Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

CÁC VẤN ĐỀ VỀ BẢO LÃNH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.11 KB, 33 trang )

CÁC VẤN ĐỀ VỀ BẢO LÃNH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về hoạt động chủ yếu của Ngân hàng Thương mại
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển của
nền sản xuất hàng hoá: Các ngân hàng thương mại xuất hiện trong nền kinh tế với tư
cách là các nhà tổ chức trung gian, nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế có dư thừa và
trên cơ sở đó cấp tín dụng cho các đơn vị kinh tế có nhu cầu tức là luân chuyển vốn
một cách gián tiếp. Hệ thống ngân hàng thương mại có phạm vi hoạt động rộng rãi vì
nó cung cấp các dịch vụ tài chính cho tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế và các tầng
lớp dân cư. Tuỳ theo cách tiếp cận mà có các quan điểm khác nhau về NHTM, điều
đó còn phụ thuộc vào tính chất và mục tiêu của nó trên thị trường tài chính của từng
nước.
 Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại.
Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp: Một doanh nghiệp đặc
biệt – hoạt động và kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và tín dụng.
 Theo quan điểm của các nhà kinh tế Hoa Kỳ.
Ngân hàng thương mại là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp dịch vụ tài
chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
 Theo quan điểm của các nhà kinh tế Pháp.
Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường
xuyên nhận được của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số
tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài
chính.
 Theo quan điểm của các nhà kinh tế Việt Nam.
Ngân hàng thương mại là một tổ chức mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là
nhận tiền gửi, trên nguyên tắc hoàn trả, tiến hành cho vay, chiết khấu và làm các
phương tiện thanh toán.
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về NHTM, nhưng tựu chung lại có thể
hiểu tổng quát: Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân
hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với hoạt động chính là huy động tiền gửi
dưới các hình thức khác nhau của khách hàng, trên cơ sở nguồn vốn huy động này và
vốn chủ sở hữu của ngân hàng để thực hiện các nghiệp vụ cho vay, đầu tư, chiết khấu


đồng thời thực hiện các nghiệp vụ thanh toán, môi giới, tư vấn và một số dịch vụ khác
cho các chủ thể trong nền kinh tế.
1.2.Hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng Thương mại
1.2.1 Sự hình thành và phát triển của hoạt động bảo lãnh
Với tư cách là một dạng nghiệp vụ của ngân hàng hiện đại, bảo lãnh xuất
hiện đầu tiên tại Mỹ vào giữa những năm 60 trong các giao dịch nội địa và bắt
đầu được sử dụng trong thương mại quốc tế vào đầu năm 70. Vào thời gian gia
này các quốc ở Trung Đông liên tục kí kết các hợp đồng kinh tế lớn với các
nước phương Tây để thực hiện các dự án cải tạo cơ sở hạ tầng, quốc phòng,
công nông nghiệp. Giá trị của hợp đồng và thế mạnh về tài chính của các nước
Trung Đông cho phép họ đòi hỏi một sự đảm bảo chắc chắn về phía bạn hàng
khi tham gia các giao dịch kinh tế. Để đáp ứng yêu cầu này ngân hàng các nước
phương Tây đã phát hành các bảo lãnh độc lập. Những bảo lãnh độc lập này
thực sự đã đáp ứng được yêu cầu về sự thuận lợi và an toàn cho các quốc gia
nhập khẩu. Doanh số của nghiệp vụ bảo lãnh tăng nhanh một cách đáng kể. Từ
đó đến nay bảo lãnh ngân hàng ngày càng được sử dụng rộng rãi đặc biệt là
những giao dịch có giá trị lớn trong nước cũng như quốc tế.
Tại Việt Nam vào những năm 90 khi bắt đầu hội nhập với kinh tế thế giới
và khu vực thì hoạt động bảo lãnh ngân hàng hình thành là một tất yếu khách
quan. Thời kì này do chưa được ứng dụng nhiều nên cũng chưa có một hệ thống
văn bản điều chỉnh chặt chẽ, các hoạt động bảo lãnh diễn ra tùy tiện và thiếu
hiệu quả. Ngày 17/9/1992, Thống đốc ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết
Định số 192/NH-QĐ về bảo lãnh và tái bảo lãnh vay vốn nước ngoài. Tiếp đó là
Quyết định số 196/QĐ-NH14 ngày 16/09/1994 về quy chế nghiệp vụ bảo lãnh
ngân hàng. Nền kinh tế càng phát triến thì hoạt động bảo lãnh càng đa dạng, phí
dịch vụ từ bảo lãnh đã đem lại cho các ngân hàng khoản thu nhập không nhỏ.
Ngày 25/08/2000, quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN14 của Thống đốc ngân
hàng nhà nước ra đời thay thế cho qui chế bảo lãnh trước đây. Gần đây nhất là
quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN sửa đổi quyết định số 283. Các qui định về
bảo lãnh đã được sửa đổi phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội, góp phần thúc

