Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn tại tòa án nhân dân thành phố sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.27 MB, 94 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐÀO VIỆT LONG

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
VỀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HƠN
TẠI TỊA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐÀO VIỆT LONG

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
VỀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HƠN
TẠI TỊA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 8380103


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Văn Cừ

HÀ NỘI - NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu riêng tôi. Các số liệu,
kết quả trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong các cơng
trình khác. Nếu khơng đúng như nêu trên, tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm
về đề tài của mình.
Người Cam Đoan

Đào Việt Long


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
BLDS:
HN&GĐ:
UBND:
VKSND:
XHCN:
VKSNDTC:
TANDTC:
TAND:
THADS:

Bộ luật dân sự
Hơn nhân và Gia đình
Ủy ban nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân

Xã hội chủ nghĩa
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Tòa án nhân dân tối cao
Tòa án nhân dân
Thi hành án dân sự


MỤC LỤC
TRANG BÌA PHỤ
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .......................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 4
4. Đối tượng, phương pháp và phạm vi nghiên cứu đề tài................................ 5
5. Những kết quả nghiên cứu mới của đề tài .................................................... 6
6. Bố cục của luận văn ...................................................................................... 6
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP VÀ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP TÀI SẢN LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA
VỢ CHỒNG KHI LY HÔN ........................................................................... 7
1.1 Khái quát chung về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng
khi ly hôn ........................................................................................................... 7
1.1.2. Quyền sử dụng đất là tài sản riêng của vợ, chồng ............................... 18
1.1.3 Quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng ................................ 25
1.2. Nguyên tắc chung giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng
khi ly hôn ......................................................................................................... 29
1.2.1. Theo Văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng ................... 30
1.2.2. Quyền sử dụng đất trong chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định . 30

1.3. Ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng
khi ly hôn ......................................................................................................... 34
Kết luận Chương 1 .......................................................................................... 36
Chương 2. THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN SỬ
DỤNG ĐẤT CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HƠN TẠI TỊA ÁN NHÂN
DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA ....................................................................... 37


2.1. Tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội ở thành phố Sơn La có ảnh
hưởng đến việc vợ chồng ly hôn và giải quyết tranh chấp của Tịa án ........... 37
2.2. Những thuận lợi, khó khăn, vướng mắc trong giải quyết tranh chấp về
quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hơn tại Tịa án nhân dân thành phố
Sơn La ............................................................................................................. 39
2.2.1. Thuận lợi ............................................................................................... 39
2.2.2. Kết quả đạt được ................................................................................... 39
2.2.3. Những khó khăn, vướng mắc và các nguyên nhân khi giải quyết các
tranh chấp về quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hơn tại Tịa án nhân dân
thành phố Sơn La ............................................................................................ 40
2.2.4.Thủ tục và đường lối giải quyết các tranh chấp về tài sản là quyền sử
dụng đất được của vợ chồng khi ly hôn .......................................................... 44
2.2.5. Một số trường hợp cụ thể ...................................................................... 48
Kết luận chương 2 ........................................................................................... 58
Chương 3. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN ............................................................... 59
3.1. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp quyền sử
dụng đất của vợ chồng khi ly hôn ................................................................... 59
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật giải quyết tranh chấp
quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn.................................................... 63
3.2.1. Về mặt pháp luật ................................................................................... 63

Kết luận Chương 3 .......................................................................................... 73
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ly hơn là mặt trái, bất bình thường của quan hệ hơn nhân nhưng không
thể thiếu được khi hôn nhân đã tan vỡ. Bởi lẽ, ly hôn cũng là một hiện tượng
xã hội, phản ánh hiện thực xã hội. Quyền tự do hôn nhân, trong đó có quyền
tự do ly hơn là quyền nhân thân của vợ chồng, quyền con người mà pháp luật
các nước văn minh, tiến bộ ghi nhận. Trong xã hội hiện đại ngày nay, hiện
tượng ly hôn đang tăng nhanh ở các quốc gia. Theo số liệu thống kê những
năm gần đây cho thấy, tỷ lệ ly hôn hàng năm ở nhiều quốc gia luôn chiếm
25% so với kết hôn, nghĩa là cứ trong 4 cặp đôi đăng ký kết hơn thì có 1 cặp
vợ chồng ly hơn. Trước đây, nhiều người vẫn quan niệm, ly hôn thường xảy
ra ở các cặp vợ chồng trẻ nhưng cuộc sống xã hội ngày nay xuất hiện cả
những trường hợp vợ chồng chung sống với nhau đã nhiều năm. Nhiều đôi vợ
chồng già sống qua thời bao cấp thương yêu, đùm bọc, hịa thuận và đã lên
ơng lên bà, con cái đã khơn lớn trưởng thành nhưng vì nhiều lý do lại khó hịa
hợp vẫn dẫn đến ly hơn. Khi vợ chồng mâu thuẫn, ly hơn tình cảm thương u
gắn bó giữa vợ chồng khơng cịn thì thường vợ chồng có tranh chấp gay gắt
về tiền bạc, tài sản, trong đó có tranh chấp về quyền sử dụng đất của vợ chồng
khi ly hôn. Tranh chấp đất đai tiếp tục là vấn đề phức tạp và ngày càng phổ
biến ở Việt Nam. Vì thế mà các quan hệ về đất đai cần có những chế định
pháp luật điều chỉnh nhằm ổn định trật tự chung trong xã hội. Đặc biệt cần
xem xét việc giải quyết tranh chấp đất đai là một nội dung quan trọng trong
hoạt động quản lý nhà nước đối với đất đai và là những biện pháp để pháp

Luật Đất đai phát huy được vai trò trong đời sống xã hội. Tranh chấp đất đai
trong quan hệ HN&GĐ là một loại tranh chấp phổ biến trong đời sống xã hội,
đặc biệt là tranh chấp quyền sử dụng đất của vợchồng khi ly hôn. Tuy nhiên,
việc giải quyết tranh chấp đất đai trong lĩnh vực này hiện nay đang khó khăn
và cũng là khâu yếu trong công tác giải quyết các tranhchấp về đất đai. Do đó,
việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về việc phânchia đất đai trong vấn
đề ly hơn; trên cơ sở đó đề ra đường lối giải quyết các tranh
chấp này một cách tương đối cụ thể để lành mạnh hoá quan hệ đất đai; mang


