Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Cưỡng chế kê biên tài sản trong thi hành án dân sự và thực tiễn áp dụng tại tỉnh sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 88 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TÒNG MAI PHƢƠNG

CƢỠNG CHẾ KÊ BIÊN TÀI SẢN TRONG THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI
TỈNH SƠN LA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TÒNG MAI PHƢƠNG

CƢỠNG CHẾ KÊ BIÊN TÀI SẢN TRONG THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI
TỈNH SƠN LA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự


Mã số: 8380103

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Trần Cơng Bình

HÀ NỘI - NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình của riêng tơi. Các số liệu,
ví dụ trong luận văn là trung thực. Những kết luận trong luận văn
chưa từng được ai cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.

Tác giả luận văn

Tòng Mai Phương


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
HĐND

: Hội đồng nhân dân

LTHADS

: Luật thi hành án dân sự

TAND

: Tòa án nhân dân


THADS

: Thi hành án dân sự

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

UBND

: Ủy ban nhân dân


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Cơ cấu ngạch, bậc cán bộ, công chức các cơ quan THADS tỉnh Sơn
La.....................................................................................................................42
Bảng 2.2: Kết quả THADS về việc.................................................................44
Bảng 2.3: Kết quả THADS về tiền……………………………………….....44
Bảng 2.4: Kết quả áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản...................46


MỤC LỤC
TRANG BÌA PHỤ
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
Chƣơng 1 .......................................................................................................... 7

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CƢỠNG CHẾ KÊ BIÊN ........................ 7
TÀI SẢN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ............................................... 7
1.1. Những vấn đề lý luận về cƣỡng chế kê biên tài sản trong thi hành án
dân sự................................................................................................................ 7
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của cưỡng chế kê biên tài sản trong
thi hành án dân sự ........................................................................................... 7
1.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến cưỡng chế kê biên tài sản trong thi hành
án dân sự......................................................................................................... 14
1.2. Nội dung quy định của pháp luật hiện hành về cƣỡng chế kê biên tài
sản trong thi hành án dân sự........................................................................ 19
1.2.1. Căn cứ cưỡng chế kê biên tài sản ....................................................... 20
1.2.2. Điều kiện cưỡng chế kê biên tài sản ................................................... 21
1.2.3. Các điệu kiện thực hiện cưỡng chế kê biên tài sản ............................ 23
1.2.4. Trình tự, thủ tục cưỡng chế kê biên tài sản........................................ 28
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .............................................................................. 38
Chƣơng 2 ........................................................................................................ 40
THỰC TIỄN THỰC HIỆN CƢỠNG CHẾ KÊ BIÊN TÀI SẢN TRONG
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI TỈNH SƠN LA VÀ KIẾN NGHỊ ............ 40
2.1. Thực tiễn thực hiện cƣỡng chế kê biên tài sản trong thi hành án dân
sự tại tỉnh Sơn La .......................................................................................... 40


2.1.1. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội, công tác tổ chức cán bộ và thi
hành án dân sự ở tỉnh Sơn La ....................................................................... 40
2.1.2. Những kết quả đạt được trong cưỡng chế kê biên tài sản ở tỉnh Sơn
La..................................................................................................................... 45
2.1.3. Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của tồn tại, hạn chế trong
cưỡng chế kê biên tài sản ở tỉnh Sơn La....................................................... 48
2.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả cƣỡng chế kê biên tài sản ở
tỉnh Sơn La ..................................................................................................... 56

2.2.1. Kiến nghị về hoàn thiện pháp luật ...................................................... 56
2.2.2. Kiến nghị về thực hiện pháp luật ........................................................ 63
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................. 67
KẾT LUẬN .................................................................................................... 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở nước ta, pháp luật hiện hành quy định cơ quan thi hành án dân sự có
thẩm quyền tổ chức thi hành các bản án, quyết định dân sự của Tòa án, phán
quyết, quyết định của Trọng tài thương mại và quyết định xử lý vụ việc cạnh
tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh. Trên cơ sở các quy định của
pháp luật về thi hành án dân sự (THADS), tùy điều kiện thực tế ở mỗi địa
phương, các cơ quan THADS đã thực hiện nhiều biện pháp, giải pháp thi
hành án và đạt được những kết quả nhất định.
Ở tỉnh Sơn La, trong những năm qua, công tác THADS đã có những
chuyển biến tích cực, trong đó đáng chú ý là kết quả thi hành án thường đạt và
vượt chỉ tiêu, nhiệm vụ được Tổng cục THADS giao. Tuy nhiên, bên cạnh kết
quả đạt được, công tác THADS cũng còn những tồn tại, hạn chế nhất định
như số lượng việc chuyển kỳ sau cịn nhiều; số việc chưa có điều kiện thi
hành án, nhất là về giá trị (về tiền) vẫn chiếm tỷ lệ cao so với tổng số phải thi
hành… Tính đến ngày 30/9/2017, tổng số việc thi hành án mà các cơ quan THADS
tỉnh Sơn La phải thi hành là 7.255 việc, trong đó đã giải quyết xong 5.734, còn
1.521 việc chưa thi hành được (chiếm 20% trong tổng số phải thi hành)1.
Nguyên nhân của thực trạng nêu trên là cịn nhiều bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật nhưng chậm được tổ chức thi hành; một số cơ quan, tổ
chức cá nhân chưa tôn trọng và thi hành nghiêm chỉnh chấp hành án, bản án,