đẩy hoạt động bảo lãnh ngày càng phát triển.
1.2.2 Khái niệm về bảo lãnh Ngân hàng
1.2.2.1. Khái niệm bảo lãnh Ngân hàng
Trong thương mại quốc tế, bảo lãnh ngân hàng được xem như một kỹ
thuật tài trợ ngoại thương nhằm chống đỡ những rủi ro mà người thụ hưởng bảo
lãnh phải gánh chịu do sự vi phạm nghĩa vụ của bên được bảo lãnh.
Theo từ điển pháp luật của Mỹ thì bảo lãnh là một thỏa thuận mà theo đó
người bảo lãnh chấp thuận sẽ thực hiện nghĩa vụ của bên nợ chỉ khi bên nợ
không trả nợ, là việc bên bảo lãnh bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa
vụ trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện.
Theo bộ luật dân sự Việt Nam điều 336 thì bảo lãnh là việc người thứ ba
(gọi là người bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (gọi là người nhận bảo lãnh)
sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (gọi là người được bảo lãnh) nếu
khi đến thời hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ..
Theo luật các TCTD, bảo lãnh ngân hàng được hiểu là một trong các hình
thức cấp tín dụng được thực hiện thông qua sự cam kết bằng văn bản của TCTD
với bên có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi
khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết.
Như vậy,các loại văn bản được thiết lập có liên quan trong quan hệ bảo
lãnh đó là: hợp đồng kinh tế, hợp đồng bảo lãnh, thư bảo lãnh. Hợp đồng kinh tế
là hợp đồng được kí kết giữa người được bảo lãnh và người thụ hưởng, là cơ sở
để thiết lập các hợp đồng tiếp theo. Hợp đồng bảo lãnh là hợp đồng giữa người
được bảo lãnh và ngân hàng phát hành bảo lãnh. Thư bảo lãnh được thực hiện
nhằm ràng buộc giữa người thụ hưởng và ngân hàng phát hành bảo lãnh.
Hợp đồng bảo lãnh độc lập với hợp đồng kinh tế. Mục đích của bảo lãnh
là bồi thường cho người thụ hưởng những thiệt hại từ việc không thực hiện hợp
đồng của người được bảo lãnh nhưng việc thanh toán chỉ dựa vào những điều
khoản, điều kiện trong hợp đồng bảo lãnh. Cho dù người được bảo lãnh trên
thực tế có thực hiện hợp đồng hay không và ngời thụ hưởng có quyền thông báo

