Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

DOANH NGHIỆP LỚN VÀ VẤN ĐỀ NĂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.2 KB, 14 trang )

DOANH NGHIỆP LỚN VÀ VẤN ĐỀ NĂNG CAO CHẤT
LƯỢNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.1Doanh nghiệp lớn và vai trò của doanh nghiệp lớn trong nền kinh tế thị
trường
1.1.1Khái niệm về doanh nghiệp lớn
Theo cục thống kê năm 2006 số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ của chúng ta
chiếm tới 96,81% Tổng số doanh nghiệp cả nước con số này năm 2008 là 95% đó là
con số rất lớn các chính sách của nhà nước cũng như các đề tài nghiên cứu trước đây
thường được tập trung nghiên cứu về doanh nghiệp nhỏ mà dường như bỏ qua một lĩnh
vực hết sức quan trọng nắm vai trò chủ chốt có sức mạnh điền khiển nền kinh tế là các
doanh nghiệp lớn.
Chưa có một định nghĩa chính thức nào ở VN xác định doanh nghiệp lớn là gì
tuy nhiên theo nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23/1/2001 thì :Doanh nghiệp vừa và nhỏ
là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập,đã đăng kí kinh doanh theo luật hiện hành và có
vốn đăng kí không quá 10 tỷ đồng hoặc số công nhân lao động trung bình hàng năm
không quá 300 người.
Như vậy có thể hiểu doanh nghiệp lớn là :’’Doanh nghiệp có vốn đăng kí hơn 10
tỷ đồng hoặc số công nhân lao động trung bình hàng năm lơn hơn 300 người”
Tuy nhiên do tình hình lạm phát gần đây ở VN tăng cao nên đôi khi các NH
không coi mức 10 tỷ đồng là chuẩn xác nữa mà thường lấy mức vốn đăng kí lớn hơn 1
triệu USD.
Nói chung khái niệm về doanh nghiệp lớn ở VN còn chưa sáng tỏ,chúng ta vẫn
thường hiểu chung doanh nghiệp lớn là các doanh nghiệp có số vốn đang kí lớn hoặc có
số lao động trung bình hàng năm cao.Việc phân chi làm doanh nghiệp lớn cũng phải tùy
thuộc vào ngành nghề doanh nghiệp lựa chọn sản xuất kinh doanh,việc phân chia làm
doanh nghiệp lớn,nhỏ chỉ mang tính chất tương đối.
Các ngành nghề kinh doanh khác nhau song doanh nghiệp lớn không chỉ có điểm
chung về số lựợng vốn lớn hay số lượng lao động mà các doanh nghiệp lớn thường có
lịch sử hình thành lâu dài ,các sản phảm đã tao được thế mạnh uy tín trên thị
trường.Đặc biệt ở VN các doanh nghiệp lớn thường là các doanh nghiệp nhà nước nên
vai trò của doanh nghiệp lớn của VN không chỉ có ý nghĩa về kinh tế nó còn mang rất


nhiều ý nghĩa chính trị.
1.1.2.Vai trò của DNL trong nền kinh tế thị trường.
Các doanh nghiệp quy mô lớn đã có vai trò chiến lược trong quá trình công
nghiệp hóa và hiện đại hóa của các nền kinh tế thành công ở khu vực Đông Á.
Tại Việt Nam, phân tích về các doanh nghiệp lớn thường nhấn mạnh vào những yếu
kém và phi hiệu quả của các tập đoàn kinh tế nhà nước, trong khi các vấn đề chính sách
về quản lý, giám sát và khuyến khích phát triển các doanh nghiệp lớn, đặc biệt là các
tập đoàn kinh tế tư nhân quy mô lớn, ít được đề cập và nghiên cứu.
Cho dù tầm quan trọng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa rất cần được ghi nhận
và tôn vinh, không nên phủ nhận vai trò khó thay thế của các doanh nghiệp lớn trong
quá trình phát triển kinh tế Việt Nam.
Chỉ riêng 50 doanh nghiệp hàng đầu trong Bảng xếp hạng VNR 500[1] - Top
500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam (www.vnr500.com.vn) đã đóng góp tới 36,2%
tổng thu ngân sách của cả nước. Với tài sản nắm giữ vượt quá giá trị GDP của Việt
Nam, các doanh nghiệp VNR500 đang là bộ phận chủ lực của kinh tế Việt Nam. Rõ
ràng, nền kinh tế Việt Nam không thể tiến lên phía trước nếu không dựa trên sự tiến bộ
của các doanh nghiệp lớn.
Chúng ta nhận thấy :
-Doanh nghiệp lớn đóng góp phần quyết định vào việc định hướng thị trường:
Ngành nghề tập trung chủ yếu là các doanh nghiệp khai thác kinh doanh tài nguyên
khoáng sản như: dầu khí, than và các ngành kinh tế nhà nước nắm thế độc quyền như:
hàng không, ngân hàng, tài chính, viễn thông, điện lực…đó là các ngành nghề mang
tính chất quyết định vào sự bình ồn của thị trường.
-Các doanh nghiệp lớn đóng vai trò chính trị giúp nhà nước điều tiết nền kinh
tế :Do các doanh nghiệp lớn cả VN hiện nay chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nứơc ,có
tới 270 doanh nghiệp trong danh sách 500 doanh nghiệp lớn nhất VN là doanh nghiệp
lớn nhất VN vì vậy nhà nước có thể tác động dễ dàng tới các doanh nghiệp lớn để điều
khiển nền kinh tế theo ý muốn.
-Sự ổn định của các doanh nghiệp lớn liên quan tới sự ổn định của thị trường:Sự
phá sản của một tập đoàn kinh tế lớn có thể dẫn tới sự bất ổn định của toàn nền kinh

