Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

Sự cần thiết phát triển hoạt động bao thanh toán tại Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (450.77 KB, 41 trang )

Sự cần thiết phát triển hoạt động bao thanh toán tại Ngân hàng
thương mại cổ phần Nam Việt
2.1 Tổng quan về Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Việt
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Việt
Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Việt, tên giao dịch quốc tế là
Nam Việt Commercial Joint Stock Bank, tên gọi tắt là Navibank có hội sở chính
nằm ở 39-41-43 bến Chương Dương, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.
Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Việt trước đây được gọi là
Ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn sông Kiên được thành lập năm
1995với số vốn điều lệ ban đầu là 3 tỷ đồng. Khi mới thành lập hoạt động
chủ yếu của ngân hàng là huy động tiền gửi từ dân cư và cho vay trong lĩnh vực
nông nghiệp, phạm vi hoạt động chỉ giới hạn trong tỉnh Kiên Giang. Sau 9 năm
hoạt động, tới năm 2004 Ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn sông Kiên
thực sự gặp khó khăn khi vốn điều lệ giảm đi một nửa còn 1.5 tỷ đồng, nợ quá hạn
ngày càng lớn, ngân hàng có nguy cơ phá sản và phải ở trong tầm kiểm soát đặc
biệt. Sau đó các doanh nghiệp lớn như Tập đoàn Dệt may Việt Nam, Công ty cổ
phần liên hiệp vận chuyển Gemadept, Công ty cổ phần khu công nghiệp Tân
Tạo, Công ty cổ phần phát triển đô thị Kinh Bắc… tham gia đầu tư và chuyển
đổi mô hình hoạt động từ ngân hàng nông thôn thành ngân hàng đô thị, từ đó
phạm vi hoạt động của ngân hàng mới mở rộng ra các tỉnh phía Nam. Đến năm
2005 ngân hàng mới hồi phục và bắt đầu có lãi. .
Năm 2006 đánh dấu bước ngoặt trong quá trình phát triển của ngân hàng
khi chuyển trụ sở từ Kiên Giang lên thành phố Hồ Chí Minh, trụ sở mới được
đặt tại số 39-41-43 bến Chương Dương và đổi tên giao dịch thành Ngân hàng
thương mại cổ phần Nam Việt. Ngày 28-9, NHTMCP Nam Việt đã chính thức
khai trương hoạt động tại Thành phố Hồ Chí Minh trong vai trò là một
Ngân hàng đô thị với số vốn điều lệ là 1000 tỷ đồng. Chiến lược của Navibank
là sẽ trở thành một trong những ngân hàng thương mại hàng đầu Việt Nam,
hoạt động đa năng với dịch vụ đa dạng, chất lượng dịch vụ cao, mạng lưới
kênh phân phối rộng dựa trên nền tảng mô hình tổ chức và quản lý chuẩn mực
quốc tế, công nghệ thông tin hiện đại, công nghệ ngân hàng tiên tiến. Đối tượng


Navibank hướng đến là khách hàng cá nhân, các DNV&N, đặc biệt là các doanh
nghiệp trong các khu công nghiệp, khu chế xuất trong cả nước.
Tuy mới chính thức đi vào hoạt động trong ba năm gần đây song Ngân hàng
thương mại cổ phần Nam Việt đã dần khẳng định được vị trí trên thị trường
tài chính thể hiện qua sự tăng trưởng nhanh chóng và ổn định cả về quy mô
hoạt động lẫn hiệu quả sản xuất kinh doanh.
2.1.2 Hoạt động chính của Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Việt
2.1.2.1 Hoạt động huy động vốn
Hoạt động huy động vốn là hoạt động thường xuyên, chiếm vị trí quan trọng
tại Navibank. Hoạt động huy động vốn tại Navibank bao gồm hoạt động huy động
vốn chủ và huy động nợ tuy nhiên số dư huy động nợ chiếm tỷ trọng lớn hơn nhiều
so với vốn chủ sở hữu.
Vốn chủ sở hữu của Navibank qua các năm không ngừng tăng lên chủ yếu là
huy động từ các cổ đông nội bộ. Nhờ sự góp vốn của các cổ đông mà vốn điều lệ
của ngân hàng không ngừng tăng_ vốn điều lệ của ngân hàng đã tăng từ 70 tỷ tại
ngày 26/05/2006 lên tới 1,000 tỷ vào ngày 26/07/2007. Cùng với sự gia tăng
của vốn điều lệ, sự gia tăng của các quỹ và lợi nhuận để lại qua các năm
khiến cho vốn chủ sở hữu của ngân hàng liên tục tăng qua các năm
Navibank huy động nợ từ các tổ chức kinh tế, cá nhân và trên thị trường
liên ngân hàng trong đó thì nguồn huy động từ tổ chức kinh tế và cá nhân luôn
chiếm tỷ trọng cao nhất, khoảng 70% tổng nợ huy động. Nếu xét theo thời hạn
huy động nợ thì nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nợ huy động,
năm 2008 chiếm tới 74.69% tổng nợ huy động.
Navibank cung cấp cho khách hàng các dịch vụ tiền gửi đa dạng, tiện ích,
đáp ứng mọi nhu cầu gửi tiền của khách hàng bao gồm:
Tiền gửi thanh toán
Tiền gửi bậc thang
Tiền gửi tiết kiệm
Tiền gửi tích lũy giá trị
Số nợ huy động từ các tổ chức tín dụng chiếm từ 30-35% tổng nợ huy động