2

lại niềm tin cho xã hội là việc làm rất cần thiết. Thực tiễn xét xử ở các cấp
Tòa án nói chung, trong đó có Tịa án nhân dân thành phố Sơn Lacho thấy:
Giải quyết tranh chấp về tài sản của vợ chồng, trong đó có tranh chấp về
quyền sử dụng đất cịn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, bất cập; nhiều vụ án
đã kéo dài theo nhiều năm tháng, qua nhiều cấp Tòa án xét xử nhưng các
đương sự vẫn tiếp tục khiếu nại, tiếp tục tranh chấp đã ảnh hưởng đến quyền
lợi của các bên vợ, chồng và những cá nhân, tổ chức có liên quan. Nguyên
nhân của những hạn chế, vướng mắc trong quá trình giải quyết tranh chấp
quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hơn có nhiều; trong đó có ngun
nhân từ quy định của hệ thống pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng chưa
cụ thể, chặt chẽ; chưa minh bạch, rõ ràng, còn thiếu các văn bản quy định chi
tiết thi hành hoặc hướng dẫn áp dụng từ phía các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền. Từ đó dẫn đến có những cách hiểu và áp dụng pháp luật giải quyết
tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn thiếu nhất quán. Nhiều
quy định của hệ thống pháp luật Bộ luật dân sự (BLDS), Luật Đất đai, Luật
Hơn nhân và Gia đình... điều chỉnh về vấn đề này chưa thống nhất; nhận thức
của người dân, của các cặp vợ chồng chưa tốt đã là những nguyên nhân, lý do
cho việc áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ

chồng khi ly hôn của Tịa án cịn nhiều lúng túng, khó khăn. Vì vậy, việc tác
giả nghiên cứu về “Áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp về quyền sử
dụng đất của vợ chồng khi ly hơn tại Tịa án nhân dân thành phố Sơn La”
với mong muốn và mục đích góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật
nhằm giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng ly hôn là rất
cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn là một
trong những vấn đề khá phổ biến trong xã hội, luôn là chủ đề được xã hội
quan tâm. Đặc biệt những năm gần đây, có nhiều tác giả nghiên cứu viết về đề
tài này:
Nhóm các luận văn, luận án: Các cơng trình nghiên cứu tiêu biểu
trong nhóm này có: Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật HN&GĐ Việt Nam


3

(Nguyễn Văn Cừ, luận án tiến sĩ, 2005); Xác định chế độ tài sản của vợ
chồng- một số vấn đề lý luận và thực tiễn (Nguyễn Hồng Hải, Luận văn thạc
sĩ, 2002); … Các cơngtrình này hoặc có phạm vi nghiên cứu rộng, đề cập đến
nhiều khía cạnh khác nhau trong vấn đề tài sản vợ chồng, hoặc chỉ giải quyết
một khía cạnh nhỏ trong chế định chia tài sản chung của vợ chồng.Nguyễn
Thị Ngọc Lan (2008): “Giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn
theo Luật HN&GĐ năm 2000”, luận văn thạc sỹ luật học - KhoaLuật – Đại
học quốc gia Hà Nội; TS. Doãn Hồng Nhung (2009), “Pháp Luật Đất đai và
vấn đề bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ”, tạp chí Nghiên cứu lập pháp
số 23, (169) tháng 12/2009, tr. 48-50; Tác giả Hạnh Nguyên (2013), Bài viết
“Quyền về đất đai của phụ nữ sau ly hôn: vẫn thiệt đơn, thiệt kép”, Phụ nữ
Việt Nam, 44 (3779), tr.14; Tác giả Hoàng Thị Thái Hoa (2005), “Vấn đề ly
hơn – nhìn từ sự tác động của yếu tố văn hóa truyền thống”, thơng tin khoa

học, phân viện nghiên cứu văn hóa thơng tin tại Huế, số tháng 9/2005, trang
59-71; Luận văn thạc sĩ luật học của Lê Thị Tuyết Trinh (Đại học Quốc gia
Hà Nội) đề cập đến vấn đề: “Pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử
dụng đất khi vợ chồng ly hơn tại Việt Nam”...
Mặc dù đã có những cơng trình nghiên cứu vấn đề giải quyết tranh
chấp về tài sản hoặc quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hơn, tuy nhiên,
các cơng trình nghiên cứu khoa học kể trên với những nội dung riêng, hoặc
nghiên cứu theo những quy định chung liên quan đến giải quyết tranh chấp
quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn với phạm vi rộng. Đề tài mà học
viên lựa chọn nghiên cứu cụ thể giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của
vợ chồng khi ly hơn tại Tịa án nhân dân (TAND) thành phố Sơn La – một địa
phương có những nét đặc thù, vẫn giữ được tính mới, tính sáng tạo và giá trị
khoa học của đề tài nghiên cứu.
Nhóm các bài viết trên các báo, tạp chí: Có thể kể đến một số bài như
Bàn thêm về chia tàisản chung của vợ chồngtrongthời kỳ hôn nhântheo
phápluật hôn nhân gia đình hiện hành (Nguyễn Hồng Hải, 2003, tạp chí luật
học, số 5); Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chungtrongthời kỳ hôn nhân
(Nguyễn Phương Lan 2002, Tạp chí Luật học, số 6).. Các bài viết này thường