tế.Khi một doanh nghiệp có số vốn đăng kí lớn nắm giữ trong tay hàng triệu việc làm
rơi vào phá sản nó có thể dẫn tới hàng triệu người lâm vào tình trạng phá sản theo,khiến
nền kinh tế rơi vào bất ổn thậm chí phá sản .Sự phá sản của hệ thống ngân hàng là
nguyên nhân làm nền kinh tế Acgentina rơi vào phá sản,khủng hoảng tài chính thế giới
năm 2008 bắt nguồn từ việc phả sản của các tập đoàn tài chính lớn ở phố Wall.
-Doanh nghiệp lớn đóng góp giải quyết phần lớn lao động trong nền kinh tế thị
trường;chúng ta đã biết một trong những chỉ tiêu phản ánh đọ lớn của một doanh
nghiệp là số lượng lao động trong doanh nghiệp đó.Doanh nghiệp lớn có số lựơng ít
nhưng số lựong việc làm có thể đáp ứng của một doanh nghiệp là lớn,thậm chí với
những tập đoàn lớn trên thế giới số lượng việc làm mà một tập doàn có thể đáp ứng lên
tới hàng triệu người.Chính vì thế khi nền kinh tế bị suy thoái số lượng người thất
nghiệp cao một trong những mục tiêu quan trọng nhất để cứu nền kinh tế,tạo công ăn
việc làm là cứu các tập đoàn tài chính,các tập đoàn sản xuất lớn.Ví dụ như ở Mỹ trong
khủng hoảng kinh tế năm 2008 chính phủ đã chi hơn 700 tỷUSD để cứu các tập đoàn
tài chính và hơn 15 tỷ USD để cứu ngành công nghiệp ô tô.
Ở VN các doanh nghiệp lớn mặc dủ chỉ chiếm 5% song đã giải quyết gần 50%
lựơng việc làm trong các doanh nghiệp,các lao động có trình độ cao thương tập trung ở
các ngành như: Tài chính,hàng không, viễn thông ,công nghệ thông tin…doanh nghiệp
lớn cũng là nơi thu hút và đào tạo phần lớn các lao động có trình độ cao
Trong khi các ngành như dệt may,than lại giải quyết rất nhiều lựợng lai động có
trình độ thấp hơn.
-Doanh nghiệp lớn đóng góp vai trò khẳng định vị thế của nền sản suất nước
nhà:
Các doanh nghiệp nhỏ thường có tiềm lực vốn,trình độ sản xuất yếu kém,không
tạo được nhiều uy tín chỉ có các doanh nghiêp lớn mới có đủ tầm khả năng để tao được
tiềm lực và uy tín vươn ra thị trường quốc tế,khẳng định vị thế của nền sản xuất nước
nhà.Tuy nhiên ở VN các doanh nghiệp được coi là lớn vẫn chỉ tập trung vào mục tiêu
“Hàng VN chất lượng cao “ mà chưa tập trung khẳng định giá trị hàng hóa của mình
trên thị trường quốc tế vì vậy vai trò khẳng định chất lượng của nền sản xuất VN
không được đảm bảo,hàng hóa VN còn gặp khó khăn trong việc cạnh tranh trên thị