quyết định có hiệu lực pháp luật; cịn có những quy định pháp luật chưa đồng
bộ, không khả thi. Đặc biệt là, để đảm bảo việc thi hành án, việc kê biên, xử
lý tài sản đóng vai trị quan trọng nhưng thực tế cơng tác thi hành án cho thấy
cịn có những vụ việc người phải thi hành án không tự nguyện, trì hỗn, cản
trở thi hành án; việc tổ chức cưỡng chế kê biên tài sản phải phụ thuộc quá
nhiều vào sự phối hợp của các cơ quan, tổ chức có liên quan; nhiều việc thi
Cục THADS tỉnh Sơn La (2017), Báo cáo số 176 /BC-CTHADS ngày 04/10/2017 về kết quả cơng
tác thi hành án dân sự, hành chính năm 2017, phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2018
1


2

hành án đã cưỡng chế kê biên tài sản nhưng qua nhiều lần định giá vẫn không
bán được tài sản…. Thực trạng và nguyên nhân nêu trên đòi hỏi phải nghiên
cứu tìm ra những giải pháp thích hợp để khắc phục tồn tại, hạn chế và nâng
cao hiệu quả công tác THADS, góp phần vào việc thực hiện các nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Sơn La. Vì vậy, Học viên đã chọn đề tài
“Cưỡng chế kê biên tài sản trong thi hành án dân sự và thực tiễn áp dụng
tại tỉnh Sơn La” làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. T nh h nh nghiên c u đề tài
Liên quan đến công tác THADS nói chung và cưỡng chế kê biên tài sản
trong THADS nói riêng có nhiều cơng trình nghiên cứu ở các góc độ khác
nhau đã được cơng bố. Cụ thể như các cơng trình nghiên cứu sau đây:
- “Thực trạng về án tồn đọng và những giải pháp của THADS thành
phố Hồ Chí Minh” của tác giả Nguyễn Văn Lực và Đào Anh Dũng đăng trên
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề về THADS năm 2008.
- "Hoàn thiện các quy định pháp luật về trình tự, thủ tục THADS” của
tác giả Nguyễn Thùy Trang đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Số
(296) tháng 12/2012.

- "Những trăn trở từ thực tế thi hành án dân sự” của tác giả Hương Lan
đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Số chuyên đề tháng 04/2012.
- "Một số giải pháp để giải quyết hiệu quả việc THADS tồn đọng” của
tác giả Lê Thị Tuyết Minh đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Số chuyên
đề tháng 06/2012.
- "Một số bất cập sau 3 năm thực hiện Luật THADS” của tác giả Phan
Đức Vũ đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, Số 01/2013.
- "Một số giải pháp nâng cao chất lượng kiểm sát việc THADS” của tác
giả Nguyễn Mạnh Hùng đăng trên Tạp chí Kiểm sát, Số 01/2013.
- "Những bất cập sau 3 năm thực hiện luật THADS” của tác giả Trần
Thế Hùng đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Số chuyên đề tháng
02/2013.


3

- "Bất cập trong quy định về việc lập kế hoạch cưỡng chế THADS" của
tác giả Hồ Quân Chính đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề
năm 2014.
- "Giám sát THADS ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Hoàng Thế Anh,
Luận án tiến sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội năm 2015.
- "Một số vấn đề về cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản là quyền sử dụng
đất" của tác giả Bùi Đức Tiến đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân, Số
20/2016.
- "Sớm hoàn thiện quy định pháp LTHADS về cưỡng chế trả nhà, giao
nhà" của tác giả Bùi Đức Tiến đăng trên Tạp chí Cộng sản, Số 127/2017….
Nhìn chung các cơng trình nêu trên đã làm sáng tỏ được nhiều vấn đề lý
luận và thực tiễn về cưỡng chế kê biên tài sản trong THADS nhưng chưa có
cơng trình nghiên cứu nào đề cập trực tiếp, tồn diện đến cưỡng chế kê biên
tài sản trong THADS ở địa bàn tỉnh Sơn La. Vì vậy, cơng trình nghiên cứu

của Học viên là cơng trình nghiên cứu đầu tiên phân tích, đánh giá một cách
tồn diện về cưỡng chế kê biên tài sản trong THADS ở tỉnh Sơn La và đề xuất
các giải pháp nâng cao hiệu quả cưỡng chế kê biên tài sản trong THADS ở
tỉnh Sơn La.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên c u
Mục đích nghiên cứu của luận văn là phân tích, làm sáng tỏ những vấn
đề lý luận, các quy định của pháp luật về cưỡng chế kê biên tài sản trong
THADS và thực tiễn tổ chức cưỡng chế kê biên tài sản trong THADS ở tỉnh
Sơn La, từ đó đề xuất các giải pháp nh m hoàn thiện các quy định của pháp
luật về cưỡng chế kê biên tài sản trong THADS và nâng cao hiệu quả cưỡng
chế kê biên tài sản trong THADS ở tỉnh Sơn La.
Để đạt được mục đích nêu trên, việc nghiên cứu có các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về cưỡng chế kê biên tài sản trong
THADS như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của cưỡng chế kê biên tài sản trong
THADS và các yếu tố ảnh hưởng đến cưỡng chế kê biên tài sản trong THADS;


