CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TẠI NGÂN
HÀNG SÀI GÒN CÔNG THƯƠNG CHI NHÁNH CẦN THƠ
5.1 Hạn chế và nguyên nhân:
5.1.1. Hạn chế:
Về huy động vốn: Tỷ trọng vốn huy động trên tổng nguồn vốn kinh doanh còn
thấp qua các năm, điều này ngân hàng phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn điều chuyển từ
hội sở chính, từ đó gây khó khăn trực tiếp trong việc hoạch định nguồn vốn nói chung,
tính toán chi phí trả lãi; gián tiếp ảnh hưởng đến chiến lược đầu tư, cho vay cũng như
cân đối thu chi trong kỳ kinh doanh (vì lãi/ lỗ do chênh lệch thu/ chi từ lãi sẽ ảnh hưởng
trực tiếp đến lợi nhuận hàng năm).
Về sử dụng vốn: Ngân hàng chủ yếu chỉ tập trung vốn kinh doanh trong lĩnh vực
cho vay, dù biết đây là mảng kinh doanh truyền thống và có tỷ suất sinh lời cao nhưng
việc chỉ tập trung vào một mảng hoạt động thì ngân hàng sẽ rất dễ bị tác động bất lợi từ
yếu tố thị trường, cũng như sự chia sẻ thị phần với các ngân hàng khác trên địa bàn.
Hơn nữa, ngân hàng lại theo đuổi chiến lược cho vay bán buôn nên các yếu tố về rủi ro
thị phần, rủi ro trên một khách hàng là rất lớn. Trong 3 năm trở lại đây, ngân hàng đã có
cố gắng trong việc tăng tỷ trọng thu nhập ngoài lãi trên tổng thu nhập nhằm giảm bớt sự
phụ thuộc vào thu nhập từ lãi (tức thu từ lĩnh vực tín dụng) đây là hướng đi đúng, cần
tiếp tục phát huy hơn nữa để sao cho tiến đến tỷ lệ thu nhập ngoài lãi chiếm từ 15% đến
30% trong tổng thu nhập. Riêng về cho vay, thì ngân hàng cũng đang dần từng bước lập
kế hoạch để xâm nhập thị trường cho vay bán lẻ cũng như cho vay tiêu dùng trên địa
bàn Cần Thơ trong giai đoạn đầu, rồi sau đó tiến đến các tỉnh lân cận; tuy nhiên việc
triển khai vẫn còn rất chậm. Về lĩnh vực dịch vụ, ngân hàng là một trong những ngân
hàng đầu tiên ở Cần Thơ lắp đặt máy ATM, máy POS, tuy nhiên do thiếu các hoạt động
tiếp thị đúng mức cũng như kịp thời nên đây cũng là mảng thị phần ngân hàng chưa tận
dụng tốt dẫn đến bị các chi nhánh ngân hàng khác qua mặt về quy mô, doanh số cũng
như lợi nhuận trong lĩnh vực này. Về lĩnh vực kinh doanh ngoại tệ, hoạt động của ngân
hàng về nghiệp vụ này còn khá khiêm tốn về doanh thu: hoạt động chủ yếu chỉ xoay
quanh việc mua bán ngoại tệ với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, mua bán ngoại tệ
với người có thân nhân gửi kiều hối về,…thiếu các dịch vụ hiện đại thông qua các công
cụ phái sinh như option, forward, swap …điều này một phần là do yếu tố khách quan là
trình độ doanh nghiệp ở ĐBSCL còn thấp nên họ không “mặn mà” gì với các dịch vụ
mới này, cũng như chủ quan là do ngân hàng chưa chú trọng nhiều đến mảng kinh
doanh này. Đây là hạn chế lớn vì kinh doanh các dịch vụ này vừa mang lại lợi nhuận
cao vừa an toàn cho ngân hàng.