trường trong nứơc và hầu như chưa vươn được ra tới thị trường quốc tế.
-Doanh nghiệp lớn đóng vai trò đáng kề vào sự tăng trưởng GDP của đất
nước:ngay tại VN nền kinh tế được đánh giá là chủ yếu chỉ gồm các doanh nghiệp vừa
và nhỏ ,quy mô các doanh nghiệp vẫn còn bé.Chỉ riêng 50 doanh nghiệp hàng đầu trong
Bảng xếp hạng VNR 500[1] - Top 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam
(www.vnr500.com.vn) đã đóng góp tới 36,2% tổng thu ngân sách của cả nước. Với tài
sản nắm giữ vượt quá giá trị GDP của Việt Nam.Các doanh nghiệp lớn chủ yếu là các
doanh nghiệp nhà nước và khu vực kinh tế này đóng góp khoảng 39% GDP đất
nước(niên giám thống kê 2008).
1.2 Tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế
1.2.1.Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng (credit), xuất phát từ tiếng Latinh là credo – là sự tin tưởng, sự tín
nhiệm và được định nghĩa dưới nhiều giác độ khác nhau:
- Tín dụng là quan hệ vay mượn trên nguyên tắc hoàn trả.
- Tín dụng là quá trình tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ hay hiện vật trên
nguyên tắc có hoàn trả.
- Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang
người sử dụng để sau một thời gian sẽ thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị
ban đầu.
- Tín dụng là sự chuyển dịch vốn dưới hình thái tiền tệ hay hiện vật của một tổ
chức, cá nhân này cho một tổ chức, cá nhân khác sử dụng trong một thời gian nhất định
trên nguyên tắc hoàn trả.
Như vậy, tín dụng có thể được diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau nhưng bản
chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản giữa một bên là người đi vay và một bên là
người cho vay trên cơ sở hoàn trả cả gốc và lãi.
Đối với một ngân hàng thương mại, tín dụng là chức năng cơ bản của ngân hàng,
là một trong những nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng. Tín dụng ngân hàng được định
nghĩa như sau:
Tín dụng ngân hàng là một hình thức tín dụng phản ánh một giao dịch về tài
sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay là ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng và

bên đi vay là các cá nhân, doanh nghiệp, chủ thể sản xuất kinh doanh, trong đó bên cho
vay chuyển tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thoả
thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay
khi đến hạn thanh toán.
1.2.2. Các hình thức tín dụng của ngân hàng:
Có nhiều cách phân loại tín dụng khác nhau tù theo yêu cầu của khách hàng tùy
theo mục tiêu quản lý của ngân hàng,sau đay ta có một số cách phân loại chủ yếu sau:
1.2.2.1.Phân loại theo thời gian;
- Tín dụng ngắn hạn: là khoản tín dụng dưới 1 năm và được sử dụng để bổ sung
sự thiếu hụt tạm thời vốn lưu động của doanh nghiệp, và nó còn có thể được vay cho
những tiêu dùng cá nhân.
- Tín dụng trung hạn: là khoản tín dụng có thời hạn từ 1-5 năm. Loại hình tín
dụng này thường được dùng để cung cấp, mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới
kỹ thuật, mở rộng và xây dựng công trình nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn: là khoản tín dụng có thời gian trên 5 năm. Loại tín dụng này
được dùng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản như đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các
công trình thuộc cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất,…
1.2.2.2.Phân lọai theo hình thức
-Chiết khấu:chiết khấu (thương phiếu )là hình thức ngân hàng ứng trước tiền cho
khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng
để sở hữu một thuơng phiếu chưa đến hạn(hoặc một giấy nợ)
-Bảo lãnh:việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách
hàng của mình
-Cho thuê:Việc NH bỏ tiền ra để mua tài sản để cho khách cho thuê theo những
giá thỏa thuận nhất định.
1.2.2.3.Phân loại theo tài sản đảm bảo
-Tín dụng có đảm bảo:tín dụng dựa trên yêu cầu ngân hàng và khách hàng phải
cam kết kí hợp đồng đảm bảo.
Trong đó tài sản đảm bảo các khoản tín dụng cho phép ngân hàng có nguồn tín
dụng thứ hai bằng cách bán tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất (từ quá trình sản suất

kinh doanh ) không có hoặc không đủ.
Cam kết đảm bảo là cam kết của người nhận tín dụng về việc dụng tài sản của
mình đang sở hữu hoặc sử dụng ,hoặc khả năng trả nợ của người thứ ba để trả nợ cho
ngân hàng
-Tín dụng không có tài sản đảm bảo:Được cấp cho các khách hàng có uy tín
,thường là các khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi ,có tình hình tài chính vững
mạnh ,ít xảy ra tình trạng nợ nần hoặc các món vay tương đối nhỏ so với vốn của người

×