4

phân tích rất sâu một vấn đề trong chế định chia tài sản chung vợ chồng,
nhưng do tính chất của một bài viết nghiên cứu, các tác giả chỉ đề cập đến
một khía cạnh hoặc một trường hợp cụ thể liên quan đến việc chia tài sản
chung của vợ chồng mà khơng thể phân tích tồn diện các khía cạnh của chế
định này.
Nhóm sách giáo trình, sách chun khảo: Trong nhóm này có thể kể
đến một số cơng trình tiêu biểu như Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
Luật HN&GĐ năm 2000 (Nguyễn Văn Cừ-Ngô Thị Hường, 2002, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội); Bình luận khoa học Luật HN&GĐ Việt Nam (Nguyễn
Ngọc Điện, 2002, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh... Trong các cuốn sách
trên, chế định chia tài sản chung của vợ chồng thường chỉ được phân tích một
cách chung chung, có tính chất tổng qt, chứ khơng phân tích một cách
chun sâu và cụ thể.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của Luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và nội
dung pháp luật thực định về việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của
vợ chồng khi ly hôn; thực tiễn thực thi pháp luật tranh chấp quyền sử dụng đất
của vợ chồng khi ly hôn ở TAND thành phố Sơn La. Trên cơ sở đó, kiến nghị
và đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về tranh chấp
quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hơn nói chung và trong thời gian tới
trên địa bàn tỉnh Sơn La nói riêng. Với mục đích như trên, các nhiệm vụ mà
Luận văn phải giải quyết là:
Thứ nhất, nghiên cứu (khái quát chung) về cơ sở lý luận tranh chấp
quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn.
Thứ hai, nghiên cứu thực tiễn về việc giải quyết tranh chấp quyền sử
dụng đất của vợ chồng khi ly hôn tại TAND thành phố Sơn La.
Thứ ba, phân tích, đánh giá quy định của pháp luật hiện hành về giải
quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn hiện nay ở nước
ta nói chung và ở TAND thành phố Sơn La.
Thứ tư, nghiên cứu, chỉ rõ những bất cập, hạn chế khi áp dụng quy định
pháp luật thực định về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng
khi ly hơn ở TAND nói chung và ở TAND thành phố Sơn La.


5

Thứ năm, đề xuất một số kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện thực
thi pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly

hơn ở TAND thành phố Sơn La nói riêng và cả nước nói chung.
4. Đối tượng, phương pháp và phạm vi nghiên cứu đề tài
Luận văn có đối tượng nghiên cứu là: Một số văn bản pháp luật thực
định của Việt Nam về tài sản là quyền sử dụng đất và tranh chấp quyền sử
dụng đất của vợ chồng khi ly hôn; thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyếttranh
chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn tại TAND thành phố Sơn La.
Luận văn áp dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp phân tích và tổng hợp: phân chia đối tượng nghiên cứu
thành những mặt, những yếu tố cấu thành giản đơn hơn để nghiên cứu phát
hiện ra những thuộc tính và bản chất của từng yếu tố đó để hiểu rõ hơn về
từng khía cạnh của vấn đề. Tổng hợp những kết quả nghiên cứu từng mặt,
từng khía cạnh để có nhận thức đầy đủ, đúng đắn cái chung. Hai phương pháp
này được sử dụng song song để bổ sung, hỗ trợ cho nhau trong nghiên cứu.
Từđó đưa ra những nhận định đúng đắn giúp cho quá trình nghiên cứu đề tài
đạt được kết quả tốt.
Phương pháp quy nạp và diễn dịch: hai phương pháp nghiên cứu này
tuy trái ngược nhau nhưng lại là phần không thể thiếu của nhau. Chúng hỗ trợ
nhau và hỗ trợ cho công tác nghiên cứu. Phương pháp quy nạp và diễn dịch
được sử dụng chủ yếu trong chương I của luận văn để lý giải những nguyên
tắc, nguyên lý, giả thuyết, kết luận, định nghĩa, khái niệm …
Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là phương pháp
chung nhất trong quá trình nghiên cứu. Luận văn vận dụng phương pháp này
trong việc xem xét đánh giá thực trạng công tác giải quyết tranh chấp quyền
sử dụng đất của vợ chồng ly hôn tại Việt Nam trong những điều kiện cụ thể
và các mối quan hệ khác. Ngồi ra, luận văn cịn vận dụng một số phương
pháp nghiên cứu khác như: Phương pháp thu thập số liệu, xử lý thơng tin,
thống kê, phân tích, so sánh… nhằm đưa ra được những thơng tin, số liệu
chính xác, những biện pháp tối ưu phục vụ cho công tác nghiên cứu bám sát
với nội dung đề tài và thực tiễn đời sống.



6

Phương pháp nghiên cứu, thu thập thông tin: Phương pháp nghiên cứu
này chủ yếu là tìm kiếm, thu thập thơng tin qua các tài liệu được lưu trữ trong
thư viện trường đại học Luật Hà Nội và một số cơ sở dữ liệu khác.
Phạm vi nghiên cứu đề tài: Nghiên cứu một số vấn đề lý luận; quy định
pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp quyền sử dụng
đất của vợ chồng khi ly hôn nói chung và tại TAND thành phố Sơn La nói riêng.
Phạm vi đề tài không nghiên cứu giải quyết tranh chấp quyền sử dụng
đất của vợ chồng khi ly hôn có yếu tố nước ngồi.
5. Những kết quả nghiên cứu mới của đề tài
- Luận văn nghiên cứu làm rõ hơn cơ sở lý luận về quyền sử dụng đất là
tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng;
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp quyền
sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn tại TAND thành phố Sơn La;
- Nghiên cứu phát hiện những vướng mắc, bất cập, hạn chế trong thực
tiễn áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng
khi ly hôn tại TAND thành phố Sơn La;
- Từ đó chỉ rõ những nguyên nhân (chủ quan và khách quan) dẫn đến
những tranh chấp kéo dài, những hạn chế, vướng mắc khi áp dụng pháp luật;
theo đó, đề xuất một số kiến nghị hồn thiện quy định của pháp luật và giải
pháp cho giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn đạt
hiệu quả cao trong thực tiễn, đáp ứng với yêu cầu của công cuộc cải cách tư
pháp hiện nay ở nước ta, cũng như đáp ứng nhu cầu cuộc sống ngày càng phát
triển của người dân hiện nay
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các chữ viết tắt, danh mục tài
liệu tham khảo, nội dung của Luận văn gồm ba chương:
Chương 1. Lý luận cơ bản giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của

vợ chồng khi ly hôn.
Chương 2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ
chồng khi ly hơn tại Tịa án nhân dân thành phố Sơn La.
Chương 3. Một số kiến nghị hoàn thiện và giải pháp nâng cao hiệu
quảgiải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn


7

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP VÀ
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TÀI SẢN LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN
1.1 Khái quát chung về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ
chồng khi ly hôn
1.1.1 Khái niệm tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng khi vợ chồng
ly hôn
1.1.1.1. Khái niệm ly hôn
Quan hệ hôn nhân với đặc điểm tồn tại lâu dài, bền vững cho đến suốt
cuộc đời con người vì nó được xác lập trên cơ sở tình u thương, gắn bó
giữa vợ chồng. Tuy nhiên, trong cuộc sống vợ chồng, vì những lý do nào đó
dẫn tới giữa vợ chồng có mâu thuẫn sâu sắc đến mức họ khơng thể chung
sống với nhau nữa, vấn đề ly hôn được đặt ra để giải phóng cho vợ chồng và
các thành viên khác thốt khỏi mâu thuẫn gia đình. Ly hơn là mặt trái của hôn
nhân nhưng là mặt không thể thiếu được khi quan hệ hôn nhân tồn tại chỉ là
hình thức, tình cảm vợ chồng đã thực sự tan vỡ. Ly hôn là việc chấm dứt quan
hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực của Tịa án (khoản 14 Điều 3
Luật HN&GĐ năm 2014).
Vấn đề ly hôn được quy định trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc
gia là khác nhau. Pháp luật của một số nước cấm vợ chồng ly hôn (theo Đạo

thiên chúa), bởi vì theo họ quan hệ vợ chồng bị ràng buộc thiêng liêng theo ý
Chúa. Khi kết hôn trở thành vợ chồng thì vợ chồng phải chung sống với nhau
suốt đời, khơng thể bỏ nhau được. Một số nước thì hạn chế ly hôn bằng cách
đưa ra những điều kiện hết sức nghiêm ngặt hoặc quy định giải quyết ly hon
dựa trên cơ sở lỗi của vợ, chồng mà không phản ánh được bản chất của hôn
nhân đã tan vỡ. Cấm ly hôn hay hạn chế ly hôn đều trái với quyền tự do dân
chủ của cá nhân, của vợ chồng.
Pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa công nhận quyền tự do ly hơn
chính đáng của vợ chồng, khơng cấm hoặc đặt ra những những điều kiện
nhằm hạn chế quyền tự do ly hôn. Ly hôn dựa trên sự tự nguyện của vợ


8

chồng, nó là kết quả của hành vi có ý chí của vợ chồng khi thực hiện quyền ly
hơn của mình. Nhà nước bằng pháp luật khơng thể cưỡng ép nam, nữ phải u
nhau và kết hơn với nhau, thì cũng không thể bắt buộc vợ chồng phải chung
sống với nhau, phải duy trì quan hệ hơn nhân khi tình cảm yêu thương gắn bó
giữa họ đã hết và mục đích của hơn nhân đã khơng thể đạt được. Việc giải
quyết ly hôn là tất yếu đối với quan hệ hơn nhân đã thực sự tan vỡ. Điều đó là
hồn tồn có lợi cho vợ chồng, con cái và các thành viên trong gia đình. Theo
Lê-nin: “Thực ra tự do ly hơn tuyệt khơng có nghĩa là làm “tan rã” những
mối liên hệ gia đình mà ngược lại, nó củng cố những mối liên hệ đó trên
những cơ sở dân chủ, những cơ sở duy nhất có thể có và vững chắc trong một
xã hội văn minh”. Nhưng bên cạnh đó, ly hơn cũng có mặt hạn chế đó là sự ly
tán gia đình, vợ chồng, con cái. Vì vậy, khi giải quyết ly hơn, Tồ án phải tìm
hiểu kỹ nguyên nhân và bản chất của quan hệ vợ chồng và thực trạng hôn
nhân với nhiều yếu tố khác để đảm bảo quyền lợi cho các thành viên trong gia
đình, lợi ích của nhà nước và của xã hội.
Như vậy, ly hơn chính là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án,

quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, hơn nhân (trong đó có ly
hơn) là hiện tượng xã hội mang tính giai cấp sâu sắc. Trong từng giai đoạn
phát triển của lịch sử, ở mỗi chế độ xã hội khác nhau, giai cấp thống trị đều
thông qua Nhà nước, bằng pháp luật (hay tục lệ) quy định chế độ hơn nhân
phù hợp với ý chí của Nhà nước. Tức là Nhà nước bằng pháp luật quy định
những điều kiện nào xác lập quan hệ vợ chồng, đồng thời xác lập trong những
điều kiện căn cứ nhất định mới được phép xóa bỏ (chấm dứt) quan hệ hơn
nhân. Đó chính là căn cứ ly hơn được quy định trong pháp luật của Nhà nước.
Như vậy, căn cứ ly hơn là những tình tiết (điều kiện) được quy định trong
pháp luật và chỉ khi có những tình tiết (điều kiện) đó, Tịa án mới được xử
cho ly hơn.
Hệ thống pháp luật HN&GĐ của nhà nước ta từ năm 1945 đến nay đã
quy định căn cứ ly hôn ngày càng hồn thiện, phù hợp, là cơ sở pháp lí để tịa
án giải quyết các án kiện ly hơn.


