Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Bồi thường thiệt hại trong trường hợp sức khoẻ và tính mạng bị xâm phạm một số vấn đề về lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.04 MB, 83 trang )


B ộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ T ư PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN MINH CHÂU

BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG TRUỠNG HỢP
SÚC KHỎE VÀ TÍNH MẠNG BỊ XÂM PHẠM
MỘT SÔ VẤN ĐỂ LÝ LUẬN VÀ THỤC TIỄN
Chuyên ngành : Luật dân sự
M ã số

: 60.38.30

LUẬN VĂN THẠC s ĩ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Đăng Hiếu
t h ư v Te n
1RUỜNG ĐẠI HOC LUẬ1 HA
Ị 5hòng 00 c

HÀ NỘI - 2006


Em xin chân thành cảm ơn TS. Bùi Đ ăng Hiếu,
Giảng viên Khoa Luật D ân sự, Trường Đ ại học Luật
H à N ội, các thầy cô giáo, bạn bè, đồng nghiệp và
gia đình - những người đ ã giúp đ ỡ em hoàn thành


luận vãn này.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Trần Minh Châu


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên
cứu khoa học của riêng tơi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy,
chính xác và trung thực. Những kết luận khoa
học của luận văn chưa từng dược ai công b ố
trong bất kỳ cơng trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Trần Minh Châu


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỂ TRÁCH NHIỆM Bổi THƯỜNG

5


THIỆT HẠI NGOÀI HỢP đổ n g

1.1.

t r o n g lu ậ t dân

sự

Khái niệm, ý nghĩa của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài

9

hợp đổng trong luật dân sự
1.2.

So sánh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tài sản

10

với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm các quyền
nhân thân
Chương 2: XÁC ĐỊNH TRÁCH NHIỆM BỔI THƯỜNG THIỆT HẠI

13

DO SỨC KHỎE VÀ TÍNH MẠNG BỊ XÂM PHẠM

2.1.


Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sức khỏe
và tính mạng bị xâm phạm

13
v

2.2.

Các chủ thể trong quan hệ bồi thường thiệt hại

26

2.3.

Nguyên tắc bồi thường thiệt hại

30

2.4.

Hình thức bồi thường và mức bồi thường

37

Xác định thiệt hại trong trường hợp sức khỏe, tính mạng bị

40

(2-5/


xâm phạm
Chương 3: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP

52

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỂ B ổi THƯỜNG THIỆT
HẠI DO XÂM PHẠM sứ c KHỎE, TÍNH MẠNG

3.1.

Thực trạng áp dụng pháp luật để giải quyếttranh chấp về

bồi

52

thường thiệt hại do sức khỏe và tính mạng bị xâm phạm
3.2.

Kiến nghị và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồithường

65

thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng
KẾT LUẬN

69

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


70

PHỤ LỤC: TÌNH HÌNH NGHIÊN c ú u ĐỂ TÀI

73


1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Ai gây thiệt hại thì người đó phải bồi thường - vấn đề này đã được các
nhà làm luật coi đó là một nguyên tắc và cụ thể hóa trong văn bản pháp luật.
Xét về nguồn gốc lịch sử thì chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng ra đời từ rất sớm. Qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, mỗi quốc gia
đều có những qui định chung về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, bên
cạnh đó cịn có những qui định cụ thể về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng trong từng trường hợp cụ thể bởi sự đa dạng về chủ thể gây
thiệt hại, đối tượng bị thiệt hại, hoàn cảnh bị thiệt hại...
Bộ luật dân sự năm 1995 được áp dụng để giải quyết cho các tranh
chấp dân sự nói chung, tranh chấp về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng nói riêng kể từ ngày 1/7/1996. Qua gần 10 năm thi hành, Bộ luật
dân sự 1995 đã phát huy tác dụng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội
thuộc đối tượng điều chỉnh của luật dân sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho các chủ thể trong giao lưu dân sự, góp phần làm ổn định các quan hệ xã
hội. Bên cạnh những thành công đã đạt được, Bộ luật dân sự 1995 còn bộc lộ
nhiều bất cập cần phải sửa đổi, bổ sung cho phù họp với thực tiễn. Bộ luật dân
sự 2005 ra đời thay thế cho Bộ luật dân sự 1995 với nhiều sự sửa đổi, bổ sung
nhất định, trong đó có chế định bồi thường thiệt hại ngoài họp đồng. Bộ luật dân

sự 2005 qui định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng từ Điều 604
đến Điều 630, trong đó bổ sung qui định về bồi thường thiệt hại do xâm phạm
thi thể, bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả, hài cốt và rất nhiều sự sửa
đổi khác trong từng qui định cụ thể.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung, bồi thường thiệt hại do
xâm phạm sức khỏe, tính mạng nói riêng là một trong những loại trách nhiệm
gây nhiều tranh cãi về căn cứ phát sinh, mức bồi thường...; hơn nữa qui định
của pháp luật về vấn đề này chủ yếu dừng lại ỏ' các qui định mang tính "định


2

tính" mà khơng "định lượng" nên gây khó khăn rất nhiều cho các cán bộ áp
dụng pháp luật. Bên cạnh đó, án kiện về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
xâm phạm sức khỏe, tính mạng chiếm tỉ trọng tương đối lớn trong các án kiện
về bồi thường; sự đối lập về tâm lý của người gây thiệt hại với người bị thiệt
hại hoặc gia đình của người bị thiệt hại... làm cho các án kiện về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng bị kháng cáo, khiếu
nại từ phía đương sự.
Xuất phát từ tình hình trên đây, việc nghiên cứu, tìm hiểu các qui định
của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung, bồi thường thiệt
hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng nói riêng là một trong những vấn đề có
ý nghĩa pháp lý và thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng được nhiều nhà khoa
học nghiên cứu pháp luật quan tâm. Đã có nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu
về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi họp đồng nói chung, trong đó có đề
cập đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng như
các bài viết: TS. Phùng Trung Tập: "Lỗi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngồi hợp đồng", Tạp chí Tịa án nhân dân, số 10, tháng 5-2004; Đinh Văn Quế:

"Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe
của con người", Tạp chí Tịa án nhân dân, số 10, tháng 5-2004); Tưởng Duy
Lượng - Nguyễn Văn Cường: "Cách tính bồi thường thiệt hại tính mạng, sức
khỏe bị xâm phạm", Tạp chí Tịa án nhân dân, số 10, tháng 5-2004); Lê Mai
Anh: "Những vấn đề cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
trong Bộ luật dân sự", Luận văn thạc sĩ luật học; Lê Thị Bích Lan: "Một số vấn
đề về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm và uy tín", Luận văn thạc sĩ luật học...(xem Phụ lục).
Nhìn chung, các đề tài đó đã nêu và phân tích những vấn đề chung về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong luật dân sự; đưa ra các yêu cầu cơ bản
trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, các quy định của pháp


3

luật dân sự trong việc bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm và uy tín, cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt
hại, các hình thức và mức bồi thường, những trường họp miễn hoặc giảm
trách nhiệm bồi thường...
Tuy nhiên, các đề tài này hoặc đề cập ở dạng khái quát về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng hoặc có đề cập chi tiết cụ thể
hơn nhưng vào thời điểm của Bộ luật dân sự 1995 đang tồn tại hiệu lực pháp lý.
Tìm hiểu một cách có hệ thống, chi tiết về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng theo Bộ luật dân sự 2005 và các
văn bản hướng dẫn mới thì chưa có một cơng trình khoa học nào cho đến thời
điểm hiện tại.
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Thơng qua việc tìm hiểu các qui định của Bộ luật dân sự 2005 và các
văn bản hướng dẫn thi hành, giúp cho người nghiên cứu có cái nhìn hồn
chỉnh dưới lăng kính pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp

đồng, qua đó phục vụ tốt hơn cho công việc thực tế của bản thân. Ngoài ra,
qua việc nghiên cứu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do xâm
phạm sức khỏe, tính mạng cũng như việc áp dụng vào thực tiễn sẽ có những
kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc thực thi, sửa đổi và
tuyên truyền pháp luật. Để đạt được mục đính này, nhiệm vụ nghiên cứu của
luận văn là tìm hiểu các qui định của các văn bản pháp luật hiện hành về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng; tìm hiểu thực
tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính
mạng, qua đó chỉ ra những bất cập trong các qui định của pháp luật và phương
hướng hoàn thiện qui định của pháp luật về bồi thường thiệt hại nói chung,
pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng nói riêng.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong phạm vi giới hạn nghiên cứu đề tài cao học luật, chúng tôi chỉ
nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản nhất về trách nhiệm bồi thường thiệt


4

hại do có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến sức khỏe và tính mạng, đồng
thời xem xét thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự xâm phạm sức khỏe và tính
mạng. Luận văn này cũng đưa ra những giải pháp nhằm tháo gỡ những vướng
mắc trong giải quyết bồi thường thiệt hại sức khỏe và tính mạng khi áp dụng
các quy định của Bộ luật dân sự.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận nhận thức của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Ngồi ra,
luận văn cịn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như phương pháp duy
vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, phương pháp phân
tích, tổng hợp, thống kê...cũng được sử dụng trong quá trình thực hiện đề tài.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn

Luận văn sẽ đề cập một cách có hệ thống, chi tiết trong qui định của
pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính
mạng; chỉ ra những khó khăn, bất cập trong việc áp dụng pháp luật, đồng thời
có những kiến nghị trong việc hồn thiện và áp dụng pháp luật trong việc xác
định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng.
7. Kết cấu của luân văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1 : Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng trong luật dân sự
Chương 2: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sức khỏe và
tính mạng bị xâm phạm
Chương 3: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường
thiệt hại do xâm phạm sức khỏe và tính mạng


5

Chương 1
KHÁI QUÁT CHƯNG VÈ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
NGOÀI HỢP ĐỒNG TRONG LUẬT DÂN s ự

1.1. KHÁI NIỆM, Ý NGHĨA CỦA TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT
HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG TRONG LUẬT DÂN s ự

1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Thời kỳ sơ khai, trách nhiệm bồi thường chưa được đặt ra, theo đó
người ta thường áp dụng nguyên tắc "nợ gì trả nấy" khi có hành vi gây thiệt
hại. Luật XII bảng được ban hành vào năm 449 trước Cơng ngun có qui
định: Kẻ nào làm gãy tay người khác thì kẻ đó phải chịu lại tương tự như vậy.