Về chiến lược kinh doanh: Ngân hàng có chiến lược kinh doanh đúng là chú
trọng đến an toàn và hiệu quả hơn là số lượng và quy mô thể hiện rõ qua việc nợ quá
hạn trên tổng dư nợ của ngân hàng qua 3 năm đều rất thấp so với tỷ lệ an toàn do
NHNN quy định là dưới 5%, mặc dù trong năm 2005 Ngân hàng có vướng một khoản
nợ xấu lớn nhưng Ban giám đốc đã kịp thời xử lý đúng quy định và cũng đã thu hồi lại
toàn bộ khoản nợ xấu này. Song, tiềm ẩn về rủi ro tín dụng là điều luôn song hành với
hoạt động cho vay của ngân hàng, ngân hàng phải chủ động hoàn thiện quy trình thẩm
định, cũng như nâng cao hơn nữa trình độ tác nghiệp của cán bộ tín dụng. Tuy nhiên,
việc ngân hàng chỉ tập trung vốn cho vay ngắn hạn và cho vay bán buôn là một điểm
hạn chế tiềm năng phát triển nói chung, tăng trưởng lợi nhuận nói riêng, vì nếu ngân
hàng có chiến lược phù hợp và năng động hơn, huy động vốn với chi phí rẻ hơn thì
không những vẫn có thể giữ được thị phần cho vay bán buôn mà còn phát triển được thị
phần cho vay bán lẻ đang khá sôi động trên địa bàn. Riêng về định hướng cho vay trung
dài hạn, tập trung vốn cho vay ngắn hạn nhằm hạn chế rủi ro về lãi suất, rủi ro thị
trường là hướng đi đúng nhưng chỉ đúng trong giai đoạn hiện nay, vì sau này khi nền
kinh tế vĩ mô đạt được tính bền vững rồi thì nên tăng tỷ trọng cho vay trung dài hạn trên
tổng dư nợ để thu được lợi nhuận cao hơn.
Về chi phí: Ngân hàng có sự điều tiết tương đối tốt trong chi phí, tuy nhiên ngân
hàng vẫn còn bị động về chi phí trả lãi do phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn vay từ Hội sở
chính. Nếu như đối với chi phí ngoài lãi chỉ kiềm giữ tăng ở mức độ đều đặn qua các
năm; Đối với chi phí trả lãi thì có tăng cao trong năm 2007, nhưng đây là nguồn chi phí
để đeo đuổi việc tăng thu nhập nên có thể tạm chấp nhận được. Tuy nhiên, trong các chi
phí thì ngân hàng ít chú trọng đến sự tăng trưởng của chi phí nhân viên đây là chi phí có
ý nghĩa quan trọng trong việc tăng năng suất lao động cũng như chính sách thu hút nhân
tài.
Về thu nhập: Ngân hàng tuy đạt thu nhập cao, năm sau cao hơn năm trước; Tuy
nhiên, trong cơ cấu thu nhập của ngân hàng thì tỷ trọng thu nhập từ lãi của ngân hàng
còn chiếm tỷ lệ quá cao; hơn nữa, trong cơ cấu thu nhập ngoài lãi thì cũng còn khá ít
các nghiệp vụ sinh lời. Hai điều này đã nói lên rằng danh mục đầu tư của ngân hàng nói
chung còn chưa phong phú, chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng hoá hoạt động để cạnh
tranh tốt trong thời hội nhập cũng như chưa đạt tầm của một ngân hàng hiện đại; còn
xét về danh mục tài sản sinh lời thì càng cho thấy rõ ngân hàng hầu như chỉ dựa vào
nghiệp vụ cho vay là nghiệp vụ mang về lợi nhuận chủ yếu.
