Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Các vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.58 KB, 24 trang )

Các vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng trung và dài hạn của
ngân hàng thương mại
1.1 Khái quát về ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm,đặc điểm của ngân hàng thương mại
Khái niệm: Ngân hàng là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối
với nền kinh tế nói chung và đối với từng cộng đồng địa phương, chủ thể tham
gia nói riêng. Với vai trò quan trọng như vậy, nhưng quan niệm như thế nào về
một Ngân hàng, và sự phân biệt nó với các tổ chức phi Ngân hàng không phải là
điều đơn giản. Rõ ràng, có thể định nghĩa Ngân hàng thông qua chức năng mà
chúng thực hiện trong nền kinh tế. Tuy nhiên, vấn đề ở chỗ không chỉ chức năng
của các Ngân hàng thay đổi, mà có sự “thâm nhập” vào chức năng hoạt động
Ngân hàng của các đối thủ cạnh tranh. Do đó tuỳ theo đIều kiện của mỗi nước
và sự phát triển của hệ thống tài chính nước đó mà có những định nghĩa khác
nhau về Ngân hàng.
Theo luật Ngân hàng của Pháp thì Ngân hàng được định nghĩa:”Ngân
hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở nào đó thường xuyên nhận của
công chúng dưới hình thức ký thác, hay hình thức khác số tiền mà họ dùng cho
chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính.”
Còn luật pháp ấn độ lại có cái nhìn về Ngân hàng như sau, họ định
nghĩa:” Ngân hàng thương mại là cơ sở nhận các khoản ký thác để cho vay hay
tài trợ và đầu tư.”
Đó là các quan niệm về Ngân hàng đứng trên giác độ luật pháp. Còn
đứng trên giác độ tài chính Ngân hàng thì sao? Một định nghĩa khác về Ngân
hàng được Giáo sư Peter Rose đưa ra như sau: ”Ngân hàng là loại hình tổ chức
tàt chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là
tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức năng tài
chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.”
Ở Việt Nam, theo quy định tại luật các tổ chức tín dụng thì Ngân hàng
được định nghĩa như sau: “ Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ
mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với
trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết


khấu và làm phương tiện thanh toán.”
Như vậy thông quâ một số khái niệm về Ngân hàng thương mại, ta có
thể hiểu Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt kinh
doanh trên lĩnh tín dụng với mục đích thu lợi nhuận, và nó có những đặc trưng
như sau:
-Ngân hàng thương mại là một tổ chức được phép nhận ký thác của
công chúng với trách nhiệm hoàn trả.
-Ngân hàng thương mại là một tổ chức được phép sử dụng ký thác của
công chúng để cho vay, chiết khấu và thực hiện các dịch vụ tàI chính khác.
Căn cứ vào tính chất và mục tiêu hoạt động, ở nước ta các loại hình
Ngân hàng thương mại được hoạt phép hoạt động theo luật tổ chức tín dụng bao
gồm: Ngân hàng thương mại, Ngân hàng phát triển, Ngân hàng đầu tư, Ngân
hàng chính sách, Ngân hàng hợp tác và các loại hình Ngân hàng khác.
1.1.2. Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương
mại tập trung chủ yếu vào nhiệm vụ nhận tiền gửi và cho vay, đó là hai mặt hoạt
động tín dụng. Trong xu thế hiện nay, các Ngân hàng thương mại hoạt động
theo loại hình đa năng thì hoạt động của nó tập trung vào ba hoạt động chính:
hoạt động huy động vốn, hoạt động sử dụng vốn, hoạt động trung gian.
Hoạt động huy động vốn đối với Ngân hàng đây là hoạt động “đầu vào”
của Ngân hàng. Nguồn vốn hoạt động chủ yếu của một Ngân hàng được hình
thành từ những nguồn chính sau đây: vốn tự có của doanh nghiệp, vốn vay (vay
của các tổ chức tài chính, vay của dân cư, vay của Ngân hàng trung ương), lợi
nhuận để lại, ngoài ra đối với một số Ngân hàng nguồn vốn hoạt động có thể
hình thành từ vốn đIều lệ hay vốn uỷ thác...Trong quá trình hoạt động của mình,
Ngân hàng thương mại phần lớn dựa vào việc huy động các nguồn vốn tạm thời
nhàn rỗi trong nền kinh tế.
Hoạt động nguyên thuỷ của Ngân hàng là nhận tiền gửi của khách hàng
và đây vẫn là nguồn đầu vào chủ yếu của Ngân hàng. Có nhiều yếu tố ảnh
hưởng tới quy mô tiền gửi của khách hàng tại Ngân hàng như: lãi suất, phương