của ngân hàng bao gồm cả các khoản tiền gửi của các tổ chức tín dụng và tiền đi
vay của các tổ chức này tuy nhiên chủ yếu là các khoản tiền gửi. Các khoản
tiền gửi của các tổ chức tín dụng tại ngân hàng thường để bão lãnh cho
khách hàng vay vốn tại Navibank.
Từ khi chính thức trở thành ngân hàng đô thị Navibank đã phát triển
không ngừng, trong 3 năm qua thì hoạt động huy động nợ ngân hàng luôn
tăng trưởng ở mức cao, chi tiết về mức tăng trưởng nợ qua các năm và cơ cấu
huy động nợ được thể hiện chi tiết ở bảng dưới đây:
Bảng 2.1 Cơ cấu huy động nợ
Đơn vị tính: triệu đồng
ST
T
Tiêu chí
Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008
Số dư
Tỷ
trọng Số dư
Tỷ
trọng Số dư
Tỷ
trọng
Theo đối tượng
505,01
8 100.00%
9,025,70
8 100.00% 9,574,311 100.00%
1 Cá nhân
146,65
7 29.04% 3,165,818 35.08%
4,976,89

4 51.98%
2 Doanh nghiệp
202,10
8 40.02% 2,957,750 32.77% 1,195,207 12.48%
3 Tổ chức tín dụng
156,25
3 30.94% 2,902,140 32.15% 3,402,210 35.53%
Theo thời hạn
505,01
8 100.00%
9,025,70
8 100.00% 9,574,311 100.00%
1 Không kỳ hạn 96,256 19.06% 2,345,700 25.99% 352,444 3.68%
2 Ngắn hạn
304,52
6 60.30%
5,041,05
1 55.85% 7,150,912 74.69%
3 Trung dài hạn
104,23
6 20.64% 1,638,957 18.16% 2,070,956 21.63%
Theo đơn vị
505,01
8 100.00%
9,025,70
8 100.00% 9,574,311 100.00%
1 Hội sở chính
359,77
5 71.24% 6,241,286 69.15%
7,004,17

3 73.16%
2 Chi nhánh Kiên Giang 24,847 4.92% 116,438 1.29% 216,681 2.26%
3 Chi nhánh Hà Nội
120,39
6 23.84% 2,150,845 23.83% 1,278,712 13.36%
4 Chi nhánh Hải Phòng 0 0.00% 210,066 2.33% 455,298 4.76%
5 Chi nhánh Đà Nẵng 0 0.00% 260,079 2.88% 466,601 4.87%
6 Chi nhánh Cần Thơ 0 0.00% 46,994 0.52% 152,846 1.60%
Nguồn: báo cáo thường niên 2006, 2007 và 2008của Navibank
2.1.2.2 Hoạt động sử dụng vốn
a. Hoạt động cho vay
Hoạt động cho vay là hoạt động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các
hoạt động sử dụng vốn của Navibank . Đối tượng cho vay của Navibank là các
khách hàng cá nhân, khách hàng doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng có
nhu cầu vay vốn. Trong hoạt động cho vay thì đối tượng khách hàng
doanh nghiệp chiếm dư nợ cho vay lớn nhất. Nếu xét theo thời hạn cho vay, các
khoản vay trung và dài hạn chiếm tỷ trọng cao trong những năm qua. Đối với
khách hàng cá nhân Navibank cung cấp các khoản vay sau:
- Cho vay mua xe ô tô;
- Cho vay mua bất động sản;
- Cho vay mua nhà, đất dự án;
- Cho vay xây dựng, sửa chữa nhà;
- Cho vay bổ sung vốn lưu động sản xuất kinh doanh hộ gia đình;
- Cho vay trung hạn hỗ trợ vốn sản xuất kinh doanh hộ gia đình;
- Cho vay đầu tư nhà xưởng, máy móc thiết bị;
- Cho vay tiêu dùng;
- Cho vay du học;
- Cho vay cầm cố sổ tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi;
- Cho vay tín chấp đối với cán bộ quản lý;
Đối với khách hàng doanh nghiệp Navibank cung cấp cho khách hàng các