về những thiệt hại xảy ra hay không, mức thiệt hại thực tế là bao nhiêu, cũng
không ảnh hưởng hoặc liên quan đến hợp đồng bảo lãnh giữa người được bảo
lãnh và ngân hàng phát hành bảo lãnh. Điều đó có nghĩa là một khi các điều
kiện qui định trong hợp đồng bảo lãnh được thỏa mãn về mặt pháp lý thì người
thụ hưởng không cần thiết phải chứng minh vi phạm của người được bảo lãnh
mà chỉ cần lập các chứng từ theo như yêu cầu của bảo lãnh. Trách nhiệm thanh
toán của ngân hàng cũng độc lập với những thỏa thuận giữa người được bảo
lãnh và người thụ hưởng. Khi các điều kiện thanh toán được đáp ứng thì ngân
hàng không có quyền viện dẫn bất cứ lí do gì để từ chối hoặc có thể hợp đồng
kinh tế thay đổi cũng không ảnh hưởng gì đến hợp đồng bảo lãnh.
- Dựa vào biểu hiện bên ngoài thì việc bảo lãnh có ba bên bao gồm bên
bảo lãnh, bên thụ hưởng bảo lãnh và bên được bảo lãnh. Mối quan hệ giữa các
chủ thể trong BLNH được thể hiện như sau:
* Quan hệ giữa người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh là
mối quan hệ gốc, là cơ sở phát sinh yêu cầu bảo lãnh. Trong mối quan hệ này,
người được bảo lãnh có nghĩa vụ bắt buộc phải thực hiện đối với bên thụ hưởng
bảo lãnh. Nghĩa vụ đó có thể là nghĩa vụ tài chính như nghĩa vụ trả nợ cũng có
thể là nghĩa vụ phi tài chính như bảo hành sản phẩm hay cung cấp thiết bị…Tuy
nhiên nghĩa vụ này không được thực hiện ngay lập tức có thể do khó khăn tạm
thời về tài chính hay không muốn ứ đọng vốn… người được bảo lãnh muốn gia
hạn nợ trong một khoảng thời gian nhất định. Trong khi đó người thụ hưởng lại
không hoàn toàn tin tưởng vào bạn hàng của mình cho nên họ yêu cầu có một
sự đảm bảo chắc chắn cho việc thực hiện hợp đồng, họ yêu cầu bảo lãnh của
ngân hàng.
* Quan hệ giữa người được bảo lãnh và ngân hàng phát hành bảo lãnh là
quan hệ dịch vụ bảo lãnh trong đó ngân hàng cấp tín dụng và khách hàng hưởng
tín dụng. Bảo lãnh ngân hàng đưa ra những cam kết bằng chứng thư và hạch
toán theo dõi ngoại bảng vì trên thực tế chưa sử dụng vốn ngay để cho vay.Như
vậy, bảo lãnh ngân hàng được coi như là một hình thức cấp tín dụng gián tiếp.
* Quan hệ giữa ngân hàng phát hành bảo lãnh và người thụ hưởng bảo

lãnh : ngân hàng cam kết sẽ thực hiện nghĩa vụ đối với người thụ hưởng bảo
lãnh thay cho người được bảo lãnh nếu người được bảo lãnh vi phạm hợp đồng
đã kí kết. Khi có được cam kết với người được bảo lãnh ngân hàng sẽ phát hành
thư bảo lãnh để bảo vệ quyền lợi cho người thụ hưởng bảo lãnh.
- Phân biệt bảo lãnh và bảo hiểm :
Bảo lãnh thường do ngân hàng thực hiện còn bảo hiểm do công ty bảo
hiểm thực hiện.
Bảo lãnh nhằm chống đỡ rủi ro và đền bù những thiệt hại khi có rủi ro
xảy ra còn bảo hiểm chỉ nhằm khắc phục những thiệt hại chứ không có tác dụng
phòng ngừa rủi ro.
Bảo lãnh dùng chính tiền của người gây ra vi phạm để bù đắp cho
người bị thiệt hại còn bảo hiểm phân chia tổn thất của người nhận tiền bảo hiểm
cho những người tham gia bảo hiểm.
Khi thanh toán, bảo lãnh thực hiện thanh toán theo yêu cầu đầu tiên còn
bảo hiểm cần có một khoảng thời gian để thu thập đủ bằng chứng và xác minh
mức độ thiệt hại thực tế.
- Phân biệt nghiệp vụ bảo lãnh và tín dụng chứng từ :
Tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận trong đó theo yêu cầu của nhà
nhập khẩu, một ngân hàng sẽ phát hành một bức thư gọi là L/C, theo đó ngân
hàng phát hành cam kết sẽ trả tiền hoặc chấp nhận hối phiếu cho nhà xuất khẩu
khi người này xuất trình cho ngân hàng phát hành bộ chứng từ thanh toán phù
hợp với điều khoản và điều kiện của L/C.
Như vậy, L/C là hợp đồng kinh tế độc lập chỉ của hai bên là người thụ
hưởng và ngân hàng phát hành, ngân hàng phát hành đại diện cho khách hàng
của mình, tiếng nói chính thức của người mở L/C không được thể hiện trong
L/C. Còn hợp đồng bảo lãnh là hợp đồng giữa người được bảo lãnh và ngân
hàng phát hành, giữa người thụ hưởng và ngân hàng phát hành chỉ có ràng buộc
bởi một thư bảo lãnh do ngân hàng đơn phương phát hành.
Trong L/C, ngân hàng phát hành không chỉ đóng vai trò là người thu
hộ , chi hộ mà còn là người đại diện cho nhà nhập khẩu thanh toán tiền hàng