9

Căn cứ ly hơn được hiểu là những tình tiết hay điều kiện để Tịa án dựa
vào đó giải quyết (xét xử hoặc công nhận) cho vợ chồng ly hôn. Căn cứ ly
hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014 của Nhà nước ta được quy định dựa trên
quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, có cơ sở khoa học và thực tiễn kiểm
nghiệm trong mấy chục năm qua, từ khi Nhà nước ta ban hành Luật HN&GĐ
năm 1959. Khi giải quyết ly hơn, cần hiểu điều đó nói lên một thực trạng hôn
nhân đã tan vỡ, quan hệ vợ chồng khơng thể tồn tại được nữa, vì “sự tồn tại
của nó chỉ là bề ngồi và giả dối” và ly hơn là một giải pháp tích cực để giải
phóng cho vợ chồng cũng như các thành viên khác trong gia đình khỏi cảnh
“bất bình thường” đó, đảm bảo lợi ích của vợ chồng, của gia đình và xã hội.
Ly hơn về thực chất là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết

định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định
thủ tục và căn cứ để Tòa án thụ lý giải quyết yêu cầu ly hôn của vợ chồng tại
Điều 55 và Điều 56. Theo nguyên tắc chung, dù hai vợ chồng thuận tình ly
hơn hoặc một bên vợ, chồng u cầu ly hôn; dù cho vợ, chồng yêu cầu ly hơn
với bất kỳ lý do nào,nếu Tịa án hịa giải khơng thành thì chỉ được xét xử cho
vợ chồng ly hơn khi xét thấy tình trạng vợ chồng trầm trọng, đời sống chung
khơng thể kéo dài, mục đích của hơn nhân không đạt được. Nội dung căn cứ
ly hôn phản ánh tình trạng, bản chất của hơn nhân đã tan vỡ.
1.1.1.2. Khái niệm tranh chấp về tài sản là quyền sử dụng đất của vợ chồng
khi ly hôn
Theo Từ điển tiếng Việt thì tranh chấp được hiểu là sự tranh giành nhau
một cách giằng co cái không rõ thuộc về bên nào. Tranh chấp về tài sản vợ
chồng thường xảy ra chủ yếu và gần như đồng thời cùng với việc ly hôn, điều
này là hợp lý bởi lẽ khi ly hơn thì vợ chồng đã có sự sứt mẻ về tình cảm, sự
u thương, gắn bó “u nhau củ ấu cũng trịn” trong thời kỳ hơn nhân khơng
cịn nên cùng với việc ly hơn họ sẽ có sự tranh giành, hơn thua nhau trong vấn
đề phân chia tài sản. Việc tranh chấp về chia tài sản chung có thể diễn ra cùng
với việc vợ, chồng xin ly hôn hoặc có thể diễn ra sau khi vợ chồng đã ly hôn
do thời điểm ly hôn vợ, chồng không yêu cầu giải quyết về tài sản chung mà
để họ tự thỏa thuận nhưng sau đó họ khơng tự thỏa thuận được. Việc vợ


10

chồng tranh chấp về tài sản đồng thời với việc ly hôn hoặc sau khi ly hôn đều
được coi là tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.
Tranh chấp về tài sản là quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn là
một dạng cụ thể của tranh chấp đất đai. Vì vậy trước khi đi tìm hiểu tranh
chấp quyền sử dụng đất theo pháp luật thì chúng ta phải hiểu tranh chấp đất
đai là gì? Khoản 24, Điều 3, Luật Đất đai năm 2013 lại tiếp tục giữ nguyên

cách quy định như Luật Đất đai năm 2003, chỉ có sự thay đổi về cách sử dụng
thuậtngữ: “Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử
dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai”.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam chỉ có thể hiểu “tranh chấp đất
đai là tranh chấp về quyền sử dụng đất”. Bởi vì theo Th.s Lưu Quốc Thái- Đại
học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh thì: thứ nhất, theo khoản 1, Điều 5
Luật Đất đai năm 2003 quy định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà
nước đại diện chủ sở hữu”; thứ hai, Điều 202 Luật Đất đai 2013 có quy định:
“1. Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải
hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thơng qua hịa giải ở cơ sở.
2. Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp khơng hịa giải được thì
gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để hịa giải.
3. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa
giải tranh chấp đất đai tại địa phương mình; trong quá trình tổ chức thực
hiện phải phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã và các tổ
chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác. Thủ tục hòa giải tranh
chấp đất đai tại Ủy ban nhân cấp xã được thực hiện trong thời hạn không quá
45 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai.
4. Việc hòa giải phải được lập thành biên bản có chữ ký của các bên và
có xác nhận hịa giải thành hoặc hịa giải khơng thành của Ủy ban nhân dân
cấp xã. Biên bản hòa giải được gửi đến các bên tranh chấp, lưu tại Ủy ban
nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp.
5. Đối với trường hợp hịa giải thành mà có thay đổi hiện trạng về ranh
giới, người sử dụng đất thì Ủy ban nhân dân cấp xã gửi biên bản hòa giải đến
Phòng Tài nguyên và Môi trường đối với trường hợp tranh chấp đất đai giữa


11

hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau; gửi đến Sở Tài nguyên và

Môi trường đối với các trường hợp khác.
Phịng Tài ngun và Mơi trường, Sở Tài ngun và Mơi trường trình
Ủy ban nhân dân cùng cấp quyết định công nhận việc thay đổi ranh giới thửa
đất và cấp mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất”
Thứ ba, Điều 160 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về
thi hành Luật Đất đai năm 2003 quy định:
“Tranh chấp đất đai trong Trường hợp các bên tranh chấp khơng có
GCN QSD đất hoặc khơng có một trong các loại giấy tờ quy định tại các
khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai thì các bên tranh chấp gửi đơn đến
cơ quan hành chính để được giải quyết. Cơ quan hành chính các cấp giải
quyết tranh chấp đất đai theo quy định sau:
1. Chủ tịch UBND huyện, quận, thị xã, TP. thuộc tỉnh giải quyết đối với
tranh chấp đất đai giữa HGĐ, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau.
Trường hợp không đồng ý với QĐ giải quyết của Chủ tịch UBND
huyện, quận, thị xã, TP. thuộc tỉnh thì các bên tranh chấp có quyền gửi đơn
xin giải quyết tranh chấp đất đai đến Chủ tịch UBND tỉnh, TP. trực thuộc
TW.; QĐ giải quyết tranh chấp đất đai của Chủ tịch UBND tỉnh, TP. trực
thuộc TW. là QĐ giải quyết cuối cùng.
2. Chủ tịch UBND tỉnh, TP. trực thuộc TW. giải quyết đối với tranh
chấp đất đai giữa tổ chức, cơ sở tôn giáo, người VN định cư ở nước ngoài, tổ
chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài với nhau hoặc giữa tổ chức, cơ sở tơn
giáo, người VN định cư ở nước ngồi, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước
ngoài với HGĐ, cá nhân, cộng đồng dân cư.
Trường hợp không đồng ý với QĐ giải quyết của Chủ tịch UBND tỉnh,
TP. trực thuộc TW. thì các bên tranh chấp có quyền gửi đơn xin giải quyết
tranh chấp đất đai đến Bộ Tài nguyên và Môi trường; QĐ giải quyết tranh
chấp đất đai của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường là QĐ giải quyết
cuối cùng”