Khi áp dụng nguyên tắc trả thù ngang bằng, lợi ích của người bị thiệt hại
khơng được bảo đảm, hơn nữa lại có một thiệt hại khác phát sinh. Đây chính
là lý do để sau đó người ta xem xét vấn đề bồi thường thiệt hại.
Xét về nguồn gốc lịch sử, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng là một trong những chế định có lịch sử sớm nhất của pháp luật dân sự.
Tuy nhiên, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng là chế định
gây nhiều tranh cãi, có nhiều quan điểm của các nhà nghiên cứu luật pháp
cũng như các cán bộ làm công tác thực tiễn.
Trải qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, chế định bồi thường thiệt hại
ngồi hợp đồng ln được hồn thiện bởi các chuyên gia pháp lý. Ở nước ta,
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã được qui định trong Quốc
triều Hình luật và Hồng Việt luật lệ. Pháp luật mỗi nước có thể có những qui
định khác nhau liên quan đến xác định mức bồi thường, tuy nhiên một ngun
tắc cơ bản ln tồn tại - đó là: "Người gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại
cho người bị thiệt hại". Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long đều chưa có
sự phân biệt rõ nét về trách nhiệm bồi thường dân sự. Sự phân biệt rạch ròi


6

giữa trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự chỉ ra đời trên cơ sở ba bộ
luật đầu tiên (Bộ luật Nam Kỳ ban hành ngày 10/3/1883; bộ Dân luật Bắc Kỳ
ban hành ngày 01/4/1931; bộ Dân luật Trung Kỳ ban hành ngày 31/10/1936)
và các nguyên lý chung về trách nhiệm bồi thường dân sự lần đầu được ghi nhận
một cách cụ thể tại Điều 712 đến Điều 716 (Bộ Dân luật Bắc Kỳ); Điều 761
đến Điều 767 (Bộ Dân luật Trung Kỳ) và cho đến năm 1972 chính quyền Sài
Gịn có ban hành bộ Dân luật Sài Gịn từ Điều 729 đến Điều 739 đề cập về
trách nhiệm bồi thường dân sự.
Cách mạng tháng Tám thành công, đánh dấu một bước ngoặt mới: Nhà
nước Việt Nam dân chủ ra đời, ngay lúc này chúng ta chưa thế ban hành được

các văn bản quy phạm pháp luật ngay. Để điều chỉnh các quan hệ xã hội diễn
ra hàng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lần lưọt ký sắc lệnh số 90/SL ngày
10/10/1945 và Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950 thừa nhận luật lệ cũ trên
tinh thần không trái với nguyên tắc độc lập và chính thể dân chủ cộng hòa của
Nhà nước ta. Những quy định trong sắc lệnh số 97/SL đã đặt nền móng cho
sự hình thành và phát triển của luật dân sự. Lần đầu tiên những nguyên tắc
thực sự dân chủ, tiến bộ mang tính nhân dân sâu sắc được pháp điển hóa. Như
nguyên tắc: "Những quyền dân sự đều được luật bảo vệ khi người ta hành xử
nó đúng với quyền lợi của nhân dân" hay "người ta chỉ được hướng dụng và
sử dụng các vật thuộc quyền sở hữu của mình một cách hợp pháp và không
gây thiệt hại đến quyền lợi của nhân dân".
Việc giải quyết các quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trên cơ
sở tổng kết kinh nghiệm của ngành tòa án. Qua thực tiễn xét xử, vận dụng và kế
thừa những quy định pháp luật đã có, Tịa án nhân dân tối cao ban hành Thơng
tư 173/UBTP ngày 23/3/1972 hướng dẫn cơng tác xét xử, trong đó nói rõ điều kiện
phát sinh, trách nhiệm bồi thường thiệt hại, nguyên tắc, cách xác định thiệt hại...
Thông tư số 03 ngày 5/4/1983 bổ sung giải quyết bồi thường thiệt hại
trong các vụ tai nạn giao thông... đều là văn bản dưới luật, lại ban hành trong


7

điều kiện nền kinh tế tập trung bao cấp, tuy đề cập đến nhiều vấn đề xong chỉ
mang tính định hướng, chưa cụ thể... Bên cạnh đó, xu hướng phát triển kinh tế
đất nước theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, địi hỏi phải có
bộ luật dân sự điều chỉnh một lĩnh vực quan hệ xã hội rộng lớn. Bộ luật Dân
sự ra đời pháp điển hóa một bước quan trọng tạo ra một văn bản pháp luật
thống nhất nhằm khắc phục những tình trạng tản mạn, trùng lặp, mâu thuẫn
của pháp luật dân sự trước đó.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng là một trong những

trách nhiệm dân sự, được áp dụng với những người có hành vi trái pháp luật
gây ra thiệt hại cho người khác. Chế định "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng” được hệ thống ở chương V, phần thứ 3 với các qui định từ
Điều 604 đến Điều 630 làm cơ sở pháp lý quan trọng trong việc giải quyết bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp, đồng thời giải quyết khách quan,
nhanh chóng, cơng bằng theo quy định của pháp luật.
Theo khoản 5 Điều 281 Bộ luật dân sự Việt Nam thì một trong những căn
cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự đó là: "Gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật".
Theo qui định tại Điều 604 Bộ luật dân sự thì sự kiện "gây thiệt hại do
hành vi trải pháp luật" là căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường ngoài
hợp đồng. Nhà làm luật trong trường hợp này đã đồng nghĩa "trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng" với "nghĩa vụ bồi thường do hành vi trái
pháp luật" - Điều 604 Bộ luật dân sự đã xác nhận sự đồng nghĩa này.
Pháp luật nhà nước ta sử dụng nhiều phương thức khác nhau để bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức khi bị xâm phạm bởi
những hành vi trái pháp luật. Khi một người có hành vi trái pháp luật gây
thiệt hại đối với người khác làm phát sinh các quan hệ pháp luật về bồi
thường thiệt hại.
Điều 604 Bộ luật dân sự quy định:


8

1. Người nào do lỗi cố ỷ hoặc lỗi vô ỷ xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp
pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp
nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
2. Trong trường hợp pháp luật quy định người gãy thiệt hại
phải bồi thường cả trong trường hợp khơng có lỗi thì áp dụng quy