cho nhà xuất khẩu, đảm bảo cho nhà xuất khẩu nhận được khoản tiền tương ứng
với hàng hoá mà họ đã cung ứng; đồng thời đảm bảo cho nhà nhập khẩu nhận
được số lượng và chất lượng hàng do bộ chứng từ đại diện và tương ứng với số
tiền mình đã bỏ ra. Còn bảo lãnh ngân hàng chỉ đơn thuần là ngân hàng dùng uy
tín của mình để đảm bảo cho nghĩa vụ hoàn thành hợp đồng của bên được bảo
lãnh và bù đắp phần nào rủi ro cho bên thụ hưởng. Có nghĩa là với hình thức tín
dụng chứng từ ngân hàng phát hành phải có nghĩa vụ đầu tiên thanh toán cho
người thụ hưởng khi ngươì này xuất trình bộ chứng từ phù hợp, còn với bảo
lãnh ngân hàng trách nhiệm thanh toán đầu tiên thuộc về khách hàng trong hợp
đồng chính, ngân hàng chỉ thực hiện trách nhiệm của mình khi và chỉ khi khách
hàng không thực hiện được nghĩa vụ của họ.
Thư tín dụng có tính độc lập so với hợp đồng cơ sở và hàng hoá. L/C chỉ
giao dịch bằng chứng từ và chỉ căn cứ vào chứng từ , không hề căn cứ vào tình
hình thực tế của hàng hoá. Còn bảo lãnh chỉ đơn thuần là cam kết bảo lãnh theo
yêu cầu và chỉ đề cập tới các tài liệu liên quan trong từng trường hợp cụ thể.
Như thế, bảo lãnh ngân hàng rủi ro hơn cho các khách hàng và ít rủi ro cho ngân
hàng còn tín dụng chứng từ thì rủi ro hơn cho ngân hàng phát hành và ít rủi ro
cho khách hàng.
Nhìn chung hai hình thức này đều là các công cụ tài chính được các
doanh nghiệp sử dụng nhiều trong các giao dịch quốc tế. Là công cụ giúp cho
các doanh nghiệp hoàn thành tốt các hợp đồng của mình và đem lại những thuận
lợi đáng kể
1.2.2.2. Đặc điểm bảo lãnh Ngân hàng
Về thực chất, bảo lãnh là lời hứa thanh toán của Ngân hàng với người
được yêu cầu bảo lãnh khi người được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ hợp
đồng. Bảo lãnh là một công cụ bảo đảm, chứ không phải là công cụ thanh toán.
Nghiên cứu đặc điểm của bảo lãnh đưa ra cơ sở phân cho việc phân biệt giữa
bảo lãnh với công cụ thanh toán và bảo đảm khác như thư tín dụng, bảo hiểm…
Bảo lãnh ngân hàng có những đặc điểm cơ bản sau:
- Tính độc lập tương đối đối với hợp đồng chính