thức huy động của Ngân hàng, tình hình kinh tế xã hội từng thời kỳ, phong tục
tập quán của từng vùng, uy tín của từng Ngân hàng, các dịch vụ do Ngân hàng
cung cấp...vv. Nắm được yếu tố đó, Ngân hàng có thể đIều chỉnh lượng vốn huy
động sao cho phù hợp với nhu cầu vốn của mình.
Các loại tiền gửi mà Ngân hàng cung cấp để huy động vốn là: tiền gửi
thanh toán không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm.
Ngoài ra, để đáp ứng nhu cầu tín dụng và đa dạng hoá hoạt động kinh
doanh, Ngân hàng có thể vay vốn từ dân cư , các đơn vị kinh tế, các tổ chức tín
dụng khác thông qua một số hình thức như: phát hành trái phiếu, kỳ phiếu hoặc
vay tái chiết khấu từ Ngân hàng trung ương.
Để được hoạt động và thực hiện huy động vốn, Ngân hàng phải có một
lượng nhất định gọi là vốn tự có. Lượng vốn này chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong
tổng vốn sử dụng song nó có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động của Ngân
hàng. Vốn tự có là đIều kiện bắt buộc để Ngân hàng có được giấy phép tổ chức
và hoạt động trước khi nó có thể huy động được những khoản tiền gửi đầu tiên.
Vốn tự có còn đóng vai trò là một tấm đệm giúp chống lại rủi ro phá sản, những
thua lỗ về tàI chính trong hoạt động tạm thời. Nó tạo niềm tin cho công chúng
và là sự đảm bảo đối với chủ nợ về sức mạnh tài chính của Ngân hàng. Và nó
còn cung cấp năng lực tài chính cho sự tăng trưởng và sự phát triển dịch vụ mới,
cho những chương trình và trang thiết bị mới.
Đối với hoạt động sử dụng vốn, đây là hoạt động cho vay và đầu tư bao
gồm hoạt động ngân quỹ, hoạt động cho vay, hoạt động đầu tư chứng khoán.
Hoạt động ngân quỹ nhằm bảo đảm khả năng thanh toán thường xuyên
của Ngân hàng cho khách hàng. Đây là tài sản không sinh lời hoặc sinh lời thấp
nhưng tính lỏng cao được coi như tiền mặt. Do đó Ngân hàng phải duy trì lượng
tiền mặt ở một mức độ hợp lý sao cho vừa đảm bảo tính thanh khoản vừa đảm
bảo tính sinh lời.
Hoạt động cho vay là hoạt động quan trọng nhất quyết định sự thành bại
của Ngân hàng vì đây là hoạt động sinh lời chủ yếu của Ngân hàng. Cũng vì vậy
mà đây là hoạt động chứa nhiều rủi ro nhất. Để tránh đIều đó, việc quản lý tiền

cho vay được tiến hành rất chặt chẽ, đặc biệt là món vay lớn, với thời hạn dài.
Ngân hàng thương mại có thể cho vay theo nhiều hình thức khác nhau.
Ngoài ra Ngân hàng còn sử dụng vốn vào hoạt động đầu tư chứng
khoán trên thị trường để thu lợi nhuận và một phần đảm bảo khả năng thanh
toán của Ngân hàng.
Hoạt động trung gian là việc Ngân hàng cung cấp cho khách hàng một
loạt các dịch vụ có liên quan. Ngân hàng sẽ nhận được một khoản thu dưới
hình thức hoa hồng. Công nghệ Ngân hàng càng phát triển thì hoạt động này
càng phong phú và doanh thu càng lớn. Các hoạt động tiêu biểu là: chuyển tiền,
thanh toán hộ khách hàng thông qua các hình thức ghi chép trên tài khoản của
khách hàng tại Ngân hàng, phát hành séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thư tín
dụng, môi giới mua bán chứng khoán, quản lý hộ tài sản cho khách hàng, tư vấn
cho doanh nghiệp...vv.
Ngày nay, xu hướng của Ngân hàng là hoạt động đa năng trên nhiều
lĩnh vực với nhiều nghiệp vụ khác nhau. Các nghiệp vụ có quan hệ chặt chẽ, hỗ
trợ cho nhau nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận cao nhất.
Đồng thời ngân hàng còn là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho
công chúng và doanh nghiệp, thành công của ngân hàng sẽ phụ thuộc vào năng
lực xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu,thực hiện các dịch vụ
đó một cách có hiệu quả.
*Mua bán ngoại tệ:
Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi
(mua bán) ngoại tệ-một ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền này lấy loại
tiền khác và hưởng phí dịch vụ.Trong thị trường tài chính ngày nay,mua bán
ngoại tệ thường chỉ do các ngân hàng lớn nhất thực hiện bởi vì những giao dịch
như vậy có mức độ rủi ro cao, đồng thời yêu cầu phải có trình độ chuyên môn
cao.
*Nhận tiền gửi:
Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao,do đó các ngân hàng đã tìm
mọi cách để huy động đựoc tiền.Một trong những nguồn quan trọng là các