khoản vay hỗ trợ hoạt động sản xuất kinh doanh sau:
- Cho vay bổ sung vốn lưu động;
- Cho vay tài trợ nhập hàng hóa, nguyên vật liệu, phục vụ hoạt động nhập
khẩu hàng hóa, nguyên vật liệu;
- Cho vay sản xuất, gia công hàng xuất khẩu;
- Cho vay đầu tư nhà xưởng, nhà kho, văn phòng;
- Cho vay trung hạn hỗ trợ vốn sản xuất kinh doanh;
- Cho vay đầu tư tài sản cố định;
- Cho vay thực hiện dự án nhà ở, đất ở cho các doanh nghiệp kinh doanh
bất động sản vay để thực hiện dự án nhà ở đất ở.
- Cho vay dành cho các doanh nghiệp kinh doanh xe ôtô để thanh toán tiền
mua xe.
- Cho vay đầu tư xe ôtô đối với các doanh nghiệp vận tải;
- Cho vay đầu tư tàu biển đối với các doanh nghiệp vận tải;
- Thấu chi tài khoản tiền gửi (tín chấp).
Đối với các tổ chức tín dụng có yêu cầu vay vốn tại ngân hàng, Navibank
sẽ cung cấp các khoản vay theo yêu cầu với lãi suất cạnh tranh.
Dư nợ cho vay không ngừng tăng qua các năm. Dư nợ cho vay tăng
đột biến trong năm 2007. Năm 2007, dư nợ cho vay đạt 4,363 tỷ đồng gấp
12.32 lần so với năm 2006 do trong năm 2007 ngân hàng mở rộng thị trường,
huy động nợ gấp 17.87 lần so với năm 2006, ngân hàng đã được nhiều cá nhân
và tổ chức kinh tế biết đến hơn. Năm 2008 dư nợ cho vay vẫn tiếp tục tăng
trưởng với tốc độ tăng 25.46% đạt 5,475 tỷ. Chi tiết về cơ cấu dư nợ cho vay
được thể hiện ở các bảng, biểu dưới đây:
Bảng 2.2 Cơ cấu dư nợ chovay
Đơn vị tính: triệu đồng
STT Tiêu chí
Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008
Số dư Tỷ trọng Số dư
Tỷ

trọng Số dư
Tỷ
trọng
Theo thành phần kinh tế
354,25
5 100.00%
4,363,44
6 100.00%
5,474,55
9
100.00
%
1 Cá nhân 159,698 45.08% 2,439,378 55.90% 2,302,127 42.05%
2 Tổ chức kinh tế
194,55
7 54.92% 1,924,068 44.10% 3,172,432 57.95%
Theo thời hạn
354,25
5 100.00%
4,363,44
6 100.00%
5,474,55
9
100.00
%
1 Ngắn hạn 227,007 64.08% 1,638,836 37.56% 1,961,766 35.83%
2 Trung dài hạn 127,248 35.92% 2,724,610 62.44% 3,512,793 64.17%
Theo đơn vị
354,25
5 100.00%