Đây là một đặc điểm quan trọng của bảo lãnh ngân hàng. Mặc dù mục
đích của bảo lãnh là bồi hoàn cho người thụ hưởng những thiệt hại từ việc
không thực hiện hợp đồng của người được bảo lãnh nhưng nó vẫn có sự độc lập
tương đối với hợp đồng chính. Việc thanh toán của bảo lãnh chủ yếu căn cứ vào
các điều khoản, điều kiện đã được thỏa thuận và quy định trong thư bảo lãnh.
Ngân hàng bảo lãnh không thể dựa vào những vấn đề phát sinh trong quan hệ
hợp đồng để từ chối nghĩa vụ của mình.
Như vậy, liệu rằng trong thực tế người được bảo lãnh có thực hiện đầy
đủ nghĩa vụ đã cam kết với người nhận bảo lãnh hay không và người nhận bảo
lãnh có được quyền bồi thường như đã quy định trong hợp đồng cơ sở hay
không? Đây không phải là vấn đề đặt ra đối với các ngân hàng trong quan hệ
với người nhận bảo lãnh. Theo đó, khi xem xét yêu cầu đòi tiền của người nhận
bảo lãnh, nếu các điều khoản, điều kiện của thư bảo lãnh được thỏa mãn, người
nhận bảo lãnh về mặt pháp lý được quyền yêu cầu đòi tiền và không cần thiết
phải chứng minh các vi phạm của người được bảo lãnh bằng cách nào khác
ngoài các quy định trong thư bảo lãnh.
Tuy nhiên, cũng cần khẳng định rằng, tính độc lập của bảo lãnh là phụ
thuộc vào chính các điều kiện của bảo lãnh. Ví dụ như: nếu bảo lãnh quy định
việc thanh toán là theo văn bản yêu cầu của người thụ hưởng thì người thụ
hưởng có thể yêu cầu thanh toán mà không cần một điều kiện nào khác ngoài
văn bản yêu cầu. Nhưng nếu bảo lãnh yêu cầu một chứng từ cụ thể như: phán
quyết của tòa án, hoặc văn bản của bên thứ ba xác nhận sự vi phạm của người
được bảo lãnh, văn bản của người được bảo lãnh thừa nhận sự vi phạm của
mình thì tính độc lập của bảo lãnh sẽ bị giảm sút.
Đối với các ngân hàng, tính độc lập của bảo lãnh mang lại nhiều thuận
lợi. Một khi có yêu cầu đòi tiền theo thư bảo lãnh của người nhận bảo lãnh thì
ngân hàng chỉ có trách nhiệm xem xét, kiểm tra các chứng từ được xuất trình có
phù hợp với những điều khoản, điều kiện quy định trong thư bảo lãnh hay
không.
- Bảo lãnh là một cam kết mang tính chất bảo đảm gián tiếp

Đặc điểm này thể hiện rõ vai trò trung gian của ngân hàng. Ở đây, người
có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ chính là khách hàng (người được bảo lãnh).
Còn ngân hàng đứng ra đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ của khách hàng. Ngân
hàng không phải ngay lập tức sử dụng vốn của mình mà chỉ thực hiện thay khi
người được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ.
Xuất phát từ đặc trưng này mà trên thế giới hình thành một số quan
điểm khác nhau về bảo lãnh. Quan điểm thứ nhất cho rằng: tất cả các hình thức
mang tính chất bảo đảm gián tiếp của ngân hàng như thư tín dụng trả chậm, thư
tín dụng trả ngay…đều được coi là hình thức bảo lãnh. Quan điểm thứ hai cho
rằng, một số hình thức kể trên không phải là hình thức bảo lãnh đơn thuần mà
nó là các phương tiện thanh toán hay là một hình thức tín dụng.
Trong đề tài này, bảo lãnh ngân hàng được quan niệm là những cam kết
mang tính chất đảm bảo gián tiếp của ngân hàng. Như vậy, số dư bảo lãnh sẽ
bao gồm tổng số dư bảo lãnh và các cam kết phát hành theo hình thức tín dụng
chứng từ, ngoại trừ hình thức mở thư tín dụng trả ngay được khách hàng kí quỹ
đủ hoặc được cho vay 100% giá trị thanh toán.
- Cam kết bảo lãnh ngân hàng phải được lập bằng văn bản
Bảo lãnh ngân hàng không chấp nhận việc bảo lãnh hoặc đảm bảo bằng
miệng. Văn bản bảo lãnh có thể là thư, điện, Telex hoặc ký hậu trên các hối
phiếu, lệnh phiếu, giấy nhận nợ…
1.2.3 Vai trò của bảo lãnh Ngân hàng
1.2.3.1Đối với hoạt động Ngân hàng
Nền kinh tế ngày càng phát triển đồng nghĩa với việc nhu cầu về các sản
phẩm dịch vụ càng cao.Việc đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ giúp các ngân hàng
đứng vững trong sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Nghiệp vụ bảo lãnh ra đời đã
góp phần thỏa mãn tốt hơn những đòi hỏi đó. Hơn nữa,Ngân hàng có thể củng
cố mối quan hệ với khách hàng truyền thống và tiếp cận được với các khách
hàng tiềm năng.
Để đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, các ngân hàng đã không
ngừng mở rộng và phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại. Trong đó dịch vụ