định đó.
Như vậy, bồi thường thiệt hại là quan hệ phát sinh từ hậu quả của hành
vi trái pháp luật xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy
tín, tài sản các quyền lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự,
uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc của các chủ thể khác.' Bồi thường thiệt hại
là hình thức trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên có hành vi gây ra thiệt hại
phải bù đắp, đền bù những tổn thất về vật chất, về tinh thần cho bên bị thiệt
hại. Điều kiện để phát sinh trách nhiệm này là phải có thiệt hại, có hành vi trái
pháp luật, có quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra
có lỗi của người gây thiệt hại.
Vậy trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng là gì? Qua những
phân tích trên đây, có thể đưa ra khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng như sau:
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách
nhiệm pháp lý, là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước theo đó người gây thiệt
hại phải bồi thường thiệt hại do hành vi của mình gây ra khi hành vi đó được
thực hiện với lỗi cổ ỷ hoặc vô ỷ xâm hại tới tài sản, sức khoẻ, tính mạng, danh
dự, nhân phẩm, uy tín, và các quyền nhân thân khác của cá nhân, tài sản,
danh dự, uy tín của pháp nhân hoặc của chủ thể khác.
1.1.2. Ý nghĩa trách nhiệm bồi thưỊTig thiệt hại ngồi hợp đồng
Là một loại trách nhiệm pháp lý, được áp dụng khi thỏa mãn những
điều kiện do pháp luật qui định, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp


9

đồng có ý nghĩa pháp lý và ý nghĩa xã hội sâu sắc, điều đó được thể hiện trên
một số phương diện sau đây:
Thứ nhất, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng là chế
định góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể.

Trong các quan hệ xã hội nói chung, giao lưu dân sự nói riêng, chủ thể
tham gia nhằm thỏa mãn những lợi ích vật chất hoặc tinh thần của mình. Đe
xã hội ngày càng phát triển, các chủ thể phải tham gia nhiều quan hệ xã hội
khác nhau và trong các quan hệ xã hội mà chủ thể tham gia thì lợi ích ln là
tâm điểm để chủ thể hướng tới. Hiến pháp và các văn bản pháp luật có hiệu
lực pháp lý sau Hiến pháp luôn ghi nhận và bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp
của các chủ thể. Đó có thể là lợi ích vật chất, thể hiện ở quyền sở hữu tài sản,
nhưng cũng có thể là lợi ích tinh thần, thể hiện ở các quyền nhân thân được
pháp luật bảo vệ. Bằng việc qui định căn cứ phát sinh, nguyên tắc bồi
thường... thì chế định bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng có vai trị quan
trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong các
quan hệ xã hội khác nhau.
Thứ hai, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là chế
định góp phần đảm bảo cơng bằng xã hội.
Ngun tắc chung của pháp luật là một người phải chịu trách nhiệm
về hành vi và hậu quả do hành vi đó mang lại. Bằng việc buộc người gây
thiệt hại phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của mình gây
ra cho người bị thiệt hại, chế định bồi thường thiệt hại ngồi họp đồng đã
góp phần bảo đảm công bằng xã hội. Đây cũng là nguyên tắc, là mục tiêu mà
pháp luật đặt ra. Chế định bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng đã cụ thể hóa
và thể hiện rất rõ nguyên tắc công bằng trong bồi thường thiệt hại. Theo chế
định này, ai gây thiệt hại thì người ấy phải bồi thường, tuy nhiên sẽ có những
trường hợp riêng biệt của trách nhiệm bồi thường thiệt hại như nguyên tắc


10

giảm mức bồi thường, bồi thường thiệt hại trong trường hợp vượt q giới
hạn phịng vệ chính đáng, bồi thường thiệt hại trong trường hợp người bị
thiệt hại có lỗi...

T hứ ba, trảch nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là chế
định góp p h ầ n răn đe, giáo dục, phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật
nói chung, gây thiệt hại trái pháp luật nói riêng.
Ngồi mục đích buộc bên vi phạm phải chịu trách nhiệm do hành
vi vi phạm của mình gây ra - nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự - chế
định trách nhiệm bồi thường thiệt hại còn thể hiện ý nghĩa nhân đạo, ý
nghĩa xã hội sâu sắc. Thông qua chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng cùng với việc vận dụng chế định này để giải quyết các tranh chấp liên
quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, chế định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cịn có ý nghĩa răn đe, giáo dục
và phịng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật nói chung, hành vi gây thiệt
hại trái pháp luật nói riêng. Ngồi người vi phạm, những người khác cũng
sẽ thấy rằng nếu mình có hành vi gây thiệt hại thì cũng sẽ chịu sự xử lý của
pháp luật.
Chế định bồi thường thiệt hại ngồi họp đồng cịn có ý nghĩa trong
việc tun truyền, giáo dục pháp luật thông qua những biện pháp chế tài
nghiêm khắc. Ngoài ra, ý thức pháp luật của người dân cũng ngày một được
nâng cao hơn.
1.2. SO SÁNH TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO XÂM PHẠM







TÀI SẢN VỚI TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO XÂM PHẠM CÁC









QUN NHÂN THÂN

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi họp đồng rất đa dạng, một
trong những sự đa dạng đó là đối tượng bị thiệt hại. Đối tượng bị thiệt hại có
thể là tài sản, nhưng cũng có thể là tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,