4

- Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành về cưỡng chế kê biên tài sản trong THADS;
- Khảo sát thực trạng cưỡng chế kê biên tài sản trong THADS của các
cơ quan THADS tỉnh Sơn La, trong đó chú trọng những vấn đề tồn tại, hạn
chế và ngun nhân của nó;
- Tìm ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế kê biên tài
sản trong THADS và nâng cao hiệu quả cưỡng chế kê biên tài sản trong
THADS ở tỉnh Sơn La trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên c u
Đối tượng là những vấn đề lý luận về cưỡng chế kê biên tài sản trong
THADS, các quy định của pháp luật Việt Nam về cưỡng chế kê biên tài sản

trong THADS và thực tiễn tổ chức cưỡng chế kê biên tài sản trong THADS
của các cơ quan THADS ở tỉnh Sơn La.
Cưỡng chế kê biên tài sản trong THADS là một đề tài có thể được
nghiên cứu, tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, việc nghiên cứu đề
tài chỉ tập trung vào những vấn đề lý luận cơ bản về cưỡng chế kê biên tài sản
trong THADS, các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về cưỡng chế
kê biên tài sản trong THADS, không bao xử lý tài sản sau khi kê biên và thực
tiễn tổ chức cưỡng chế kê biên tài sản trong THADS của các cơ quan THADS
ở tỉnh Sơn La trong những năm gần đây. Mặt khác, việc nghiên cứu cũng chỉ
tiếp cận dưới góc độ là một biện pháp cưỡng chế THADS thuộc thẩm quyền
của cơ quan THADS mà khơng nghiên cứu dưới góc độ là một biện pháp
cưỡng chế THADS thuộc thẩm quyền của Thừa phát lại.
5. Phƣơng pháp nghiên c u
Việc nghiên cứu luận văn được dựa trên phương pháp luận của Chủ
nghĩa duy vật biện chứng, Chủ nghĩa duy vật lịch sử; các quan điểm của chủ
nghĩa Mác- Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về Nhà nước và pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải
cách tư pháp ở Việt Nam.


5

Quá trình nghiên cứu sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học
như phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh và thực tiễn. Phương pháp phân
tích, tổng hợp, so sánh được sử dụng để phân tích những vấn đề lý luận,
những quy định của pháp luật về vấn đề nghiên cứu, từ đó khái quát hóa thành
những luận điểm, quan điểm làm cơ sở cho việc nghiên cứu các nội dung tiếp
theo. Phương pháp thống kê và thực tiễn được sử dụng để làm rõ thực trạng
cưỡng chế kê biên tài sản trong THADS tại tỉnh Sơn La, phát hiện được
những hạn chế, bất cập, từ đó đề xuất giải pháp, kiến nghị.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn là cơng trình nghiên cứu tương đối toàn diện về cưỡng chế kê
biên tài sản trong THADS ở tỉnh Sơn La nên có ý nghĩa khoa học và thực tiễn
sau đây:
- Hoàn thiện khái niệm cưỡng chế kê biên tài sản trong THADS; phân
tích làm rõ thêm đặc điểm, ý nghĩa và các yếu tố ảnh hưởng đến cưỡng chế kê
biên tài sản trong THADS;
- Phân tích làm rõ được nội dung các quy định của Luật Thi hành án
dân sự năm 2008, được sửa đổi, bổ sung năm 2014 về cưỡng chế kê biên tài
sản trong THADS;
- Đánh giá được thực trạng các quy định của LTHADS năm 2008, được
sửa đổi, bổ sung năm 2014 về cưỡng chế kê biên tài sản trong THADS và
thực tiễn cưỡng chế kê biên tài sản trong THADS của các cơ quan THADS ở
tỉnh Sơn La;
- Tìm ra những nguyên nhân của hạn chế trong việc thực hiện các quy
định của của LTHADS năm 2008, được sửa đổi, bổ sung năm 2014 về cưỡng
chế kê biên tài sản trong THADS tại các cơ quan THADS ở tỉnh Sơn La và đề
xuất được các kiến nghị nh m nâng cao hiệu quả cưỡng chế kê biên tài sản
trong THADS ở tỉnh Sơn La;
- Luận văn là nguồn tài liệu tham khảo để giảng dạy, học tập của các cơ
sở đào tạo luật, nghiệp vụ THADS và các cơ quan THADS.


6

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu gồm 2 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về cưỡng chế kê biên tài sản trong
THADS.

Chương 2: Thực tiễn thực hiện cưỡng chế kê biên tài sản trong THADS
tại tỉnh Sơn La và kiến nghị.