bảo lãnh đã đem lại cho các ngân hàng một nguồn thu nhập không nhỏ. Bảo
lãnh là nghiệp vụ tín dụng bằng chữ kí vì vậy ngân hàng chỉ cần sử dụng uy tín
của mình để thực hiện nghiệp vụ này mà không phải sử dụng vốn ngay. Ngân
hàng có thêm cơ hội để sử dụng nguồn vốn đó vào các hoạt động đầu tư khác vì
việc giải ngân sẽ chỉ diễn ra trong tương lai khi có những vi phạm xảy ra. Khi
khách hàng có yêu cầu bảo lãnh họ cần phải kí quỹ một khoản tiền nhất định,
được giữ trong tài khoản phong tỏa. Ngân hàng kiếm lời từ việc thu phí và cũng
có thể chiếm dụng vốn mà không cần phải trả lãi.
Điều kiện quan trọng để ngân hàng thực hiện nghiệp vụ này chính là uy
tín của ngân hàng. Uy tín của ngân hàng càng cao thì số lượng cũng như chất
lượng các hợp đồng bảo lãnh càng lớn. Điều này có nghĩa rằng khi thực hiện
bảo lãnh để tăng thu nhập cho mình các ngân hàng cũng đang nâng cao uy tín
và hình ảnh đối với khách hàng.
Ngoài ra, nghiệp vụ bảo lãnh được thực hiện còn thúc đẩy việc mở rộng
các nghiệp vụ khác như : thanh toán, chuyển tiền, chuyển đổi và mua bán ngoại
tệ trong những hợp đồng kinh tế của khách hàng với nước ngoài.
1.2.3.2 Đối với hoạt động của doanh nghiệp
Đối với người được bảo lãnh:
Bảo lãnh ngân hàng giúp giảm bớt sự căng thẳng về nguồn vốn hoạt động
của doanh nghiệp. Trong những hợp đồng cụ thể, do bên được bảo lãnh chưa đủ
uy tín với bên thụ hưởng, họ có thể yêu cầu ngân hàng bảo lãnh, nhờ đó bên thụ
hưởng bảo lãnh sẽ tài trợ trước một phần vốn cho bên được bảo lãnh giúp họ
tiếp tục sản xuất kinh doanh một cách thuận lợi mà không phải đi vay mượn.
Đối với hình thức bảo lãnh vay vốn trong và ngoài nước thì bảo lãnh ngân
hàng góp phần đáp ứng yêu cầu phát triển và mở rộng sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Đặc biệt là những hợp đồng mua thiết bị vật tư trả chậm, bảo
lãnh ngân hàng tạo điều kiện thu hút vốn mạnh mẽ. Doanh nghiệp có thể tiếp
cận và ứng dụng các công nghệ hiện đại để phát triển và mở rộng hoạt động
kinh doanh của mình.
Trong hợp đồng bảo lãnh qui định nếu doanh nghiệp không hoàn thành