11

uy tín (sự cụ thể hóa các quyền nhân thân được pháp luật bảo hộ). Chúng ta
có thể thấy rõ sự giống và khác nhau giữa trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
xâm phạm tài sản với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm các
quyền nhân thân qua sự phân tích dưới đây.
1.2.1. Những điểm giống nhau
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tài sản với trách nhiệm
bồi thường do xâm phạm các quyền nhân thân đều là một loại trách nhiệm
pháp lý. Đây chính là thái độ của Nhà nước đối với hành vi vi phạm và hậu quả
của hành vi đó gây ra. Cả hai loại trách nhiệm này đều là biện pháp cưỡng chế
của Nhà nước được áp dụng đối với người vi phạm, buộc người vi phạm phải
chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tài sản với trách nhiệm
bồi thường do xâm phạm các quyền nhân thân đều là một loại trách nhiệm
pháp lý nên chỉ phát sinh khi và chỉ khi dựa trên các căn cứ do pháp luật qui
định. Những căn cứ đó được xác định cụ thể như: có thiệt hại, có hành vi trái
pháp luật gây thiệt hại, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và

thiệt hại xảy ra, có lỗi của người gây thiệt hại.
Ngoài ra, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tài sản với
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền nhân thân cịn có những
điểm giống nhau liên quan đến hậu quả (trách nhiệm vật chất), những trường
hợp được loại trừ, những trường hợp không được loại trừ...
1.2.2. Những điểm khác nhau
Bên cạnh những điểm giống nhau, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
xâm phạm tài sản với trách nhiệm bồi thường do xâm phạm các quyền nhân
thân cịn có những điểm khác biệt, chúng ta có thể thấy sự khác biệt này qua
bảng so sánh dưới đây:


12

TIÊU CHÍ
SO SÁNH

TRÁCH NHIỆM BƠI
THƯỜNG THIỆT HẠI DO
XÂM PHẠM TÀI SẢN

TRÁCH NHIỆM BÒI THƯỜNG
THIỆT HẠI DO XÂM PHAM
CÁC QƯỸÈN NHÂN THẨN

1. Căn củ phát sinh Phát sinh trong hợp đồng Chỉ phát sinh ngoài hợp đồng
hoặc ngoài họp đồng

2. Đổi tượng bị Tài sản (Khái niệm tài sản Các quyền nhân thân được pháp
được quy định tại Điều 163 luật qui định và bảo vệ

xâm hại
Bộ luật dân sự: "Tài sản bao
gồm vật, tiền, giấy tờ có giá
và các quyển tài sản ")
3. Thiệt hại phải Thiệt hại vật chất
bồi thường

- Thiệt hại vật chất; và

4. Hậu quả pháp Bồi thường thiệt hại
lý được áp dụng

- Bồi thường; và/

- Thiệt hại tinh thần.

- Xin lỗi; hoặc/
- Cải chính cơng khai trên các
phương tiện thông tin đại chúng

5. Thay đỏi chủ thể Cỏ thể có sự thay đổi chủ thể: Khơng thể thay đổi chủ thể, không
chuyển giao quyền yêu cầu thể chuyển giao quyền yêu cầu,
hoặc chuyển giao nghĩa vụ Điều 309 khoản 1 điểm a Bộ luật
dân sự quy định: ”1. Bên có quyển
yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân
sự có thể chuyển giao quyền yêu
cầu đó cho người thế quyển theo
thỏa thuận, trừ những trường
hợp sau đây: a) quyền yêu cầu
cấp dưỡng, yêu cầu bồi thường

thiệt hại do xâm phạm đến tỉnh
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, uy tín;..."


13

Chương 2
XÁC ĐỊNH TRÁCH NHIỆM BÒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO SỨC KHỎE VÀ TÍNH MẠNG BỊ XÂM PHẠM

Trách nhiệm bồi thường nói chung, bồi thường thiệt hại do xâm phạm
tính mạng, sức khỏe nói riêng là một loại trách nhiệm pháp lý, do đó trách
nhiệm bồi thường do xâm phạm tính mạng, sức khỏe phát sinh khi và chỉ khi
thỏa mãn đầy đủ các điều kiện do pháp luật qui định. Các điều kiện phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại (căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại) do sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm là những căn cứ do pháp luật
qui định, khi thỏa mãn các căn cứ đó thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
xâm phạm sức khỏe, tính mạng phát sinh. Pháp luật dân sự không qui định cụ
thể căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe,
tính mạng mà chỉ qui định căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngồi hợp đồng nói chung. Do đó, căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng được áp dụng để xác định trách nhiệm bồi thường
*

thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng.
2.1. CĂN CỬ PHÁT SINH TRÁCH NHIỆM BÒI THƯỜNG THIỆT HẠI


DO SỨC KHỎE VÀ TÍNH MẠNG BỊ XÂM PHẠM


Là một loại trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ
phát sinh khi thỏa mãn các căn cứ do pháp luật qui định. Việc xác định căn
cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại có ý nghĩa hết sức quan trọng:
là cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường, mức bồi thường... Cơ sở phát
sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại được đề cập tại Điều 307 (Trách nhiệm
bồi thường thiệt hại) và Điều 604 (Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại) của Bộ luật dân sự năm 2005. Như vậy, trên cơ sở qui định tại hai
điều luật này, căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xác
định gồm 4 điều kiện:


14

• Phải có thiệt hại xảy ra;
• Phải có hành vi gây thiệt hại;
• Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và hậu quả xảy ra;
• Người gây thiệt hại phải có lỗi.
2.1.1. Phải có thiệt hại xảy ra
Đây là điều kiện tiên quyết, điều kiện quan trọng nhất của trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngồi họp đồng, bởi nếu khơng có thiệt hại thì trách nhiệm
bồi thường thiệt hại không bao giờ phát sinh. Mục đích của trách nhiệm bồi
thường thiệt hại là khơi phục, bù đắp những tổn thất cho người bị thiệt hại, do ,
đó phải có thiệt hại thì mục đích đó mới đạt được.
Nếu thiệt hại do tài sản bị xâm phạm thì việc xác định "có thiệt hại" là
vấn đề khơng mấy khó khăn, tuy nhiên trường hợp sức khỏe, tính mạng bị
xâm phạm thì thiệt hại sẽ khó xác định, bởi chúng ta khơng thể "lượng hóa"
được thiệt hại trong trường hợp này. Vậy có thể hiểu thiệt hại là gì? Thiệt hại
có thể được hiểu theo hai khía cạnh: xã hội và pháp lý.
Theo ý nghĩa xã hội, mỗi hành vi trái pháp luật đều gây thiệt hại, bởi

nó làm ảnh hưởng đến những quan hệ xã hội nhất định.
Theo luật dân sự Việt Nam thì thiệt hại là những tổn thất thực tế được
tính thành tiền do việc xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín,
tài sản... của cá nhân và các chủ thể khác. Tổn thất thực tế được đề cập ở đây
là sự giảm sút, mất mát về lợi ích vật chất, tinh thần, hay những chi phí để
ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại mà người bị hại phải gánh chịu.
Những thiệt hại thực tế xảy ra có thể là thiệt hại vật chất hoặc tinh

thần. Thiệt hại vật chất là thiệt hại được biểu hiện cụ thể như tài sản đã mất
mát, những chi phí cần thiết để ngăn chặn, hạn chế, sửa chữa thay thế tài sản
bị hư hỏng, những khoản thu nhập thực tế bị mất.


15

Khi một người có hành vi trái pháp luật gây ra những thiệt hại về tính
mạng, sức khỏe... của người khác thì thiệt hại được xác định như thế nào?
Tính mạng, sức khỏe của con người là vô giá không thể tính thành tiền, do
vậy bồi thường thiệt hại ở đây khơng phải là bồi thường về tính mạng, sức
khỏe mà nó là những bồi thường thiệt hại vật chất. Những chi phí cho việc
cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc, phục hồi chức năng cho bên bị thiệt hại hoặc
những chi phí cần thiết khác.
Theo thơng tư 173/UBTP-TANDTC của Tịa án nhân dân tối cao ngày
23/3/1972 hướng dẫn thì thiệt hại được xác định: "Đó là thiệt hại vật chất,
biểu hiện cụ thể là thiệt hại về tài sản hoặc những chi p h í và những thu nhập
bị mất, do có sự thiệt hại về tính mạng, sức khỏe đưa đến. Thiệt hại đó phải
thực sự xảy ra và tỉnh toán được
Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005 ghi nhận việc
buộc người gây thiệt hại "bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về
tinh thần" cho người bị thiệt hại, người thân của họ.

Pháp luật về dân sự nói chung, chế định bồi thường thiệt hại do danh
dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm nói riêng là những vấn đề rất nhạy cảm và
vơ cùng phức tạp, bởi vì những thiệt hại về tinh thần là những thiệt hại phi vật
chất, khơng thể có cơng thức chung để quy ra tiền áp dụng cho các trường
hợp. Việc giải quyết bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần ,
cũng chỉ nhằm an ủi, động viên làm dịu đi nỗi đau cho chính nạn nhân. Đây là
vấn đề rất khó, nhưng cho đến nay, về căn bản các cơ quan có thẩm quyền
chưa <^o)ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể để áp dụng cho thống nhất, vì vậy
khi vận dụng vào thực tiễn còn gây nhiều tranh cãi, chưa thống nhất.
Trên thế giới, thiệt hại về tinh thần đã được một số nước ghi nhận từ
lâu như Liên Xơ, Cộng hóa Liên bang Đức... Trong cuốn "Trách nhiệm phát
sinh do gây thiệt hại" (Nhà xuất bản LGU, Lêningrat, 1973), tác giả Smimốp
T .v khẳng định: "Nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu vật chất, văn hóa, tinh thần của


16

ccng dân Xô vỉêt, vê việc bảo vệ quyên và lợi ích hợp pháp của họ chỉ là thực
hiện đầy đủ khi người bị thiệt hại được bồi thường không những thiệt hại về
vẹt chất mà cả thiệt hại về tinh thần". Tại khoản 3, Điều 307 Bộ luật dân sự
của nước ta quy định: "Người gây thiệt hại về tỉnh thần cho người khác do
xám phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó
thì ngồi việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chỉnh cơng khai cịn phải
bci thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt
hại". Như vậy, thiệt hại được hiểu là ngồi những thiệt hại vật chất cịn có
những thiệt hại về tinh thần.
Thiệt hại xảy ra được đánh giá một cách khách quan, trung thực, đảm
bảo công bằng xã hội. Trên thực tế, mọi thiệt hại đều mang tính khách quan,
tuy nhiên, tiên lượng và đánh giá tính khách quan của sự thiệt hại lại thông
qua ý thức chủ quan của con người. Điều đó có nghĩa là trong điều kiện, hồn