4,363,44
6 100.00%
5,474,55
9
100.00
%
1 Hội sở chính 267,215 75.43% 2,779,601 63.70% 3,359,655 61.37%
2 Chi nhánh Kiên Giang 16,331 4.61% 201,429 4.62% 268,933 4.91%
3 Chi nhánh Hà Nội 70,709 19.96% 673,141 15.43% 798,638 14.59%
4 Chi nhánh Hải Phòng 0 0.00% 265,465 6.08% 506,306 9.25%
5 Chi nhánh Đà Nẵng 0 0.00% 288,839 6.62% 334,482 6.11%
6 Chi nhánh Cần Thơ 0 0.00% 154,971 3.55% 206,545 3.77%
Nguồn: báo cáo thường niên 2006, 2007 và 2008 của Navibank
b. Hoạt động đầu tư, góp vốn, mua cổ phần
Nam Việt đã triển khai các hoạt động đầu tư, góp vốn vào các tổ chức
kinh tế hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Hoạt động đầu tư của ngân hàng
bao gồm đầu tư tiền gửi trên thị trường liên ngân hàng và đầu tư góp vốn,
liên doanh, mua cổ phần.
- Đầu tư tiền gửi trên thị trường liên ngân hàng :
Hiện nay Navibank có số dư tiền gửi có kỳ hạn tại nhiều tổ chức tín dụng
trên toàn quốc với số dư lên tới 4,031,971 triệu đồng, chiếm 36.98% tổng tài sản.
Số dư tiền gửi tại tổ chức tín dụng tăng nhanh qua các năm, năm 2006 số dư tiền
gửi có kỳ hạn của Navibank tại các tổ chức tín dụng là 408,536 triệu đồng đến
năm 2007 con số này đã tăng lên gấp 9.22 lần và năm 2008 tăng gấp 9.87 lần.
Số dư tiền gửi tại các tổ chức tín dụng khác nhằm mục đích bảo lãnh cho
khách hàng và nhằm đảm bảo khả năng thanh toán khi cần thiết.
- Đầu tư góp vốn, liên doanh, mua cổ phần :
Từ năm 2006 tới nay Navibank luôn sử dụng một phần vốn huy động đầu tư
vào các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Trong năm 2006 số dư góp vốn
kinh doanh của ngân hàng đạt 98,591 triệu đồng. Ngoài ra được sự chấp thuận

của ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng đã thành lập Công ty Trách nhiệm hữu hạn
Quản lý nợ và khai thác tài sản Nam Việt ngân hàng nhằm đa dạng hóa
hoạt động trên thị trường tài chính. Năm 2007, số dư góp vốn kinh doanh của
ngân hàng tăng trưởng 132.49% so với 2006 và đạt 229,211 triệu đồng.
Hiện nay Navibank đang góp vốn vào 13 doanh nghiệp với số dư đầu tư,
góp vốn, mua cổ phần tính tới cuối năm 2008 là 394,738 triệu đồng,
tăng 72.22% so với năm 2007 trong đó ngân hàng chuyển vốn cho Công ty
Quản lý nợ và Khai thác tài sản Nam Việt ngân hàng 47,000 triệu đồng.
c. Hoạt động bảo lãnh
Hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng thương mại cổ phần Nam Việt trải qua
ba năm đi vào thực hiện song chưa phải là hoạt động mang lại nhiều doanh thu
cho ngân hàng, doanh thu từ hoạt động bảo lãnh chiếm chưa tới 1% so với
tổng doanh thu. Ngân hàng bảo lãnh cho khách hàng trong những việc cụ thể là:
bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh tham gia dự thầu, bảo
lãnh đảm bảo thanh toán. Tổng giá trị bảo lãnh năm 2007 đạt gần 100 tỷ đồng,
tăng gần 25% so với tổng giá trị bảo lãnh năm 2006, doanh thu từ hoạt động
bảo lãnh đạt 250 triệu đồng. Năm 2008 tổng giá trị bảo lãnh đạt gần 100 tỷ
đồng, tăng gấp 25 lần so với tổng giá trị bảo lãnh năm 2007 trong đó tỷ trọng
nghiệp vụ bảo lãnh vay vốn vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất chiếm hơn70% tổng
giá trị bảo lãnh. Doanh thu từ hoạt động bảo lãnh năm 2008 đạt gần 1,600 triệu đồng,
gấp 6.4 lần năm 2007 song doanh thu từ hoạt động bảo lãnh mới chỉ chiếm
0.12% tổng doanh thu của ngân hàng.
2.1.2.3 Các hoạt động khác
a. Hoạt động thanh toán
Navibank cung cấp cho khách hàng mọi dịch vụ thanh toán nội địa và
quốc tế tiện ích, nhanh chóng, linh hoạt. Nhu cầu thanh toán không dùng tiền
mặt của khách hàng đang dần tăng lên, đón đầu nhu cầu đó của thị trường
Navibank cung cấp các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt cho khách
hàng bằng việc cung cấp các loại thẻ: thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng. Navibank cũng
đã xây dựng được hệ thống máy ATM ở tất cả các tỉnh thành có chi nhánh của