Về lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận: thể hiện qua các chỉ số đo lường lợi nhuận và
chỉ số đánh giá…đều ở mức tốt và khá tốt; tuy nhiên còn tiềm ẩn các yếu tố chưa bền
vững về tốc độ tăng trưởng nói chung, tốc độ tăng trưởng lợi nhuận nói riêng, đặc biệt
là trong năm 2007: các chỉ tiêu về dư nợ, huy động vốn, lợi nhuận, phát hành thẻ, giao
dịch ngoại hối…đều vượt mức kế hoạch Hội sở chính giao cho chi nhánh [Nguồn: Báo
cáo Kết quả kinh doanh năm 2007]. Tuy nhiên, điều này là không bền vững vì theo
nhận định của Giám đốc chi nhánh SGCT thì “năm 2007 thị trường tín dụng tăng quá
nóng, kèm theo dấu hiệu lạm phát tăng nhanh vào cuối năm sẽ dẫn đến lợi nhuận của
các doanh nghiệp tăng nhanh nhưng không bền vững, cộng với những yếu tố bất lợi về
thị trường xuất khẩu (cá da trơn, tôm, gạo đều xuống giá trong mấy năm nay, riêng gạo
chỉ mới tăng giá lại vào giữa năm 2007, trong khi trước đó nhiều doanh nghiệp kinh
doanh những mặt hàng này đã bị lỗ nên đã chuyển hướng kinh doanh từ sản xuất sang
thương mại dịch vụ, mà ngành này thì phụ thuộc rất lớn vào yếu tố thời cơ, thị trường
nghĩa là rủi ro tăng nhiều so với sản xuất hàng hoá)”.
5.1.2. Nguyên nhân của các hạn chế trên:
Dựa vào THỬ THÁCH và ĐIỂM YẾU trong bảng phân tích SWOT ở chương 4,
ta sẽ dễ thấy được các nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan của các hạn chế vừa nêu
trên:
Khách quan:
Do trình độ dân trí của người dân nói chung, trình độ của bộ phận không nhỏ
doanh nghiệp nói riêng còn thấp, cho nên họ còn xa lạ với các dịch vụ ngân hàng, đặc
biệt là các nghiệp vụ có liên quan đến công nghệ thông tin, công nghệ hiện đại nên gây
khó khăn cho ngân hàng trong việc phát triển các sản phẩm mới, hiện đại ở vùng
ĐBSCL.
Do Luật lẫn các văn bản dưới luật còn chồng chéo với nhau, ví như đã đề cập ở
trên về việc mâu thuẫn trong thoả thuận lãi suất cho vay giữa Luật TCTD và Luật
NHNN với Luật Dân sự, và còn nhiều văn bản pháp luật khác có sự chồng chéo thậm
chí mâu thuẫn nhau. Hơn nữa, quy trình tố tụng nhập nhằn cũng như sự chậm chạp
trong thi hành án đã làm các ngân hàng nản lòng trong các vụ kiện tụng, tranh chấp về
quyền định đoạt, quyền phát mại tài sản đảm bảo khi khách hàng không có khả năng trả
nợ cho ngân hàng. Chính điều này làm cho ngân hàng rất ngại phát triển thị trường cho
vay bán lẻ, cũng như cho vay tiêu dùng vì đối với các khách hàng của mảng thị phần
này đi vay với món tiền nhỏ, ngân hàng không đủ kiên nhẫn cũng như nhân lực, chi phí
theo đuổi các vụ kiện này nếu có xảy ra rủi ro khách hàng không trả được nợ.
Sự cạnh tranh trên địa bàn ngày càng khốc liệt những năm gần đây, kèm theo đó
là sự “chung sống” của quá nhiều TCTD trên cùng một địa bàn như thành phố Cần Thơ
buộc phải chia sẽ thị phần tín dụng lẫn thị phần huy động vốn quá nhỏ, cộng với yếu tố
thiếu nhân sự ngân hàng (đặc biệt nhân sự cấp trung và cấp cao) trong 2 năm trở đây
dẫn đến sự tranh giành cả về nhân sự giữa các ngân hàng trên địa bàn diễn ra từng ngày.
Sự biến động giá cả liên tục cũng như diễn biến tăng giảm phức tạp của đồng
USD, vàng, chỉ số VN-Index… khiến nhiều người lo ngại khi gửi tiền vào ngân hàng vì
sợ đồng tiền nội tệ mất giá, hoặc mất đi cơ hội đầu tư vào thị trường khác có tỷ suất
sinh lợi cao hơn là gửi tiền vào ngân hàng, hoặc cũng do nhu cầu tiêu dùng của người
dân ngày càng tăng dẫn đến nhu cầu vay tiền mua sắm hơn là gửi tiền vào ngân hàng…
Chính những điều này đã tác động làm khó khăn cho công tác huy động vốn tại chỗ,
cộng với việc tốc độ tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng tăng quá nhanh trong năm
2007 có tác dụng như giọt nước làm tràn ly: đẩy cầu vốn vượt xa nguồn cung, hệ quả là
các ngân hàng phải tìm cách thu hút nguồn vốn về phía ngân hàng bằng mọi cách như
khuyến mãi, trúng thưởng, nâng lãi suất huy động trung dài hạn, rồi ngắn hạn lên cao…
kết quả cuối cùng là nâng lãi suất thị trường bao gồm cả lãi suất huy động, lãi suất cho
vay, lãi suất liên ngân hàng lên mức cao nhất từ trước đây.