7

Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CƢỠNG CHẾ KÊ BIÊN
TÀI SẢN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Những vấn đề lý luận về cƣỡng chế kê biên tài sản trong thi
hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của cưỡng chế kê biên tài sản
trong thi hành án dân sự
1.1.1.1. Khái niệm cưỡng chế kê biên tài sản trong thi hành án dân sự
Trong đời sống xã hội, các quy định của pháp luật tạo cơ sở cho các
chủ thể tham gia các quan hệ pháp luật thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ
của mình. Tuy vậy, thực tế cho thấy không phải lúc nào các chủ thể quan hệ
pháp luật cũng thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình, có nhiều
trường hợp vì những lý do nhất định một hoặc nhiều bên chủ thể quan hệ
pháp luật đã không thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của mình đã cam kết, thỏa
thuận. Bởi vậy, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên chủ thể và
những người liên quan cũng như lợi ích chung của xã hội, pháp luật quy định
những cơ chế buộc chủ thể vi phạm phải thực hiện đúng nghĩa vụ, trách
nhiệm của mình, trong đó có việc sử dụng các biện pháp cưỡng chế b ng
quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, tùy vào tính chất, mức độ của hành vi vi
phạm; mục đích phịng ngừa vi phạm; thái độ, ý thức của chủ thể có nghĩa vụ
phải thực hiện…, pháp luật có những quy định cụ thể về cơ quan, tổ chức,
chức danh có thẩm quyền cưỡng chế; các biện pháp cưỡng chế và trình tự, thủ
tục cưỡng chế.
Đối với THADS, pháp luật quy định thẩm quyền, trách nhiệm của cơ

quan THADS, Văn phòng Thừa phát lại, Chấp hành viên trong tổ chức thi
hành án và trình tự, thủ tục thi hành án bảo đảm việc thi hành đúng, đầy đủ,
kịp thời các bản án, quyết định dân sự có hiệu lực thi hành. Vì vậy, khi người
phải thi hành án có điều kiện thi hành án nhưng khơng tự nguyện thi hành thì
s bị áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án tương ứng.


8

Theo đó, chủ thể có thẩm quyền (Chấp hành viên) ra quyết định áp
dụng biện pháp cưỡng chế THADS và tổ chức thực hiện quyết định cưỡng
chế THADS để đảm bảo hiệu quả thi hành án trên thực tế. Theo các nhà khoa
học: "Biện pháp cưỡng chế THADS là biện pháp thi hành án dân sự dùng
quyền lực của Nhà nước buộc người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ
THADS của họ, do Chấp hành viên áp dụng trong trường hợp người phải thi
hành án có điều kiện thi hành án không tự nguyện thi hành án”2
Theo quy định của pháp luật THADS hiện hành có nhiều biện pháp
cưỡng chế THADS. Tùy vào tính chất của nghĩa vụ dân sự phải thi hành,
trong quá trình tổ chức thi hành án Chấp hành viên quyết định áp dụng các
biện pháp cưỡng chế THADS tương ứng được quy định tại Điều 71 Luật Thi
hành án dân sự (LTHADS), bao gồm: Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi,
xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án; trừ vào thu nhập của
người phải thi hành án; kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả
tài sản đang do người thứ ba giữ; khai thác tài sản của người phải thi hành án;
buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ và buộc người phải
thi hành án thực hiện hoặc không được thực hiện công việc nhất định. Như
vậy, "Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do
người thứ ba giữ” là một biện pháp cưỡng chế THADS do chủ thể có thẩm
quyền áp dụng khi người phải thi hành án có điều kiện thi hành án (có tài sản,
thu nhập) nhưng khơng tự nguyện thi hành. Điều này cũng có nghĩa là việc áp

dụng biện pháp "kê biên tài sản” đã thể hiện "tính cưỡng chế” của Nhà nước
do chủ thể có thẩm quyền thực hiện nh m hạn chế quyền định đoạt, quyền sử
dụng đối với tài sản của người phải thi hành án (kể cả trường hợp tài sản của
người phải thi hành án đang do người thứ ba giữ). Sau khi bị áp dụng biện
pháp cưỡng chế kê biên tài sản, người phải thi hành án khơng cịn quyền định
đoạt đối với tài sản (như không được chuyển nhượng, thừa kế, tặng cho, thế
chấp tài sản...) mà có thể chỉ có thể được giao quản lý, bảo quản tài sản, khai
Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Luật thi hành án dân sự Việt Nam, trang 195

2


9

thác, sử dụng tài sản trong thời gian chờ xử lý của cơ quan THADS có thẩm
quyền. Tài sản của người phải thi hành án sau khi bị kê biên s được xử lý
theo các hình thức pháp luật quy định để thi hành án như bán lấy tiền để thi
hành án hoặc giao cho người được thi hành án.
Như vậy, từ những vấn đề nêu trên có thể đi đến kết luận: Cưỡng chế
kê biên tài sản trong thi hành án dân sự là biện pháp cưỡng chế thi hành án
dân sự được Chấp hành viên áp dụng nhằm hạn chế quyền định đoạt, quyền
sử dụng tài sản của người phải thi hành án và xử lý tài sản của người phải thi
hành án để thi hành án.
1.1.1.2. Đặc điểm của cưỡng chế kê biên tài sản
Cưỡng chế kê biên tài sản là một biện pháp cưỡng chế trong THADS vì
vậy, ngồi các đặc đặc điểm chung của cưỡng chế THADS như được bảo đảm
b ng quyền lực nhà nước; được áp dụng khi người phải thi hành án có điều
kiện thi hành án nhưng khơng tự nguyện thi hành; người phải thi hành án phải
chịu chi phí cưỡng chế thi hành án...cưỡng chế kê biên tài sản còn có một số
đặc điểm khác biệt sau đây:

Một là, cưỡng chế kê biên tài sản là cơ sở đảm bảo thi hành các khoản
nghĩa vụ dân sự về tiền.
Trong các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, phần "dân sự" được
tuyên gồm có các khoản bồi thường thiệt hại, tiền phạt, tịch thu tài sản, truy
thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí. Vì vậy,
ngồi phần quyết định việc xử lý vật chứng, tài sản thì để thi hành các nghĩa
vụ về tiền (bồi thường, tiền phạt, án phí), Chấp hành viên phải xác minh điều
kiện thi hành án của người phải thi hành án để có cơ sở áp dụng biện pháp thi
hành án phù hợp; nếu người phải thi hành án có điều kiện thi hành án (có tài
sản, thu nhập) mà khơng tự nguyện thi hành thì Chấp hành viên áp dụng biện
pháp cưỡng chế kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án. Trên cơ sở kết quả
cưỡng chế kê biên tài sản, Chấp hành viên s thực hiện các trình tự, thủ tục xử
lý tài sản để thi hành án (thông báo cho đương sự về việc lựa chọn tổ chức


10

thẩm định giá tài sản, thỏa thuận việc xử lý tài sản; ký hợp đồng với tổ chức
đấu giá tài sản để bán tài sản và thu tiền thi hành án ...). Từ đó, có thể nói r ng
để thi hành các khoản nghĩa vụ về tiền, nếu người phải thi hành án không tự
nguyện thi hành án trong khi có điều kiện thi hành thì biện pháp cưỡng chế kê
biên tài sản là biện pháp duy nhất để đảm bảo xử lý tài sản để thi hành án.
Hai là, đối tượng của biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản là động sản,
bất động sản hoặc các quyền tài sản khác.
Như đã đề cập ở trên, để thi hành nghĩa vụ về tiền thì cần phải kê biên
tài sản của người phải thi hành án. Theo quy định của Điều 105 Bộ luật Dân
sự năm 2015 quy định thì "Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài
sản. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có
thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”, vì vậy, để đảm
bảo thi hành án thì các tài sản là bất động sản, động sản dù thể hiện dưới dạng

vật, tiền hay giấy tờ có giá đều là đối tượng của cưỡng chế THADS. Tuy
nhiên, trong biện pháp cưỡng chế tài sản được áp dụng thì cưỡng chế kê biên
tài sản thường được áp dụng nhiều nhất đối với bất động sản (nhà ở, cơng
trình xây dựng gắn liền với đất...); động sản (phương tiện giao thơng, máy
móc, dây chuyền sản xuất...) và quyền tài sản (quyền sử dụng đất; quyền thuê
quyền sử dụng đất; quyền sở hữu trí tuệ,...). Thực tế THADS cho thấy đây là
những tài sản thường có giá trị lớn, vì vậy việc áp dụng biện pháp cưỡng chế
kê biên các tài sản này thường thu được số tiền thi hành án lớn và có ý nghĩa
quan trọng trong việc đảm bảo hiệu lực, hiệu quả thi hành án.
Ba là, cưỡng chế kê biên tài sản là nh m "hạn chế" quyền sở hữu,
quyền sử dụng tài sản của người phải thi hành án.
Mục đích của việc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản là tạo
cơ sở cho việc thực hiện các trình tự, thủ tục xử lý tài sản. Vì vậy, đặc trưng
của biện pháp cưỡng chế này là "hạn chế" quyền sở hữu, sử dụng tài sản của
người phải thi hành án và đặc điểm này có sự khác biệt nhất định so với các
biện pháp có tính cưỡng chế khác liên quan đến tài sản. Ví dụ như:


11

- So với các biện pháp bảo đảm thi hành án (Phong tỏa tài khoản; tạm
giữ tài sản, giấy tờ; tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng
về tài sản). Đây là những biện pháp được áp dụng nh m "hạn chế tạm thời"
quyền sử dụng, định đoạt tài sản nh m ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài
sản, trốn tránh việc thi hành án và đảm bảo tính nguyên trạng của tài sản; tạo
cơ sở cho Chấp hành viên xác minh tài sản bị áp dụng biện pháp bảo đảm có
thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án hay không để từ đó
quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế hay chấm dứt việc áp dụng biện
pháp bảo đảm (chấm dứt việc phong tỏa tài sản, tài khoản; trả lại tài sản, giấy
tờ cho người có quyền sở hữu, sử dụng; chấm dứt việc tạm dừng đăng ký,

chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản).
- So với biện pháp khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền,
giấy tờ có giá của người phải thi hành án; biện pháp trừ vào thu nhập của
người phải thi hành án. Đây là những biện pháp cưỡng chế mà khi áp dụng
người phải thi hành án bị chấm dứt quyền sở hữu đối với khoản tiền bị khấu
trừ và quyền sở hữu đối với giá trị của giấy tờ có giá đó.
- So với biện pháp cưỡng chế buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền
tài sản, giấy tờ. Đây là biện pháp cưỡng chế trong trường hợp người phải thi
hành án khơng cịn quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản nhưng đang
chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật đối với tài sản đó. Vì vậy, biện pháp cưỡng
chế này nh m chấm dứt quyền chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật đối với tài
sản, giấy tờ (ví dụ như: cưỡng chế trả nhà cho thuê, cưỡng chế giao nhà cho
người mua trúng đấu giá tài sản).
Bốn là, tài sản bị kê biên phải thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người
phải thi hành án.
Về nguyên tắc, nghĩa vụ thi hành án được cá thể hóa theo bản án, quyết
định có hiệu lực thi hành, vì vậy, để đảm bảo cưỡng chế kê biên tài sản đúng
pháp luật thì tài sản bị kê biên phải thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người
phải thi hành án. Tuy nhiên, thực tế cho thấy r ng tài sản của người phải thi


12

hành án bị kê biên có thể là tài sản riêng; tài sản thuộc sở hữu chung của
người phải thi hành án với cá nhân, tổ chức khác (sở hữu chung theo phần, sở
hữu chung của vợ chồng…). Vì vậy, khi cưỡng chế kê biên tài sản của người
phải thi hành án, Chấp hành viên phải xác minh rõ tính chất sở hữu tài sản của
người phải thi hành án; trường hợp tài sản kê biên thuộc sở hữu chung của
người phải thi hành án với cá nhân, tổ chức khác thì căn cứ từng trường hợp
cụ thể để xác định phần quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản của người phải

thi hành án là đối tượng kê biên. Khi kê biên tài sản của người phải thi hành
án, nếu có tranh chấp phát sinh thì Chấp hành viên phải thông báo quyền của
người tranh chấp về việc đề nghị cơ quan có thẩm quyền hoặc khởi kiện yêu
cầu Tòa án giải quyết. Kết quả giải quyết tranh chấp của cơ quan có thẩm
quyền hoặc Tịa án là cơ sở để Chấp hành viên xử lý tài sản hoặc giải tỏa kê
biên tài sản.
1.1.1.3. Ý nghĩa của cưỡng chế kê biên tài sản
Thực tiễn công tác THADS cho thấy cưỡng chế kê biên tài sản được áp
dụng nhiều nhất trong số các biện pháp cưỡng chế THADS, do cưỡng chế kê
biên tài sản trong THADS có các ý nghĩa sau đây:
Thứ nhất, cưỡng chế kê biên tài sản trong THADS đảm bảo hiệu lực
của bản án, quyết định được thi hành.
Bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật là kết quả xét xử, giải quyết
tranh chấp trong đời sống xã hội, để đảm bảo hiệu lực của bản án, quyết định
đòi hỏi người được thi hành án, người phải thi hành án và cơ quan, tổ chức, cá
nhân liên quan phải nghiêm chỉnh chấp hành, nếu không tự nguyện thi hành
nghĩa vụ của mình thì s bị áp dụng biện pháp cưỡng chế. Vì vậy, nếu người
phải thi hành án có tài sản mà khơng tự nguyện thi hành hoặc có hành vi tẩu
tán, hủy hoại tài sản thì việc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản s
được áp dụng nh m giữ nguyên hiện trạng tài sản để thực hiện các trình tự xử
lý tài sản tiếp sau để thi hành án; ngăn ngừa việc khiếu nại, tố cáo hoặc tranh
chấp phát sinh khi tài sản của người phải thi hành án đã được chuyển nhượng


13

trái pháp luật cho tổ chức, cá nhân khác. Bên cạnh đó, cưỡng chế kê biên tài
sản cịn là cơ sở đánh giá hiệu quả xét xử khi thông qua việc kê biên tài sản s
phát hiện những thiếu sót, vi phạm trong bản án như sự khác nhau giữa quyết
định của bản án với hiện trạng tài sản thực tế của đương sự, quyết định về tài