Navibank trên toàn quốc. Đầu năm 2008 Navibank đã gia nhập vào hai hệ thống
liên minh thẻ lớn nhất Việt Nam là ATM Smartlink và Banknet. Ngân hàng
cũng có quan hệ đại lý với hơn 30 tổ chức tín dụng nước ngoài. Ngân hàng tiến
hành nghiên cứu và phát triển hệ thống các ngân hàng đại lý của NH TMCP
Nam Việt trên phạm vi cả nước đã nâng cao tính chính xác, an toàn và
quan trọng hơn là đẩy nhanh tốc độ xử lý các lệnh thanh toán. Còn đối với
hoạt động thanh toán quốc tế, đặc biệt trong hai năm vừa qua Navibank
đẩy mạnh doanh thu từ dịch vụ nhờ thu và phát hành L/C, thanh toán L/C.
Doanh thu từ hoạt động thanh toán trong nước và quốc tế của Navibank
không ngừng tăng lên: doanh thu từ thanh toán trong nước năm 2007 cao gấp 4 lần
so với năm 2006, năm 2008 thì cao gấp 12.80 lần so với năm 2006 và gấp 3.20 lần
so với năm 2007 còn doanh thu từ hoạt động thanh toán quốc tế từ 92 triệu đồng
năm 2006 đã lên tới 2300 triệu đồng năm 2008, gấp 25 lần so với năm 2006.
b. Hoạt động kinh doanh ngoại hối
Hoạt động kinh doanh ngoại hối tại Navibank chỉ thực sự khởi sắc hơn sau
khi có quyết định chính thức của NHNN công nhận Navibank đủ điều kiện được
phép cung ứng dịch vụ ngoại hối song doanh thu từ hoạt động kinh doanh ngoại
hối vẫn còn rất khiêm tốn và hoạt động kinh doanh chủ yếu là mua bán USD.
Năm 2007 tổng giá trị giao dịch mua bán ngoại tệ đạt khoảng 80 triệu USD trong
đó giao dịch mua bán ngoại tệ USD chiếm tỷ trọng trên 95% tổng giá trị giao dịch.
Tổng giá trị giao dịch mua bán ngoại tệ năm 2008 đạt 298 triệu USD tăng 218
triệu USD (272%) so với năm 2007 trong đó giao dịch mua bán ngoại tệ USD
chiếm tỷ trọng khoảng 92% tổng giá trị giao dịch.
2.1.3 Kết quả đạt được của Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Việt
Trong cả 3 năm doanh thu và lợi nhuận tăng trưởng cao đặc biệt là năm
2007, năm 2008 tốc độ tăng trưởng chậm lại do bối cảnh nền kinh tế thế giới và
trong nước biến động phức tạp.
Biểu đồ 2.3 Tăng trưởng doanh thu từ năm 2006 tới năm 2008 tại
Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Việt
Đơn vị tính: triệu đồng

Nguồn: báo cáo thường niên 2006, 2007 và 2008 của Navibank
Biểu đồ 2.3 cho thấy doanh thu trong cả ba năm của Navibank đều tăng
song đều thấp hơn kế hoạch đạt ra, chỉ đạt từ 80-90% so với kế hoạch.
Năm 2007 do điều kiện kinh tế thuận lợi doanh thu tăng 762.60% so với năm
2006 đạt 564,272 triệu đồng nhưng tới năm 2008 do những biến động bất ổn
của nền kinh tế thế giới cũng như trong khu vực khiến cho tốc độ tăng doanh
thu chỉ còn 127.88% và chỉ đạt 89.46% kế hoạch đặt ra. Song kết quả trên
cũng cho thấy những cố gắng nỗ lực của tập thể cán bộ và nhân viên ngân hàng
trong việc khai thác thị trưởng, mở rộng thị phần và đưa hình ảnh của ngân hàng
tới đông đảo dân chúng. .
Cùng với sự gia tăng về doanh thu là sự gia tăng về chi phí, chi tiết được
thể hiện ở biểu đồ dưới đây. .
Biểu đồ 2.4 Chi phí phát sinh tại Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Việt
từ năm 2006 tới năm 2008
Đơn vị tính: triệu đồng
Nguồn: báo cáo thường niên 2006, 2007 và 2008 của Navibank
Chi phí ngân hàng liên tục tăng trong 3 năm, năm 2007 chi phí tăng
1154.59% so với năm 2006 và năm 2008 tăng 163.04% so với năm 2007, tốc độ
tăng này cao hơn so với tốc độ tăng doanh thu.Trong chi phí của ngân hàng,
chi phí trả lãi là chi phí chiếm tỷ trọng cao nhất, ngoại trừ năm 2006 do
ngân hàng chuẩn bị cải tổ nên những chi phí ngoài lãi lớn hơn. Năm 2007,
chi phí trả lãi là 345,390 triệu đồng chiếm 74.88% so với chi phí trả lãi và
năm 2008 thì chi phí trả lãi gấp 2.86 lần so với năm 2007 và chiếm tới 81.32%
chi phí của ngân hàng. Đó là do trong quý II và quý III năm 2008 xảy ra
cuộc cạnh tranh lãi suất giữa các ngân hàng khiến cho lãi suất tiền gửi tăng vọt
làm chi phí trả lãi bị đẩy lên cao. Sự gia tăng quá lớn về chi phí sẽ khiến cho lợi
nhuận của ngân hàng bị giảm xuống. .
Biểu đồ 2.5 Tổng hợp doanh thu- chi phí- lợi nhuận trước thuế của
Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Việt từ năm 2006 tới năm 2008
Đơn vị tính: triệu đồng