được nghĩa vụ của mình họ sẽ phải bồi hoàn giá trị hợp đồng lớn hơn giá trị ban
đầu tức là giá trị hợp đồng cộng với mức lãi, phạt nhất định. Trong quá trình
thực hiện hợp đồng, ngân hàng phát hành cũng thường xuyên kiểm tra giám sát
tạo ra áp lực thực hiện tốt hợp đồng, giảm thiểu vi phạm từ phía người được bảo
lãnh.Cho nên việc bảo lãnh của ngân hàng cũng thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn
nghiêm túc hơn, hoàn thành đúng tiến độ hợp đồng đã kí với bên đối tác.
Khách hàng có nhu cầu ngân hàng bảo lãnh cũng sẽ được hưởng các dịch
vụ đi kèm như tư vấn về việc phân tích tình hình tài chính, đánh giá vốn vay và
sử dụng vốn vay hiệu quả. Kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có
ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín của ngân hàng vì vậy ngân hàng luôn có những
hỗ trợ kịp thời và hiệu quả cho doanh nghiệp được bảo lãnh.
Đối với người thụ hưởng bảo lãnh:
Khi đã có bảo lãnh của ngân hàng, người thụ hưởng bảo lãnh sẽ có một
đảm bảo chắc chắn cho việc thực hiện hợp đồng của người được bảo lãnh. Bằng
cam kết của ngân hàng rằng sẽ bồi thường cho người thụ hưởng bảo nếu như
xảy ra hành vi vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh,bên thụ hưởng bảo
lãnh sẽ yên tâm hơn khi kí kết hợp đồng và cũng không cần tốn kém thời gian,
chi phí cho việc tìm hiểu đối tác. Khi có rủi ro xảy ra họ chỉ cần xuất trình
những bằng chứng chứng tỏ sự vi phạm của bên được bảo lãnh thì ngân hàng sẽ
phải thực hiện nghĩa vụ trả thay vô điều kiện.
1.2.3.3 Đối với nền kinh tế
Chính sách kinh tế nước ta đã phát triển theo nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa thì bảo lãnh là một nghiệp vụ rất cần thiết. Bảo lãnh
ngân hàng là chất xúc tác giúp cho các hợp đồng thương mại xây dựng,các giao
dịch hàng hóa trong nước và quốc tế được kí kết một cách thuận lợi, đáp ứng
nhu cầu về vốn cũng như giúp doanh nghiệp có điều kiện tiếp xúc với công
nghệ tiên tiến trên thế giới, từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Bảo lãnh ngân hàng thúc đẩy các doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc hơn
đồng nghĩa với việc lành mạnh hóa môi trường kinh doanh trong nước.Doanh
nghiệp làm ăn hiệu quả hơn góp phần tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước.

Với những ý nghĩa trên, bảo lãnh ngân hàng đóng vai trò ngày càng quan
trọng trong hoạt động ngân hàng, hoạt động của doanh nghiệp cũng như cả nền
kinh tế.
1.2.4. Các văn bản pháp luật điều chỉnh nghiệp vụ bảo lãnh
- Luật các tổ chức tín dụng ngày 12/12/1997 và luật sửa đổi bổ sung một
số điều của luật các tổ chức tín dụng ngày 1/10/2004.
- Quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN14 ngày 25/08/2000 của Thống đốc
ngân hàng Nhà nước về việc ban hành qui chế bảo lãnh ngân hàng.
- Quyết định số 386/2001/QĐ-NHNN ngày 11/04/2001 của ngân hàng
Nhà nớc về việc sửa đổi bổ sung quyết định 283.
- Quyết định số 112/2003/QĐ-NHNN ngày 11/04/2001 của ngân hàng
Nhà nước về việc sửa đổi bổ sung quyết định 283.
- Quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN ngày 26/06/2006 của Thống đốc
ngân hàng Nhà nước về việc ban hành qui chế bảo lãnh ngân hàng.
Ngoài ra còn một số văn bản pháp luật khác liên quan điều chỉnh từng
loại bảo lãnh cụ thể.
1.2.5. Phân loại bảo lãnh Ngân hàng
1.2.5.1. Căn cứ vào bản chất của bảo lãnh
1.2.5.1.1. Bảo lãnh đồng nghĩa vụ
Là loại bảo lãnh mang tính truyền thống. Đặc trưng của loại bảo lãnh này
là ngân hàng và người được bảo lãnh được xem là cùng nghĩa vụ. Tuy nhiên
nghĩa vụ của khách hàng là nghĩa vụ đầu tiên, nghĩa vụ của ngân hàng là nghĩa
vụ bổ sung. Nghĩa vụ bổ sung chỉ được thực hiện khi và chỉ khi có bằng chứng
xác nhận về việc nghĩa vụ đầu tiên bị vi phạm. Loại bảo lãnh này thường ít
được sử dụng trong các giao dịch quốc tế mà chủ yếu sử dụng trong phạm vi nội
địa là do đặc trưng của bảo lãnh đồng nghĩa vụ đòi hỏi ngân hàng phải can thiệp
khá sâu vào hợp đồng kinh tế giữa người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo
lãnh
1.2.5.1.2. Bảo lãnh độc lập
Là loại bảo lãnh của ngân hàng hiện đại. Cơ chế hoạt động dựa trên hai