Chủ quan:
Hội sở chính: Một số điều trong quy chế hệ thống, trong phương pháp quản lý
đã không còn phù hợp với thực tế cạnh tranh và môi trường kinh doanh mới của các chi
nhánh; còn xem nhẹ nguyện vọng cũng như đề xuất của các Giám đốc chi nhánh; tập
trung quá nhiều nghiệp vụ, quyền và hạn mức phán quyết ở các Phòng ban Hội sở
chính. Chính vì lẽ này, nhiều ngân hàng chi nhánh đã không hào hứng lắm trong đề xuất
kiến nghị cũng như ý tưởng kinh doanh mới trong quá trình đóng góp vào xây dựng kế
hoạch, chiến lược kinh doanh của năm.
Chi nhánh:
Điểm hạn chế lớn nhất là khâu marketing: ngân hàng vẫn còn sử dụng những
phương pháp tiếp thị cũ và đơn lẻ như phát tờ rơi, treo poster, băng rôn…hoặc tiếp thị
trực tiếp với các khách hàng lớn để tìm được khách hàng mới là những người quen, bạn
hàng của những khách hàng này, những cách tiếp thị này vừa có hiệu suất thấp vừa tiềm
ẩn rủi ro. Điều này tất yếu dẫn đến hiệu quả đạt được thấp ảnh hưởng trực tiếp lên việc
gây dựng uy tín, thị phần trên địa bàn.
Điểm hạn chế tiếp theo là khâu huy động vốn, mặc dù lượng vốn huy động có
tăng trưởng trong những năm qua nhưng chỉ chiếm bình quân 18% tổng nguồn vốn là
còn quá thấp.
Một hạn chế khác là đội ngũ nhân viên: đa phần các nhân viên cấp phó phòng trở
lên đều đã có tuổi cộng thêm một đội ngũ nhân viên không nhỏ có thâm niên lao động,
điều này ít nhiều gây khó khăn trong huấn luyện nghiệp vụ mới - hiện đại, giảm tính
năng động sáng tạo trong công việc; cộng với việc thường xuyên phải đào tạo mới cho
nhân viên thâm niên và đào tạo lại với nhân viên mới vào (về các quy định mới, các quy
chế, nghiệp vụ mới) góp phần tăng chi phí hoạt động của chi nhánh.
Hạn chế cuối cùng là các sản phẩm kinh doanh còn đơn giản, thiếu sự phong phú
và đa dạng. Thu nhập của ngân hàng chủ yếu được tạo ra từ một số nghiệp vụ truyền
thống như cho vay, bảo lãnh, mua bán ngoại tệ,… riêng trong lĩnh vực cho vay, Ngân
hàng phụ thuộc quá nhiều vào một số khách hàng lớn. Ngân hàng còn chậm trong việc
triển khai và phát triển về dịch vụ hiện đại trên địa bàn, đặc biệt là các dịch vụ trọn gói
và sự nhắm đến khách hàng mục tiêu là chưa rõ ràng.