Nguồn: báo cáo thường niên 2006, 2007 và 2008 của Navibank
Theo biểu đồ, năm 2007 doanh thu, chi phí, lợi nhuận của ngân hàng đều
tăng cao, lợi nhuận trước thuế tăng gấp 3.60 lần so với năm 2006 song tới
năm 2008 tuy doanh thu tăng so với năm 2007 nhưng lợi nhuận trước thuế lại
tăng trưởng âm, chỉ đạt 72,593 triệu đồng, bằng 70.45% so với năm 2007.
Nguyên nhân ở đây là sự gia tăng quá lớn về chi phí, năm 2007, chi phí chiếm
81.74% so với doanh thu nhưng chi phí chiếm tới 94.35% trong năm 2008, đó
là hậu quả của việc gia tăng hàng loạt chi phí đặc biệt là chi phí trả lãi. Sự gia
tăng chi phí này bắt nguồn chủ yếu từ nguyên nhân khách quan từ cuộc đua
tranh lãi suất giữa các ngân hàng và sự biến động bất ổn của nền kinh tế thế
giới và trong nước trong năm 2008. Sự gia tăng về chi phí khiến cho lợi nhuận
giảm xuống nhiều sẽ khiến cho một loạt các chỉ số tài chính phản ánh khả năng
sinh lời sẽ giảm xuống. Đó là điều các nhà đầu tư và đặc biệt là các cổ đông của
ngân hàng không mong muốn. Năm 2009 được dự báo còn nhiều diễn biến
phức tạp đòi hỏi sự tỉnh táo, nhạy bén, linh hoạt trong quản lý hoạt động của
ban lãnh đạo ngân hàng. .
Một điểm đáng chú ý trong kết quả hoạt động của ngân hàng là
sự gia tăng tổng tài sản. Quy mô tổng tài sản cũng là một trong những yếu tố
đầu tiên các nhà đầu tư cũng như các nhà phân tích thường xuyên quan tâm và
quản lý tài sản hợp lý, hiệu quả là một trong những vấn đề khiến các nhà quản trị
đau đầu. Theo dõi tổng tài sản trong những năm qua của Ngân hàng thương mại
Nam Việt ta thấy rõ sự tăng trưởng ngày càng lớn mạnh của ngân hàng.
Biểu đồ 2.6 Sự gia tăng tổng tài sản của Ngân hàng thương mại cổ phần
Nam Việt từ năm 2006 tới năm 2008
Đơn vị tính: triệu đồng
Nguồn: báo cáo thường niên 2006, 2007 và 2008 của Navibank
Do huy động nợ và huy động vốn chủ đều tăng qua các năm nên
tổng tài sản của ngân hàng cũng liên tục gia tăng. Năm 2007 tổng tài sản tăng
779.02% so với năm 2006, năm 2008 tổng tài sản đạt 10,903,649 triệu đồng
tăng 10.11% so với năm 2007 và tăng 867.88% so với năm 2006.Trong sự