sản không rõ, khó thi hành ....Từ đó, cơ quan THADS đề nghị Tịa án đã xét
xử đính chính, sửa chữa sai sót, giải thích bản án hoặc đề nghị người có thẩm
quyền xem xét lại bản án theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm.
Thứ hai, cưỡng chế kê biên tài sản đảm bảo hiệu quả công tác THADS.
Cưỡng chế kê biên tài sản để thi hành án phần lớn thường được áp
dụng đối với các trường hợp thi hành nghĩa vụ về tiền và đối tượng của biện
pháp cưỡng chế này là động sản, bất động sản, quyền tài sản. Vì vậy, nếu
người phải thi hành án có tài sản để thi hành án mà khơng tự nguyện thi hành
thì Chấp hành viên phải áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản. Thực tế
cho thấy số việc phải thi hành nghĩa vụ thi hành án về tiền chiếm tỷ lệ lớn
(khoảng 95%), đặc biệt là các việc thi hành án trong các vụ án kinh doanh
thương mại thường có giá trị lớn, có tài sản đảm bảo (nhà xưởng, dây chuyền
sản xuất, tàu biển, nhà ở, quyền sử dụng đất...) nên việc kê biên có ý nghĩa
quan trọng cho việc xử lý tài sản nh m thu tiền thi hành án. Do đó, việc kê
biên, xử lý tài sản s góp phần đảm bảo hiệu quả cơng tác THADS trên thực
tế, nhất là giá trị thi hành án về tiền.
Thứ ba, cưỡng chế kê biên tài sản trong THADS góp phần nâng cao ý
thức pháp luật của các chủ thể trong xã hội.
Cưỡng chế kê biên tài sản cũng như các biện pháp cưỡng chế khác
được áp dụng thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật đối với trường hợp
đương sự hoặc cá nhân, tổ chức liên quan chống đối, trì hỗn, cản trở việc thi
hành án. Thực tế cho thấy r ng, việc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài
sản nh m hạn chế quyền sở hữu, sử dụng tài sản của người phải thi hành án
thể hiện sự răn đe, tính nghiêm khắc và thu hút sự quan tâm của xã hội. Vì
thế, áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản và tổ chức thi hành biện


14

pháp này trên thực tế được coi là một kênh quan trọng để tuyên truyền nâng

cao ý thức pháp luật của đương sự và các chủ thể khác về trách nhiệm tôn
trọng, chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, củng
cố lịng tin của nhân dân vào hoạt động xét xử và thi hành án của Tòa án và
cơ quan THADS.
1.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến cưỡng chế kê biên tài sản trong thi
hành án dân sự
Cưỡng chế kê biên tài sản là biện pháp cưỡng chế do cơ quan THADS,
Chấp hành viên phối hợp với các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan thực
hiện. Tuy nhiên, thực tế cho thấy r ng hiệu lực, hiệu quả kê biên chịu ảnh
hưởng của nhiều yếu tố, cụ thể là một số yếu tố cơ bản sau:
1.1.2.1. Điều kiện kinh tế - xã hội
Điều kiện kinh tế- xã hội có ảnh hưởng nhất định đối với hoạt động
THADS nói chung, cưỡng chế kê biên tài sản trong THADS nói riêng. Điều
này thể hiện cụ thể ở thực tế là điều kiện kinh tế khó khăn s ảnh hưởng đến
điều kiện thi hành án của người phải thi hành án cũng như thực hiện các thỏa
thuận của đương sự trong quá trình thi hành án. Đặc biệt là khi người phải thi
hành án khơng có điều kiện để thi hành nghĩa vụ về tiền nhưng có tài sản duy
nhất là nhà ở, quyền sử dụng đất. Bên cạnh đó, điều kiện kinh tế - xã hội còn
ảnh hưởng đến việc xử lý tài sản sau cưỡng chế kê biên, bởi vì thực tế có rất
nhiều tài sản qua nhiều lần đấu giá để thi hành án nhưng khơng có người mua,
thậm chí do tâm lý xã hội nhiều người ngại mua tài sản thi hành án vì có thể
s gặp rắc rối khi có tranh chấp sau khi mua được tài sản hay phải mất nhiều
thời gian do phải chờ cơ quan THADS và tổ chức đấu giá tài sản giao tài sản;
làm các thủ tục chuyển giao quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản.... Từ đó có
thể thấy r ng khi áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản, Chấp hành
viên cần phải tính đến những điều kiện kinh tế - xã hội thực tế của đất nước,
của từng địa phương và của cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế kê biên tài sản để
thi hành án.



15

1.1.2.2. Hệ thống quy phạm pháp luật về thi hành án dân sự
THADS là việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật để bảo đảm trực tiếp quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương
sự và cá nhân, tổ chức liên quan. Trong THADS, pháp luật là cơ sở quan
trọng để cơ quan THADS, Chấp hành viên tổ chức thi hành án. Vì vậy, hệ
thống quy phạm pháp luật về THADS và các quy phạm pháp luật có liên quan
là yếu tố ảnh hưởng, chi phối mang tính quyết định đối với hiệu quả THADS
nói chung, hiệu quả cưỡng chế kê biên tài sản nói riêng. Hệ thống quy phạm
pháp luật về THADS là cơ sở để cưỡng chế kê biên tài sản được quy định
trong LTHADS, Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của LTHADS và các văn
bản quy phạm pháp luật có liên quan ( Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân
sự, Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Đấu giá tài sản....). Vì vậy, để hoạt động
cưỡng chế kê biên tài sản có hiệu lực, hiệu quả thì các quy định của pháp luật
phải thống nhất, minh bạch và khả thi. Điều này đòi hỏi các cơ quan có thẩm
quyền phải thường xuyên rà soát các quy định pháp luật để kịp thời bãi bỏ các
quy định không khả thi và bổ sung các quy định mới phù hợp với tình hình,
u cầu cơng tác thi hành án (Ví dụ như: trong thời gian tới cần sửa đổi, bổ
sung quy định hiện hành về đăng ký tài sản; xử lý vi phạm hành chính, xử lý
hình sự đối với các hành vi chống đối, cản trở việc thi hành án).
1.1.2.3. Mơ hình tổ chức các cơ quan thi hành án dân sự
Ở nước ta hiện nay, các cơ quan THADS được tổ chức trong Hệ thống
THADS từ Trung ương đến địa phương, theo đó cơ quan THADS có chức
năng tổ chức thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực thi hành, vì vậy về
nguyên tắc, pháp luật quy định cơ quan THADS phải độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật trong quá trình thi hành án. Bản án, quyết định có hiệu lực thi hành
đã quyết định cụ thể quyền và nghĩa vụ của đương sự và người có quyền,
nghĩa vụ liên quan, do đó q trình THADS nói chung cũng như cưỡng chế kê