5.2. Các giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng SGCT chi
nhánh Cần Thơ
Hiệu quả hoạt động của một ngân hàng thương mại được đánh giá trên cơ sở
chất lượng sản phẩm dịch vụ và đầu tư, cũng như những lợi nhuận thu được và tính
phát triển bền vững của nó. Để đạt được hiệu quả đó, xuất phát từ thực trạng hiệu quả
hoạt động đã phân tích ở chương 4, cũng như các thách thức phải đối mặt, đòi hỏi
SGCT Ngân hàng Chi nhánh Cần Thơ cần phải có những chiến lược phát triển tổng thể
và cần hướng vào thực hiện những giải pháp sau:
5.2.1. Giải pháp tăng khả năng huy động vốn:
Trong hoạt động của Ngân hàng, giữa huy động vốn và sử dụng vốn có mối
quan hệ nhân quả với nhau. Tạo vốn là giải pháp hàng đầu để Ngân hàng phát triển và
đảm bảo kinh doanh. Cần có chính sách tạo vốn phù hợp nhằm khai thác mọi tiềm năng
về vốn, để có được nguồn vốn đủ mạnh đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng cũng
như hoạt động kinh doanh khác của Ngân hàng.
Vốn huy động thường từ nguồn: ngân sách, doanh nghiệp, ngân hàng hoặc các tổ
chức tín dụng khác, dân cư,…Trong đó nguồn vốn trong dân cư và doanh nghiệp là
quan trọng nhất vì đây là nơi tạo ra tích tụ vốn, là nguồn dồi dào để tạo ra nguồn vốn
cho Ngân hàng. Hơn nữa, Ngân hàng cần tăng huy động nguồn vốn từ tiền gửi thanh
toán vì đây là nguồn vốn thường có số dư lớn nhưng chi phí lại rất thấp. Thực tế cho
thấy, ở các ngân hàng lớn thì tỷ trọng tiền gửi thanh toán chiếm một tỷ lệ rất cao trong
tổng nguồn vốn huy động, ví dụ như các ngân hàng quốc doanh ở Việt Nam thường có
lượng tiền gửi thanh toán rất lớn do kho bạc, quỹ tài trợ cấp chính phủ, các quỹ của nhà
nước, quỹ bảo hiểm xã hội gửi vào (bên cạnh yếu tố quan trọng khác là niềm tin của
dân chúng rằng Ngân hàng của nhà nước thì không bao giờ phá sản nên gửi tiền không
sợ mất!) nên các ngân hàng này luôn có chi phí huy động vốn rất thấp.
Hầu hết tâm lý của người dân thích để tiền ở nhà hơn là gửi tiền vào Ngân hàng
mặc dù họ biết gửi tiền vào Ngân hàng họ sẽ có tiền lãi, thế nhưng họ lại có tâm lý
không an toàn khi gửi tiền vào Ngân hàng. Vì vậy, Ngân hàng cần tạo ra sự hấp dẫn cho
khách hàng gửi tiền bằng cách:
Đa dạng hoá các hình thức huy động.
Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu có đảm bảo bằng ngoại tệ để khách hàng yên
tâm không sợ lạm phát (tuy nhiên ta chỉ thực hiện bù giá khi nào đồng nội tệ trượt giá
lớn hơn mức nào đó chứ không phải cứ trượt giá thì ta sẽ bù)
Áp dụng lãi suất khuyến khích khi huy động vốn: gửi món tiền lớn trong thời
gian dài lãi suất cao hơn gửi món tiền nhỏ, nghĩa là trong cùng một thời gian gửi tiền
với số tiền lớn sẽ có mức lãi suất cao hơn gửi số tiền nhỏ.
Áp dụng hình thức tiết kiệm trúng thưởng theo số thứ tự của sổ tiết kiệm sẽ
tạo sự hấp dẫn và sôi động hơn.
Tăng cường tiếp cận, chiêu thị trực tiếp đối tượng có thu nhập cao.
Thực hiện đảm bảo tiền gửi cho khách hàng.
Đội ngũ nhân viên giao dịch phải năng động, sáng tạo, thân thiện tạo cảm
giác an toàn, thoải mái cho khách hàng.
5.2.2. Giải pháp tăng chất lượng tín dụng cũng như giữ vững thị phần:
Định hướng mở rộng thị phần tín dụng bán lẻ và tín dụng tiêu dùng:
Đẩy mạnh tốc độ phát triển tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ với doanh
số cho vay cao hơn 50% tổng doanh số cho vay của Ngân hàng trong các năm trước,
nhưng trước tiên đạt mức tăng 20% so với năm 2007 để chuyển dần một phần nguồn
vốn từ cho vay bán buôn sang cho vay bán lẻ. Bên cạnh việc duy trì tỉ lệ nợ quá hạn đến
mức thấp nhất có thể được trên tổng dư nợ cho vay.