nguyên tắc là nguyên tắc độc lập và nguyên tắc hoàn toàn phù hợp. Tức là
nghĩa vụ của người được bảo lãnh và của ngân hàng hoàn toàn tách rời nhau và
việc thanh toán chỉ căn cứ vào những điều khoản, điều kiện của văn bản bảo
lãnh. Tuy nhiên tính độc lập của loại bảo lãnh này mang tính tương đối, phụ
thuộc vào các điều kiện thanh toán đã được qui định trong thư bảo lãnh giữa
ngân hàng và người thụ hưởng bảo lãnh. Bảo lãnh độc lập mang lại sự thuận lợi
lớn cho cả người thụ hưởng bảo lãnh và ngân hàng phát hành cho nên loại bảo
lãnh này được sử dụng chủ yếu trong các giao dịch quốc tế
1.2.5.2. Căn cứ vào mục đích bảo lãnh
1.2.5.2.1. Bảo lãnh dự thầu
Bảo lãnh dự thầu là cam kết của ngân hàng với chủ đầu tư (hay chủ thầu)
về việc trả tiền phạt thay cho bên dự thầu nếu bên dự thầu vi phạm các quy định
trong hợp đồng dự thầu.
- Mục đích: Đảo bảo cho việc người dự thầu không rút lui, không ký hợp đồng
hay thay đổi ý định đã được trúng thầu. Nếu người dự thầu đã trúng thầu nhưng
không ký hợp đồng thì chủ thầu (người thụ hưởng) sẽ rút dần thanh toán từ bảo
lãnh để trang trải cho chi phí đấu thầu, thiệt hại do chậm tiến độ thi công hay
chi phí để tổ chức lại một cuộc đấu thầu khác.
- Trị giá của bảo lãnh: Thông thường có giá trị từ 1- 5% giá trị hợp đồng đấu
thầu.
Thời hạn hiệu lực: Thời hạn hiệu lực của bảo lãnh sẽ chỉ chấm dứt khi
bên được bảo lãnh (người tham gia dự thầu) không trúng thầu hoặc sau khi ký
kết hợp đồng hoặc chấp nhận ký kết hợp đồng nếu bên được bảo lãnh trúng
thầu.
1.2.5.2.2. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng là cam kết của ngân hàng về việc chi trả tổn
thất thay cho khách hàng nếu khách hàng không thực hiện đầy đủ hợp đồng như
cam kết, gây tổn thất cho bên thứ ba. Các hợp đồng được bảo lãnh như hợp
đồng cung cấp hàng hoá, xây dựng, thiết kế…
- Mục đích: Trong trường hợp khách hàng vi phạm hợp đồng cấp không đúng

hạn, không đúng chất lượng cam kết.. thì đều gây tổn thất cho bên thứ ba. Và
bảo lãnh ngân hàng một mặt bù đắp một phần tổn thất cho bên thứ ba (đảm bảo
cho họ tránh được rủi ro) mặt khác thúc đẩy khách hành nghiêm chỉnh thực hiện
hợp đồng.
- Trị giá của bảo lãnh: Tùy theo loại hình và quy mô hợp đồng, giá trị bảo lãnh
thực hiện hợp đồngtừ 10 – 15 % tổng giá trị hợp đồng. Trường hợp đặc biệt,
mức bảo lãnh thực hiện hợp đồng có thể yêu cầu trên 15% nhưng phải được
người có thẩm quyền quyết định đầu tư chấp thuận. Tuy nhiên số tiền bảo lãnh

×