cảnh thực tế như vậy ai cũng cơng nhận thiệt hại là có và mọi người đều chấp
nhận việc đánh giá mức độ thiệt hại. Nhưng nhìn chung thì người bị thiệt hại
có thể phức tạp hóa vấn đề lên, như khai tăng giá trị thiệt hại còn người gây
thiệt hại có chiều hướng đơn giản hóa. Vì vậy mà người có vai trị đánh giá
thiệt hại, đại diện cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền là rất quan trọng.
Nhìn nhận và đánh giá thiệt hại dựa trên cơ sở pháp luật quy định để xem xét
có thiệt hại xảy ra hay không, mức độ thiệt hại như thế nào...
Thiệt hại phải tính tốn được tương đương với một số lượng tiền xác
định mới đảm bảo đầy đủ cơ sở cho việc bồi thường. Tuy nhiên, đối với thiệt
hại về mặt tinh thần khơng thể tính tốn bằng tiền. Hơn thế đây là khái niệm
còn khá trừu tượng, bởi "tinh thần" thì làm sao có thể cân, đo, đong, đếm cụ
thể để xác định thiệt hại, do vậy Tịa án chỉ có thể căn cứ vào từng trường hợp
cụ thể xác định số tiền bù đắp tổn thất về mặt tinh thần, nhằm đảm bảo quyền
lợi của người bị nạn và gia đình họ, khắc phục phần nào hậu quả xảy ra. Tòa
án cũng chỉ chấp nhận những thiệt hại hợp lý mà thơi, những thiệt hại mang
tính suy diễn như: "Tôi là người không bao giờ bị tai nạn, trong tháng này tôi


17

bắt được 5 triệu đồng" hay "thu nhập của một người nông dân ở vùng quê
nghèo là từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng /tháng".
Có thiệt hại tức là những tổn thất thực tế, tồn tại khách quan và phải
tính được bằng một số tiền cụ thể nhất định, còn những thiệt hại mang tính
suy diễn, chủ quan sẽ khơng được thừa nhận nếu khơng có căn cứ xác đáng.
Như vậy, thiệt hại về vật chất là những thiệt hại trị giá được bằng tiền,
đó là thiệt hại thơng thường trong các vụ kiện địi bồi thường thiệt hại. Đó là
những thiệt hại vật chất trong các thiệt hại về tài sản, về tính mạng, sức khỏe,
danh dự, uy tín, nhân phẩm...
Thiệt hại tinh thần là những thiệt hại phi vật chất, khơng thể có cơng

thức chung để quy thành tiền áp dụng cho mọi trường hợp. Việc giải quyết
bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần tùy vào từng trường
hợp cụ thể nhằm mục đích an ủi, động viên và phần nào đó tạo điều kiện để
có thể khắc phục khó khăn, làm dịu đi nỗi đau cho chính người bị thiệt hại
hay cho những người thân thích của họ.
Thiệt hại về tinh thần là sự thiệt hại về giá trị tinh thần, tình cảm hoặc
sự suy sụp về tâm lý, tình cảm của cá nhân. Hình thức biểu hiện thiệt hại về
tinh thần rất đa dạng như: Sự suy sụp tâm lý của người bị thiệt hại sau khi sức
khỏe bị xâm phạm làm cho bị tàn tật, bị biến dạng bề ngồi (ví dụ như bị sẹo
ở mặt, bị gãy chân làm cho người bị thiệt hại đi cà nhắc...).
Ngoài những thiệt hại về tinh thần mà bản thân người bị thiệt hại
phải gánh chịu thì có những trường hợp người thân thích của họ cũng phải
gánh chịu tốn thất về tinh thần này. Ví dụ, đó có thể là sự suy sụp, hoang
mang, lo lắng, sự đau thương của những người thân thích với cái chết của
nạn nhân. Khác với thiệt hại vật chất, thiệt hại tinh thần khơng có tiêu chí
chung để xác định cho mọi cá nhân bởi điều kiện, hoàn cảnh của từng cá
nhân là không giống nhau, nhưng thiệt hại về tinh thần thường đi kèm với
thiệt hại vật chất.

yH Ư VI ễ N
M O N G ĐẠI H 0 C

PHONG DOc

./Ị Q

; HA NỘI

j


£


18

Điều 710 Bộ luật dân sự của Nhât Bản quy định: "Một người chịu trách
nhiệm về thiệt hại theo quy định của Điều 709 phải bồi thường cả về thiệt hại
phi vật chất bất kể thiệt hại như vậy xảy ra đổi với quyền lợi, uy tín, hoặc tài
sản của người khác”.
Ngoài ra, muốn bồi thường, sự thiệt hại phải thỏa mãn các điều kiện:
thiệt hại phải chắc chắn, nhất định, thực tế và chưa được bồi thường.?
Nói đến sự thiệt hại chắc chắn, nhất định, thực tế là nói đến một sự
thiệt hại đã xảy ra, hoặc chưa xảy ra nhưng nhất định sẽ xảy ra và có thể ước
lượng được. Để chứng minh sự thiệt hại chắc chắn, người bị thiệt hại phải đưa
ra những chứng cứ cần thiết và tin cậy như: hóa đơn chứng từ thanh tốn
những chi phí hợp lý nhằm cứu chữa, phục hồi sức khỏe...M ột sự thiệt hại
không chắc chắn xảy ra hoặc chỉ có tính chất giả định hoặc chỉ là mất đi một
cơ may thì khơng được bồi thường. (Theo Bộ luật dân sự Nhật Bản thì việc
"mất đi một cơ may" được coi là một yếu tố cấu thành thiệt hại).
Bồi thường thiệt hại chính là nhằm khơi phục lại tồn bộ hoặc một
phần tình trạng tài sản trước khi xảy ra thiệt hại hoặc bù đắp những tổn thất
do tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, bị xâm phạm nên thiệt hại được
coi là điều kiện có ý nghĩa quan trọng. Không thể bồi thường thiệt hại khi
khơng có thiệt hại xảy ra.
Thiệt hại được hiểu là: bị tổn thất, hư hao về người và tài sản và được
xác định bằng một khoản tiền cụ thể. Thiệt hại gây ảnh hưởng đến các quan
hệ kinh tế - xã hội được pháp luật bảo vệ, đồng thời cũng phản ánh hậu quả
của hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức, pháp nhân cũng như của Nhà nước.
Pháp luật dân sự Việt Nam thừa nhận có thiệt hại về tinh thần, tuy

nhiên có quan điểm cho rằng thiệt hại về tinh thần chỉ là khái niệm xã hội và
ở phạm vi tình cảm. Nhưng có quan điểm cho rằng, bồi thường bằng tiền có
thể khắc phục phần nào thiệt hại về tinh thần, không thể dùng tiền bù đắp