khoản tiền gửi(thanh toán và tiết kiệm của khách hàng).Ngân hàng mở dịch vụ
nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền với cam kết hoàn trả đúng hạn.Trong
cuộc cạnh tranh để ìm và giành được các khoản tiền gửi,các ngân hàng đã trả lãi
cho tiền gửi như là phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn sàng hy sinh nhu
cầu tiêu dung trước mắt và cho phép ngân hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh.
*Cho vay:
Cho vay thương mại: Ngay ở thời kỳ đầu,các ngân hàng đã chiết khấu
thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với những người bán(Người bán chuyển
các khoản phải thu cho ngân hàng để lấy tiền trước).Sau đó là bước chuyển tiếp
từ chiết khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng(là
người mua),giúp họ có vốn để mua hang dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh
doanh.
Cho vay tiêu dùng: Trong giai đoạn đầu hầu hết các ngân hang không tích
cực cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay
tiêu dùng rủi ro vỡ nợ tương đối cao.Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng
và sự cạnh tranh trong cho vay đã buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu
dùng như là một khách hàng tiềm năng.Sau chiến tranh thế giới2, tín dụng tiêu
dung đã trở thành một trong những loại hình tín dụng tăng trưởng nhanh nhất ở
các nước có nền kinh tế phát triển.
Tài trợ cho dự án: Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn
hạn,các ngân hàng ngày càng trở lên năng động trong việc tài trợ cho xây dựng
nhà máy mới đặc biệt là trong các ngành công nghệ cao.do rủi ro trong loại hình
tín dụng này nói chung là cao song lãi lớn.Một số ngân hàng còn cho vay để đầu
tư vào đất.
*Bảo quản vật có giá: Các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng và
các vật có giá trị khác cho khách hàng trong kho bảo quản.Khi nhận ngân hàng
sẽ giao cho khách tò biên nhận. Do khả năng chi trả bất cứ lúc nào cho giấy
chứng nhận, nên giấy chứng nhận đã được sử dụng như tiền-dùng để thanh toán
các khoản nợ trong phạm vi ảnh hưởng của ngân hàng phát hành.
*Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán: Khi các

doanh nhân gửi tiền vào ngân hàng, họ nhận thấy ngân hàng không chỉ bảo quản
mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng của họ. Thanh toán qua ngân
hàng đã mở đầu cho thanh toán không dung tiền mặt,tức là người gửi tiền không
cần phải đến ngân hàng lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả cho
khách( séc),khách hang mang đến ngân hàng sẽ nhận được tiền.Các tiện ích của
thanh toán không dung tiền mặt đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và
nâng cao thu nhập của các doanh nhân. Điều này đã khuyến khích các doanh
nhân gửi tiền vào ngân hàng để nhờ ngân hàng thanh toán hộ. Như vậy,một dịch
vụ mới,quan trọng nhất được phát triển đó là tài khoản tiền gửi giao dịch
(demand deposit)cho phép người gửi tiền viết sé thanh toán cho việc mua hàng
hoá và dịch vụ. Việc đưa ra loại tài khoản tiền gửi mới này được xem là một
trong những bước đi quan trọng nhất trong công nghiêph ngân hàng. Cùng với
sự phát triển của công nghệ thong tin,nhiều thể thức thanh toán được phát triển
như: Uỷ nhiệm chi, nhờ thu, L/C, thanh toán bằng điện, thẻ…
*Quản lý ngân quỹ: Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần
lớn các doanh nghiệp và nhiều cá nhân. Nhờ đó, ngân hàng thường có mối lien
hệ chặt chẽ với nhiều khách hang.Do có kinh nghiệm trong quản lí ngân quỹ và
có khả năng trong việc thu ngân,nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách dịch
vụ quản lí ngân quỹ, trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi cho một
công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các
chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hang cần tiền mặt
để thanh toán.
*Tài trợ các hoạt động của chính phủ: Khả năng huy động và cho vay
với khối lượng lớn của ngân hàng đã trở thành trọng tâm chú ý của các chính
phủ. Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường cấp bách trong khi thu không đủ, Chính
phủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản cho vay của ngân hàng. Trong
điều kiện các ngân hàng tư nhân không muốn tài trợ thì Chính phủ sẽ dùng một
số đặc quyển trao đổi lấy các khoản vay.
*Bảo lãnh: Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất
lớn và do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của khách hàng, nên ngân hàng có uy tín