Ngân hàng phải giữ vai trò tích cực hơn trong việc thu thập, cung cấp những
thông tin cần thiết để hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của khách hàng, mỗi nhân viên
tín dụng nên cố gắng trở thành người tư vấn tốt nhất cho doanh nghiệp trong các vấn đề
về tài chính và thị trường. Mặt khác, họ cũng trở thành người nắm vững tình hình tài
chính của doanh nghiệp hơn ai hết để kịp thời báo cáo, đề xuất biện pháp với cấp trên
về những diễn biến xấu trong kinh doanh cũng như tài chính của khách hàng mới nhất,
nhanh nhất. Muốn làm được điều này, Ngân hàng phải tập huấn định kỳ và kiểm tra
thường xuyên khả năng thẩm định, khả năng quản lý khách hàng để nâng cao trình độ
cán bộ tín dụng hơn nữa theo hướng cho vay trên cơ sở hiểu biết khách hàng, không
đơn thuần chỉ cho vay trên tài sản thế chấp.
Nghiên cứu thị trường để phát hiện cơ hội nghề nghiệp, cho vay đa dạng hơn
nhằm thoả mãn nhu cầu đa dạng của khách hàng. Ngân hàng nên nhắm đến thành phần
khách hàng là người dân có thu nhập ổn định, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong đó
chú trọng doanh nghiệp sản xuất.
Tăng cường công tác thẩm định, kiểm tra nhằm hạn chế rủi ro tín dụng.
Đây là nội dung giữ vị trí quan trọng quyết định đến chất lượng tín dụng và
phòng ngừa rủi ro. Đối với công tác cho vay của Ngân hàng, trong tất cả các bước thì
thẩm định là bước quan trọng nhất để tiến hành phát vay, nếu công tác thẩm định không
chính xác, đầy đủ thì rủi ro của Ngân hàng không thể tránh khỏi. Khi rủi ro tín dụng nảy
sinh sẽ làm đồng vốn kinh doanh mà Ngân hàng bỏ ra sẽ không đem lại hiệu quả, làm
ảnh hưởng hoạt động của Ngân hàng, chính điều đó mà trước khi cho vay cán bộ tín
dụng phải nắm bắt được các thông tin, đánh giá khả năng tài chính của khách.
Công tác thẩm định sẽ khó khăn hơn đối với đối tượng vay là doanh nghiệp tư
nhân, doanh nghiệp nhỏ bởi vì đa số họ không có học qua trường lớp nhiều mà chủ yếu
kinh doanh dựa vào kinh nghiệm, uy tín, sự tin tưởng lẫn nhau giữa các bạn hàng; điều
này dẫn đến trình độ điều hành doanh nghiệp, quản lý tài chính…chưa phù hợp với thời
kinh tế thị trường, tuy nhiên nếu ngân hàng thẩm định kỹ và hiểu biết được tâm lý
khách hàng thì sẽ có thể dễ dàng phân loại được khách hàng.
Để hạn chế rủi ro tín dụng cần thiết phải thực hiện một số công việc sau:
Kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ vay vốn, hợp đồng thế chấp, giấy uỷ quyền,
…phải có chữ ký thể hiện sự đồng tình và cùng chịu trách nhiệm về món tiền vay của
người đứng ra vay vốn.
Nội dung kinh tế của việc vay vốn, tính khả thi của phương án kinh doanh,
khả năng trả nợ cho Ngân hàng.
Tính hợp pháp của tài sản thế chấp, các quyền của người vay đối với tài sản
thế chấp. Đặc biệt là phải chú ý đến tinh thần trách nhiệm của các thành viên có liên
quan đối với món vay. Bởi vì, yếu tố tài sản thế chấp chỉ là biện pháp cuối cùng để xử
lý các khoản nợ vay khó đòi, còn nguồn trả nợ vay chính là tiền có được từ hiệu quả