gia tăng của tổng tài sản đáng chú ý nhất là sự gia tăng của tài sản có sinh lời:
năm 2006 tài sản có sinh lời chiếm 81.50% tổng tài sản thì năm 2008 tài sản có
sinh lời tăng gấp 10.92 lần so với năm 2006 và hiện chiếm tới 91.92%
tổng tài sản. Sự gia tăng tài sản có sinh lời khiến ngân hàng có khả năng
tạo được doanh thu lớn hơn song cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn vì vậy cần phải
quản lý chặt chẽ bộ phận tài sản này. .
Để hiểu rõ hơn về hoạt động của ngân hàng điều rất cần thiết là theo dõi
các chỉ số tài chính, một số chỉ tiêu tài chính chính của Navibank được thể hiện
trong bảng tổng hợp sau :
Bảng 2.7 Bảng tổng hợp chỉ tiêu tài chính
STT Chỉ tiêu tài chính
Năm
2006
Năm
2007
Năm
2008
Trung bình
ngành
1
Hiệu suất sử dụng tổng tài
sản 5.81% 5.70% 11.79%
2
Tỷ lệ lợi nhuận sau
thuế/doanh thu
12.26
% 5.11% 1.58%
3 ROA 2.54% 1.04% 0.67% 1.84%
4 ROE 5.50% 17.79% 7.13% 30.21%
Nguồn: báo cáo thường niên 2006, 2007 và 2008 của Navibank và

website vndirect.com.vn
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản giảm nhẹ trong năm 2007 sau đó lại tăng
mạnh mẽ vào năm 2008. Hiệu suất sử dụng tổng tài sản năm 2008 là 11.79%
cao hơn nhiều so với năm 2007 là 5.7% và năm 2006 là 5.81, nguyên nhân là do
tốc độ tăng doanh thu lớn hơn so với tốc độ tăng tổng tài sản (tốc độ tăng
doanh thu năm 2008 so với năm 2007 và năm 2006 lần lượt là 127.88% và
1865.67% trong khi đó tốc độ tăng tổng tài sản tương ứng là 10.11% và
867.88%). Đó là tín hiệu cho thấy ngân hàng đang quản lý tài sản ngày càng
hiệu quả hơn, tiết kiệm hơn và mang lại doanh thu nhiều hơn.
Nhìn tổng thể vào nhóm các chỉ số sinh lời (ROE,ROA, tỷ lệ lợi nhuận
sau thuế/doanh thu) ta thấy rằng năm 2008 nhóm chỉ số này đều đi xuống mà
nguyên nhân chính là do vấn đề quản lý chi phí. Trong năm 2008, chi phí trả
cho các khoản tiền gửi là rất lớn khiến cho lợi nhuận sau thuế của ngân hàng
giảm so với năm 2007 mặc dù doanh thu năm 2008 gấp 2.28 lần. Đó là nguyên
nhân khách quan do ngân hàng buộc phải tham gia vào cuộc cạnh tranh lãi
suất để thu hút tiền gửi. Nếu so với chỉ số ROE và ROA trung bình ngành ngân
hàng thì các chỉ số của Navibank vẫn còn quá thấp, trong thời gian tới Ban quản
trị ngân hàng cần có những điều chỉnh hợp lý hơn, đưa ra các chính sách, chiến
lược mới nhằm thu hút thêm khách hàng, tăng doanh thu đồng thời quản lý chi
phí tiết kiệm hơn, sử dụng tổng tài sản hiệu quả hơn.
Tuy là ngân hàng mới thành lập song trong những năm qua Navibank đã
đạt được nhiều thành công đáng kể. Ngân hàng luôn tuân thủ chặt chẽ các quy
định của pháp luật cũng như sự chỉ đạo từ Ngân hàng Nhà nước, đảm bảo an
toàn trong hoạt động, phát triển bền vững. NHTMCP Nam Việt đã phát triển
nhanh trong mọi mặt: mở rộng thị trường, đa dạng hóa hoạt động, phát triển
công nghệ ngân hàng hiện đại và bước đầu xây dựng được thương hiệu của
Ngân hàng trên thị trường. Tốc độ tăng trưởng doanh thu cao, tổng tài sản tăng
mạnh mẽ và đạt gần 11,000 tỷ đồng, kinh doanh thu lợi nhuận.
Bên cạnh đó Navibank vẫn còn tồn tại những điểm hạn chế nhất định
khả năng sinh lời thấp, chi phí quản lý tốn kém. Công tác quản lý còn bị động