12

Thứ tư, cho đến nay các thuật ngữ tranh chấp đất đai và tranh chấp
quyền sử dụng đất đã được sử dụng như những thuật ngữ thay thế cho nhau
kể từ Luật Đất đai năm 1986 đến nay là không hề có sự phân biệt.
Qua đó, ta thấy khái niệm “tranh chấp đất đai” là tranh chấp một tổng
thể những yếu tố hợp nhất chứ không phải là việc tranh chấp từng quyền và
nghĩa vụ đơn lẻ hay tranh chấp về quyền và nghĩa vụ khác của người sử dụng
đất có liên quan đến các quyền và nghĩa vụ nêu trên. Có nghĩa là, khơng thể
“trộn lẫn” tranh chấp đất đai với tranh chấp dân sự thuần túy có liên quan đến
đất đai. Tranh chấp đất đai là biểu hiện sự mâu thuẫn, bất đồng trong việc xác
định quyền quản lý, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng đối với đất đai, phát
sinh trực tiếp hoặc gián tiếp trong quản lý và sử dụng đất đai.
Như vậy, từ những điều trên thì tranh chấp đất đai là tranh chấp phát
sinh giữa các chủ thể tham gia quan hệ đất đai về quyền và nghĩa vụ trong quá
trình quản lý và sử dụng đất. và giải quyết tranh chấp đất đai là việc vận dụng
các quy định của pháp luật để bảo vệ tốt nhất các quyền và lợi ích hợp pháp
của Nhà nước, của nhân dân.
Qua những phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm về tranh chấp
quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn như sau: “tranh chấp quyền sử
dụng đất khi vợ chồng ly hôn là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa vợ,
chồng và những người có quyền và liên quan về đất đai khi quan hệ hôn nhân
của họ chấm dứt và tranh chấp về quyền sử dụng đất đó được Tịa án công
nhận hoặc quyết định”.
Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai thì tại Điều 203 Luật Đất
đai năm 2013 như sau:
“Tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã mà
khơng thành thì được giải quyết như sau:
1. Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một

trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này và tranh chấp về tài
sản gắn liền với đất thì do Tịa án nhân dân giải quyết;
2. Tranh chấp đất đai mà đương sự khơng có Giấy chứng nhận hoặc
khơng có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này thì


13

đương sự chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất
đai theo quy định sau đây:
a) Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có
thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều này;
b) Khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật về tố tụng dân sự;
3. Trường hợp đương sự lựa chọn giải quyết tranh chấp tại Ủy ban
nhân dân cấp có thẩm quyền thì việc giải quyết tranh chấp đất đai được thực
hiện như sau:
a) Trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư
với nhau thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết; nếu khơng đồng
ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật
về tố tụng hành chính;
b) Trường hợp tranh chấp mà một bên tranh chấp là tổ chức, cơ sở tôn
giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngồi, doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngồi thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết; nếu khơng đồng
ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài
nguyên và Mơi trường hoặc khởi kiện tại Tịa án nhân dân theo quy định của
pháp luật về tố tụng hành chính;
4. Người có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai tại khoản 3 Điều
này phải ra quyết định giải quyết tranh chấp. Quyết định giải quyết tranh

chấp có hiệu lực thi hành phải được các bên tranh chấp nghiêm chỉnh chấp
hành. Trường hợp các bên không chấp hành sẽ bị cưỡng chế thi hành.”
1.1.1.3. Các dạng tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn
Chế độ tài sản của vợ chồng là một trong những chế định quan trọng
của pháp luật HN&GĐ. Chế độ tài sản của vợ chồng được quy định phụ thuộc
chặt chẽ vào chế độ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Xuất phát từ chế độ xã
hội chủ nghĩa, pháp luật HN&GĐ Việt Nam có nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ
gia đình no ấm, bình đẳng và hạnh phúc.


14

Để đạt được mục đích trên, vợ chồng phải tạo dựng cơ sở kinh tế của
gia đình đảm bảo thỏa mãn những yêu cầu vật chất, tinh thần, nghĩa vụ chăm
sóc, ni dưỡng các con. Chính vì vậy, nhà nước bằng pháp luật quy định về
chế độ tài sản là cần thiết. như vậy, chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp
các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ
xã hội liên quan đến quan hệ sở hữu tài sản của vợ chồng, cụ thể là các quy
định về tài sản riêng và tài sản chung của vợ chồng.
Pháp luật luôn tôn trọng quyền thỏa thuận của vợ chồng trong việc
phân chia tài sản khi ly hôn. Trong trường hợp vợ chồng khơng thỏa thuận
được với nhau thì sẽ do Tịa án quyết định khi vợ chồng yêu cầu. Tranh
chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn được chia thành các trường
hợp như sau:
Xác định tài sản là quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn
Đất đai là tài nguyên của quốc gia, con người không thể tạo ra mà chỉ
có thể cải tạo nó. Đất đai có ý nghĩa rất lớn cho nhu cầu cuộc sống của mỗi
người dân và của cả cộng đồng. Do đó, quyền sử dụng đất trở thành một loại
tài sản có giá trị lớn mà ai cũng muốn sở hữu. Đối với những cặp vợ chồng ở
nước ta, với ý nghĩ “an cư mới lạc nghiệp”, thì việc để có được mảnh đất xây

dựng nhà ở, làm ăn sinh sống là hết sức cần thiết. Việc phân định đâu là tài
sản chung, đâu là tài sản riêng của vợ chồng tưởng chừng khơng quan trọng,
nhưng trong cuộc sống có thể nảy sinh rất nhiều vấn đề cần đến việc xác định
tài sản chung, riêng của vợ chồng để bảo vệ quyền lợi cho vợ, chồng, con cái
trong gia đình cũng như người thứ ba có liên quan.
Tuy nhiên, hiện nay, việc xác định quyền sử dụng đất là tài sản chung,
tài sản riêng của vợ, chồng cũng gặp khơng ít khó khăn do đây là loại tài sản
đặc thù nên khi xác định là tài sản chung, riêng cũng có điểm riêng biệt, phức
tạp hơn so với các loại tài sản thông thường khác. Quan trọng hơn nữa là quy
định của pháp luật hiện hành về xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ,
chồng còn dễ gây ra các cách hiểu khác nhau và khó áp dụng. Chính vì vậy,
trong phạm vi luận văn, tác giả xin được đưa ra một số vấn đề khi xác định tài
sản chung, tài sản riêng là quyền sử dụng đất của vợ, chồng.