trong bảo lãnh cho khách hàng.Trong những năm gần đây,nghiệp vụ bảo lãnh
ngày càng đa dạng và phát triển mạnh. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách
hàng của mình mua chịu hàng hoá và trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay
vốn của tổ chức tín dụng khác.
*Cho thuê thiết bị trung và dài hạn: Nhằm để bán được các thiết bị, đặc
biệt là các thiết bị có giá trị lớn,nhiều hãng sản xuất và thương mại đã cho thuê
các thiết bị.Cuối hợp đồng thuê,khách hàng có thể mua. Rất nhiều ngân hàng
tích cực cho khách hàng kinh doanh quyền lựa chọn thuê các thiết bị, máy móc
cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho
khách hàng thuê. Hợp đồng cho thuê thường phải đảm bảo yêu cầu khách hàng
phải trả tới hơn 2/3 giá trị của tài sản cho thuê. Do vây, cho thuê của ngân hàng
cũng có nhiều điểm giống như cho vay và được xếp vào tín dụng trung và dài
hạn.
*Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn: Do hoạt động trong lĩnh vực tài
chính các ngân hàng có rất nhiều chuyên gia về quản lí tài chính.Vì vậy nhiều
cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt dộng
tài chính hộ. Dịch vụ uỷ thác phát triển sang cả uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay
hộ, uỷ thác phát hành, uỷ thác đầu tư…
*Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán: Nhiều ngân hàng
đang phấn đấu cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thoả mãn
mọi nhu cầu. Đây là một trong những lý do chính khiến ngân hàng bắt đầu bán
các dịch vụ môi giới chứng khoán,cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ
phiếu trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh
doanh chứng khoán.Trong một vài trường hợp các ngân hàng tổ chức ra công ty
chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán.
*Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm: các ngân hàng bán bảo hiểm cho
khách hàng, điều đó bảo đảm việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết,
bị tàn phế hoặc gặp rủi ro trong hoạt động, mất khả năng thanh toán.
*Cung cấp các dịch vụ đại lý: Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt
động không thể thiết lập chi nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi. Nhiều ngân

hàng cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lí cho các ngân hàng khác như thanh toán
hộ, phát hành hộ các chứng chỉ,…
1.2 Chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại
1.2.1 Hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại
1.2.1.1. Khái niệm
Thuật ngữ tín dụng đang được sử dụng phổ biến hiện nay có xuất xứ từ
chữ La-tinh “creditum”, nghĩa là tin tưởng, tín nhiệm. Trong thực tế, thuật ngữ
tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Ngay cả trong quan hệ tài
chính, tuỳ theo từng bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín dụng có một nội dung
riêng. Trong quan hệ tài chính, tín dụng có thể hiểu theo các nghĩa sau:
Dưới góc độ chuyển dịch quỹ cho vay: Tín dụng được coi là phương
pháp chuyển dịch quỹ từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ thể thiếu hụt tiết
kiệm.
Theo chức năng hoạt động của ngân hàng: Tín dụng là một giao dịch về
tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (ngân hàng và các định chế tài
chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác). Trong
đó, bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng một thời gian nhất
định theo thoả thuận.
Vậy tín dụng ngân hàng là quan hệ kinh tế thể hiện sự chuyển nhượng
tạm thời một lượng giá trị dưới hình thái tiền tệ hoặc hiện vật từ người sở hữu
sang người sử dụng để sau một thời gian nhất định thu lại một lượng giá trị lớn
hơn giá trị ban đầu
Từ những cách quan niệm trên, có thể thấy bản chất của tín dụng là giao
dịch về tài sản trên cơ sở có thời hạn và hoàn trả.
Tài sản trong quan hệ tín dụng có một số đặc trưng như sau:
Thứ nhất, tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng bao gồm hai hình thức
là cho vay và cho thuê. Trong những năm trước đây, hoạt động tín dụng chỉ có
hình thức chủ yếu là cho vay. Xuất phát từ đó mà nhiều lúc thuật ngữ tín dụng
và cho vay được coi là đồng nghĩa với nhau. Từ những năm 1970 trở lại đây,
cho thuê tài chính đã được các ngân hàng hoặc các định chế tài chính cung cấp

cho khách hàng. Đây là một hình thức tín dụng bằng tài sản thực (nhà ở, văn
phòng, máy móc thiết bị...)
Thứ hai, xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, người cho vay khi chuyển giao
tài sản cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả
đúng hạn. Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng. Trong thực tế,
các nhân viên tín dụng khi xét duyệt cho vay không dựa trên cơ sở đánh giá
mức độ tín nhiệm mà lại chú trọng đến các bảo đảm về tài sản. Chính quan điểm
này đã làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Chính những nhà kinh tế học cổ
điển đã đưa khái niệm tín dụng với chữ “tín” lên hàng đầu không phải là vấn đề
ngẫu nhiên.
Thứ ba, giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay. Nói
cách khác, người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc.

×