tính cạnh tranh của các doanh
nghiệp trên thị trường.

Mặt khác, hoạt động cho vay XNK còn giúp các doanh nghiệp XNK hạn
chế rủi ro trong quá trình hoạt động. Trong quá trình ký kết và thực hiện hợp
đồng, các doanh nghiệp có thể nhận được sự tư vấn của ngân hàng về lĩnh vực
thanh toán quốc tế và ngoại thương.
b) Đối với ngân hàng thương mại
Vì NHTM hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ nên độ rủi ro rất
lớn. Do đó, mục tiêu hoạt động của các NHTM luôn là an toàn và sinh lời.
Trong quá trình kinh doanh, NHTM luôn tìm kiếm, đưa ra các sản phẩm có độ
an toàn cao và có khả năng sinh lời cao nhất. Cho vay XNK là hình thức cho
vay mang lại hiệu quả cao, an toàn, đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích và
đem lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng.

×