15

Thứ nhất, Căn cứ vào thời kỳ hôn nhân và nguồn gốc hình thành tài
sản thì về nguyên tắc, trong thời kỳ hôn nhân, nếu vợ hoặc chồng tạo ra hay
có được những tài sản và thu nhập hợp pháp (trừ nguồn gốc là tài sản riêng)
đều được xác định là tài sản chung của vợ chồng (khoản 1 Điều 33 Luật
HN&GĐ năm 2014). Tài sản chung của vợ chồng còn bao gồm hoa lợi, lợi
tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân; những tài
sản mà vợ chồng được tặng cho chung, được thừa kế chung; tài sản riêng của
vợ, chồng đã tự nguyện nhập vào tài sản chung.
Thứ hai, căn cứ vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Theo khoản1
Điều 34 Luật HN&GĐ thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là tài sản
chung của vợ chồng phải ghi tên cả vợ và chồng, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác. Đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi tên của cả hai vợ
chồng, thì đó là tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên, có trường hợp giấy

chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ ghi tên một bên vợ, chồng trong thời kỳ
hôn nhân cũng được xác định là tài sản chung (nếu người đứng tên không
chứng minh được là tài sản riêng). Có trường hợp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất ghi tên hai vợ chồng, nhưng quyền sử dụng đất không phải là tài sản
thuộc sở hữu chung hợp nhất mà là tài sản thuộc sở hữu chung theo phần,
thuộc sự điều chỉnh của Bộ luật Dân sự.
Thứ ba, Theo nguyên tắc suy đoán để xác định tài sản của vợ chồng.
Căn cứ Điều 61 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “Trong trường hợp
vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hơn, nếu tài sản của vợ chồng trong
khối tài sản chung của gia đình khơng xác định được thì vợ hoặc chồng được
chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình căn cứ vào cơng sức đóng
góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung cũng
như vào đời sống chung của gia đình. Việc chia một phần trong khối tài sản
chung do vợ chồng thỏa thuận với gia đình; nếu khơng thỏa thuận được thì
u cầu Tịa án giải quyết”.
Trong hồn cảnh nước ta hiện nay khi mà việc cấp giấy chứng nhận
quyền sử đụng đất chưa thể thực hiện đồng bộ, triệt để ghi tên cả hai vợ chồng
thì ngun tắc suy đốn vẫn rất hiệu quả, đặc biệt bảo vệ được quyền lợi của


16

người phụ nữ vốn chỉ quan tâm công việc nội trợ. Khi có tranh chấp, mọi
chứng cứ hợp pháp đều được Tòa án chấp thuận kết hợp để xác định tài sản
chung hay tài sản riêng của vợ, chồng.
Bên cạnh mặt tích cực, thực tế cũng cho thấy bất cập của nguyên tắc
này. Trong cuộc sống vợ chồng, ít khi họ lại nghĩ đến việc phải tạo lập, lưu
giữ chứng cứ chứng minh tài sản riêng để phịng khi có tranh chấp xảy ra, nên
để có chứng cứ nhiều khi là rất khó khăn. Vì vậy, theo ngun tắc suy đoán để
xác định tài sản, nếu giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ ghi tên một bên

vợ, chồng, nếu có tranh chấp buộc họ phải chứng minh; trường hợp khơng
chứng minh được là tài sản riêng thì được suy đoán xác định là tài sản chung
của vợ chồng. Bên cạnh đó, đối với chủ nợ của vợ hay chồng họ cần phải xác
định tài sản riêng để kê biên đảm bảo thi hành án nhưng làm thế nào để người
đó có được chứng cứ chứng minh tài sản riêng của vợ, chồng khi mà cả hai vợ
chồng cố ý cho đó là tài sản chung. Vì vậy, trong tương lai, việc quy định ghi
tên cả hai vợ chồng trên giấy chứng nhận quyền sở hữu hay sử dụng tài sản
chung vẫn cần được áp dụng và phải thực hiện triệt để, tạo điều kiện thuận lợi
cho việc giải quyết của Tòa án, bảo đảm quyền lợi của vợ, chồng cũng như
những người khác có liên quan.
Tại Việt Nam trong những năm gần đây có các dạng tranh chấp liên
quan đến đất đai sau:
Nhóm thứ nhất: Tranh chấp xác định chủ thể có quyền sử dụng
đất. Đây là tranh chấp phát sinh trong q trình sử dụng đất khơng liên quan
đến các giao dịch về đất đai và tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất. Về bản
chất khi giaỉ quyết tranh chấp này tòa án phải xác định quyền sử dụng đất
thuộc về ai. Theo điển a, khoản 3 Điều 159 Bộ luật Tố tụng dân sự đã được
sửa đổi và bổ sung năm 2011, có hiệu lực kể từ ngày 1/01/2012 thì dạng tranh
chấp này khơng áp dụng thời hiệu khởi kiện.
Các tranh chấp phổ biến trong trường hợp này là tranh chấp về ranh
giới đất liền kề, ngõ đi, cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất nhưng bị trùng diện tích, người sử dụng đất được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất nhưng chủ cũ đòi lại đất hoặc chủ cũ được cấp giấy chứng