19

được. Tuy nhiên, pháp luật dân sự Việt Nam quy định mức tiền bồi thường
thiệt hại về tinh thần tại khoản 2 Điều 609 và khoản 2 Điều 610. Nghị quyết số
03/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 08
tháng 7 năm 2006 hướng dẫn áp dụng một số qui định của Bộ luật dân sự năm
2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng đã có sự hướng dẫn cụ thể

về bồi thường tổn thất tinh thần.
Buộc người xâm phạm đến sức khỏe người khác phải bồi thường một
khoản tiền bù đắp tổn thất về mặt tinh thần cho người bị thiệt hại và cho
những người thân thích của người bị thiệt hại trong vụ bị xâm phạm tính
mạng là phù hợp cả về lý luận và thực tiễn, phù họp với phong tục tập quán,
truyền thống tương thân, tương ái của dân tộc Việt Nam.
2.1.2. Phải có hành vi gây thiệt hại
Hành vi gây thiệt hại trước tiên phải là hành vi pháp luật cấm thực hiện,
nếu hành vi đó được thực hiện mà pháp luật khơng cấm thì người thực hiện hành
vi đó khơng phải bồi thường thiệt hại. Khơng thể có người gây thiệt hại khi
khơng có hành vi gây thiệt hại. Hành vi gây thiệt hại là hành vi có ý thức của con
người diễn ra trái với qui định của pháp luật và gây thiệt hại tới các đối tượng
được pháp luật bảo vệ. Hành vi gây thiệt hại có thể bằng hành động hoặc khơng
hành động, hành động và không hành động đều là những biểu hiện của con
người ra ngoài thế giới khách quan, được ý thức kiểm sốt, lý trí điều khiển và
đều có khả năng làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động,
gây thiệt hại cho quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Hành động gây thiệt

hại có thể là tác động trực tiếp của chủ thể vào đối tượng gây thiệt hại hoặc có
thế là tác động gián tiếp của chủ thể vào đối tượng thông qua công cụ, phương
tiện gây thiệt hại. Không hành động gây thiệt hại là một hình thức của hành vi
gây thiệt hại, nó làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động,
gây thiệt hại cho khách thể bằng việc chủ thể không làm một việc pháp luật
quy định bắt buộc phải làm mặc dù có đầy đủ điều kiện để làm việc đó.


20

Thực tế thì việc xác định hành vi gây thiệt hại bằng hành động khơng
khó, bởi vì nó tác động trực tiếp đến đối tượng bị thiệt hại như: bắn, đâm,
chém ... Nhưng ở dạng không hành động hoặc được thực hiện thơng qua hành
vi của người khác thì cần phải xác định mối quan hệ giữa thiệt hại với hành vi
của người gây thiệt hại và trách nhiệm, nghĩa vụ của họ đối với thiệt hại xảy
ra. Ví dụ: người gây thiệt hại do phịng vệ chính đáng, do tình thế cấp thiết thì
khơng phải bồi thường. Tuy nhiên, nếu hành vi phịng vệ chính đáng và tình
thế cấp thiết đó mà vượt q giới hạn cho phép thì các hành vi bị coi là trái
pháp luật và phải bồi thường.
Trước khi có Bộ luật dân sự thì ngành Tịa án thường căn cứ vào
Thơng tư số 173/UBTP-TANDTC ngày 23/3/1972 của Tòa án nhân dân tối
cao để giải quyết các quan hệ pháp luật dân sự về bồi thường thiệt hại ngồi

hợp đồng. Theo tinh thần nội dung Thơng tư thì hành vi trái pháp luật trong
quan hệ bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng: "Có thể là một việc phạm pháp
về hình sự, một vi phạm pháp luật về dân sự, một vỉ phạm đường lối chính
sách của Đảng, Nhà nước hoặc một vi phạm quy tắc sinh hoạt xã hội".
Như vậy, khi xác định hành vi gây thiệt hại cho người bị thiệt hại để
phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, chúng ta có thể thấy có những đặc
điểm của hành vi trái pháp luật gây thiệt hại:

Thứ nhất, hành vi gây thiệt hại phải trái pháp luật, nếu khơng trái pháp
luật thì khơng phải bồi thường mặc dù có thiệt hại xảy ra. Hành vi trái pháp
luật ở đây được hiểu là hành vi vi phạm các qui định của pháp luật, ngoài ra
những hành vi vi phạm các qui tắc xử sự sinh hoạt trong đời sống cũng có thể
coi là hành vi trái pháp luật nếu gây ra thiệt hại. Những hành vi gây thiệt hại
nhưng do yêu cầu của nghề nghiệp hoặc gây thiệt hại theo bản án, quyết định
của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thì khơng phải là hành vi trái pháp luật.
Ví dụ: để cứu chữa bệnh nhân tránh vết thương bị hoại tử, bác sĩ phải cắt bỏ
chân của bệnh nhân, những người phá dỡ các công trình xây dựng trái phép,
những người thi hành án tử hình...


×