nên dễ chịu sự tác động bởi yếu tố bên ngoài.Việc nghiên cứu và phát triển các
dịch vụ mới còn nhiều hạn chế, chưa được đầu tư đúng mức. Công tác kế hoạch,
định hướng chiến lược và chính sách kinh doanh vẫn còn bất cập, chưa dự báo
sát thực tế.
2.2 Sự cần thiết phát triển hoạt động bao thanh toán tại Ngân hàng thương
mại cổ phần Nam Việt
Hiện nay tất cả các NHTM dù lớn hay nhỏ, hoạt động lâu năm hay
mới thành lập đều tham gia vào cuộc cạnh tranh giành thị trường. Muốn tồn tại
trong thị trường đó các ngân hàng phải không ngừng nâng cao chất lượng hoạt
động, kiểm soát rủi ro và đa dạng hóa dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Việc
nghiên cứu và phát triển thêm các hoạt động mới cũng là mối quan tâm của
nhiều NHTM để tạo ra lợi thế cạnh tranh. Bao thanh toán là hoạt động được giới
chuyên môn đánh giá cao vì những lợi ích mà nó mang lại cho cả khách hàng
lẫn ngân hàng. Nó cũng không còn xa lạ với nhiều quốc gia và đang dần khẳng
định vai trò quan trọng của mình trong hoạt động xuất- nhập khẩu. Nhận thức
được điều đó nhiều NHTM Việt Nam đã sớm phát triển bao thanh toán ngay sau
khi có Quy chế hoạt động bao thanh toán do Ngân hàng Nhà nước ban hành. Là
một thành viên chính thức của thị trường trong bốn năm vừa qua, NHTMCP
Nam Việt sớm gặt hái được nhiều thành công song việc mở rộng thị trường cho
các hoạt động truyền thống ngày càng khó khăn do sự cạnh tranh nên việc tìm
thị trường cho hoạt động mới là điều Navibank luôn hướng tới. Xét tổng thể quá
trình phát triển của ngân hàng cùng với định hướng phát triển theo hướng đa
dạng hóa, hiện đại hóa của ngân hàng, bao thanh toán là một hoạt động đầy tiềm
năng với Navibank.
Phát triển bao thanh toán Navibank có điều kiện đa dạng hóa hoạt
động, có điều kiện khai thác một thị trường rộng mở, đầy tiềm năng, tăng doanh
thu cho ngân hàng. Cụ thể khi phát triển bao thanh toán Navibank có thể phát
triển thêm các hoạt động, dịch vụ sau:
- Tài trợ cho bên bán bao gồm các khoản vay và thanh toán trước;
- Quản lý các tài khoản liên quan tới các khoản phải thu;

- Thu hộ các khoản phải thu;
- Bảo hiểm rủi ro cho khách hàng.
Không chỉ vậy phát triển bao thanh toán còn giúp Navibank mở rộng
mối quan hệ với khách hàng trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực góp phần
tạo dựng hình ảnh ngân hàng. Sở dĩ làm được điều đó là do mối quan hệ
phức tạp, đa chiều trong bao thanh toán. Chỉ một khách hàng sử dụng dịch vụ
bao thanh toán của ngân hàng là ngân hàng có điều kiện tiếp xúc với một hay
nhiều “khách hàng của khách hàng” khiến cho mối quan hệ khách hàng trở nên
rộng mở hơn. Nếu Navibank thực hiện tốt công việc của mình, tạo dựng được
uy tín trong lòng khách hàng, khách hàng không chỉ tiếp tục yêu cầu bao thanh
toán tại ngân hàng mà còn sẵn sàng sử dụng nhiều dịch vụ khác nữa của
ngân hàng. Như vậy, cùng một lúc Navibank có điều kiện phát triển khách hàng
tiềm năng cho nhiều hoạt động.
Là một chuyên gia trong lĩnh vực tài chính ngân hàng Navibank có
thể thực hiện tốt công việc quản lý và thu hồi các khoản phải thu cho khách
hàng, bảo hiểm rủi ro và có khả năng tài trợ cho khách hàng. Điều đó không chỉ
mang tới nguồn lợi cho khách hàng mà còn giúp ngân hàng sử dụng tốt hơn
nguồn vốn, tận dụng tốt hơn cơ sở vật chất, khoa học công nghệ, nguồn nhân
lực hiện có, tạo điều kiện tăng doanh thu và được hưởng lợi ích kinh tế theo
quy mô. Ngân hàng có thể thực hiện bao thanh toán cho nhiều khách hàng,
số lượng khách hàng càng lớn ngân hàng có điều kiện tận dụng lợi thế về quy
mô từ việc giảm được chi phí cố định của hoạt động bao thanh toán.
Trước những lợi ích hấp dẫn như vậy cùng với những áp lực
cạnh tranh hiện có, phát triển hoạt động bao thanh toán là một giải pháp hữu
hiệu cho NH TMCP Nam Việt trong giai đoạn sắp tới. Tuy nhiên để triển khai
một hoạt động mới là điều không đơn giản, muốn triển khai thành công
Navibank cần xem xét một cách tổng hợp các điều kiện, khi có sự chín muồi

×