17

nhận quyền sử dụng đất nhưng người sử dụng đất cho rằng việc cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất là khơng đúng.
Nhóm thứ hai: Tranh chấp liên quan đến các giao dịch về quyền sử

dụng đất (chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chuyển đổi quyền sử dụng đất,
cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng
quyền sử dụng đất…). Các tranh chấp này có thể là yêu cầu thực hiện nghĩa
vụ theo hợp đồng, công nhận hiệu lực của hợp đồng, tuyên bố giao dịch dân
sự vô hiệu…Bản chất của tranh chấp trong các trường hợp này là tranh chấp
về hợp đồng dân sự. Thời hiệu khởi kiện đối với dạng tranh chấp này được áp
dụng như đối với thời hiệu khởi kiện đối với các tranh chấp về hợp đồng
nói chung.
Riêng đối với vụ án ly hôn khi các bên đương sự có tranh chấp quyền
sử dụng đất trong việc xác định tài sản chung, tài sản riêng vợ chồng, quan
điểm của chúng tôi cho rằng đây không phải thuộc loại quan hệ tranh chấp đất
đai. Trong quan hệ ly hôn, Tòa án giải quyết quan hệ trọng tâm là quan hệ
mang tính nhân thân, đây là nhóm quan hệ chủ đạo và có ý nghĩa quyết định
tính chất và nội dung của quan hệ tài sản. Cơ sở pháp lý để bảo vệ các quyền
và lợi ích hợp pháp của các chủ thể xuất phát chính từ các quan hệ nhân thân
trước.
Nhóm thứ ba: Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất. Thông thường
đây là các tranh chấp yêu cầu phân chia di sản thừa kế. Bản chất của dạng
tranh chấp này là tranh chấp thừa kế có đối tượng là quyền sử dụng đất và
Tòa án phải xác định ranh giới đất để phân chia. Thời hiệu khởi kiện đối với
dạng tranh chấp này được áp dụng như đối với thời hiệu khởi kiện đối với các
tranh chấp về thừa kế tài sản nói chung.
Nhóm thứ tư: Tranh chấp về tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất.
Tranh chấp về tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất bao gồm: tranh chấp tài
sản về nhà ở, vật kiến trúc khác như nhà bếp, nhà tắm, nhà về sinh, giếng
nước, nhà để ô tô, nhà thờ, tường xây làm hàng rào gắn với nhà ở; các cơng
trình xây dựng trên đất được giao để sử dụng vào mục đích sản xuất kinh
doanh như nhà xưởng, kho tàng, hệ thống tưới, tiêu nước, chuồng trại chăn



18

ni hay vật kiến trúc khác hoặc trên đất có các tài sản khác như cây lấy gỗ,
cây lấy lá, cây ăn quả, cây công nghiệp hay các cây lâu năm khác….gắn liền
với quyền sử dụng đất đó. Tranh chấp trong trường hợp này có thể là tranh
chấp về ai là người có quyền sử dụng đất gắn liền với tài sản, thừa kế hoặc
tranh chấp về ai là người có quyền sử dụng đất gắn liền với tài sản, thừa kế
hoặc tranh chấp về các hợp đồng liên quan đến tài sản gắn liền với đất.
1.1.2. Quyền sử dụng đất là tài sản riêng của vợ, chồng
1.1.2.1. Căn cứ xác lập tài sản riêng của vợ, chồng:
Luật HN&GĐ năm 2014 có hiệu lực thi hành từngày 01/01/2015 và
Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 quy định chi tiết về một số
điều và biện pháp thi hành Luật HNGĐ (có hiệu lực từ ngày 15/2/2015) đã
quy định tương đối cụ thể, rõ ràng về căn cứ xác lập tài sản riêng của vợ,
chồng. Theo Luật HN&GĐ, tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi
bên có từ trước khi kết hôn; tài sản mà vợ, chồng được thừa kế riêng, được
tặng, cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng
theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của luật HN&GĐ; tài sản phục vụ nhu
cầu thiết yếu của vợ, chồng và các tài sản khác mà theo quy định của pháp
luật là tài sản riêng của vợ, chồng.
Theo Điều 43 Luật HN&GĐ năm 2014, quy định:
“1. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi
kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn
nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39
và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài
sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.”
Tài sản riêng khác của vợ, chồng theo quy định của pháp luật gồm:
- Quyền tài sản đối với đối tượng sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp
luật sở hữu trí tuệ.
- Tài sản mà vợ, chồng xác lập quyền sở hữu riêng theo bản án, quyết

định của Tịa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác.


19

- Khoản trợ cấp, ưu đãi mà vợ, chồng được nhận theo quy định của
pháp luật về ưu đãi người có cơng với cách mạng; quyền tài sản khác gắn liền
với nhân thân của vợ, chồng.”
Cũng theo Điều 43 luật HN&GĐ năm 2014:“2. Tài sản được hình
thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa
lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện
theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của Luật này.”
Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản
riêng của vợ, chồng. Trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hơn nhân thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi người
sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ chồng, trừ trường hợp vợ
chồng có thỏa thuận khác .
Một số quy định này đã được hướng dẫn và nêu chi tiết trong Nghị định
số 126/2014/NĐ-CP: Hoa lợi phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng là sản
vật tự nhiên mà vợ, chồng có được từ tài sản riêng của mình. Lợi tức phát
sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng là khoản lợi mà vợ, chồng thu được từ việc
khai thác tài sản riêng của mình
Thế nào là tài sản riêng khác của vợ, chồng cũng được quy định rõ tại
Điều 11 của Nghị định số 126/2014/NĐ-CP,gồm:
- Quyền tài sản đối với đối tượng sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp
luật sở hữu trí tuệ.
- Tài sản mà vợ, chồng xác lập quyền sở hữu riêng theo bản án, quyết
định của Tòa án hay cơ quan có thẩm quyền khác.
- Khoản trợ cấp, ưu đãi mà vợ, chồng được nhận theo quy định của
pháp luật về ưu đãi người có cơng với cách mạng; quyền tài sản khác gắn liền

với nhân thân của vợ, chồng.
1.1.2.2. Nội dung quyền sở hữu đối với tài sản riêng của vợ, chồng
Theo nguyên tắc chung, vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt đối với tài sản riêng của mình.


×