biên tài sản để thi hành án phải chịu sự giám sát, kiểm sát, kiểm tra, thanh tra


16

của cơ quan có thẩm quyền và xã hội. Việc cơ quan THADS, Chấp hành viên
và tổ chức, cá nhân liên quan thực hiện đúng các quy định pháp luật trong quá
trình cưỡng chế kê biên tài sản là điều kiện đảm bảo hiệu quả cưỡng chế kê
biên tài sản, vì vậy, địi hỏi Chấp hành viên, cơng chức THADS phải nâng cao
trách nhiệm, tính chủ động trong cơng tác thi hành án và không bị lệ thuộc,
chịu ảnh hưởng từ những can thiệp trái pháp luật để đảm bảo quá trình cưỡng
chế kê biên tài sản được khách quan, đúng pháp luật. Điều này đòi hỏi các cơ
quan THADS phải được tổ chức và hoạt động theo mơ hình phù hợp để đảm
bảo hiệu quả của việc kiểm tra, thanh tra, giám sát, kiểm sát có hiệu quả q
trình THADS nói chung, cưỡng chế kê biên tài sản trong THADS nói riêng.
1.1.2.4. Năng lực tổ chức thi hành án của Chấp hành viên, công chức
các cơ quan thi hành án dân sự
Pháp luật quy định cơ quan THADS chức năng tổ chức thi hành án,
trong đó Chấp hành viên là người có thẩm quyền tổ chức thi hành án với các
nhiệm vụ, quyền hạn là: kịp thời tổ chức thi hành vụ việc được phân công; ra
các quyết định về thi hành án theo thẩm quyền; thi hành đúng nội dung bản
án, quyết định; tuân thủ, áp dụng đúng các trình tự, thủ tục thi hành án để bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, của đương sự, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan; thực hiện nghiêm chỉnh chuẩn mực đạo đức nghề
nghiệp Chấp hành viên... Với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn như vậy, Chấp
hành viên có vai trị trung tâm trong việc đảm bảo tính khả thi, hiệu quả thi
hành các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Điều này cũng có nghĩa là
hiệu quả THADS, hiệu quả cưỡng chế kê biên tài sản phụ thuộc chủ yếu vào
năng lực tổ chức thi hành án của Chấp hành viên (kiến thức, kỹ năng, kinh
nghiệm, phẩm chất chính trị, đạo đức, khả năng áp dụng đúng pháp luật trong

thực thi nhiệm vụ...).
Trong cưỡng chế kê biên tài sản, năng lực của Chấp hành viên thể hiện
qua vai trò của người đảm bảo sự tuân thủ các trình tự, thủ tục THADS, đặc
biệt là ở kinh nghiệm chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp để đảm bảo hiệu


17

quả cưỡng chế kê biên tài sản. Do đó, để đảm bảo năng lực tổ chức thi hành
án, đòi hỏi Chấp hành viên phải là người được đào tạo, bồi dưỡng bài bản,
thường xuyên cả về mặt lý thuyết và kinh nghiệm thực tiễn để kịp thời cập
nhật thông tin, tri thức, kinh nghiệm để có thể áp dụng vào việc thực hiện
chức năng, nhiệm vụ thi hành án được giao. Ngoài ra, năng lực tổ chức thi
hành án của Chấp hành viên cịn được đảm bảo thơng qua việc lựa chọn được
những Chấp hành viên có đủ các yếu tố về ý thức chính trị, đạo đức như: tuân
thủ Hiến pháp và pháp luật, tuyệt đối trung thành với lý tưởng của Đảng, có
bản lĩnh, ý chí, đạo đức nghề nghiệp, tinh thần kiên quyết bảo vệ công lý để
có thể vững vàng trước sức ép, ảnh hưởng, tác động từ những tiêu cực của xã
hội và sự chỉ đạo, can thiệp trái pháp luật của người có chức vụ, quyền hạn,
những người thân trong quá trình thực hiện nhiệm vụ THADS.
Thực tế thời gian qua cho thấy r ng số việc các cơ quan THADS phải
tổ chức thi hành ngày càng tăng, nhất là có nhiều việc thi hành án có giá trị
lớn, phức tạp cần phải áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản, do đó để
đảm bảo hiệu quả cưỡng chế kê biên tài sản thì đội ngũ Chấp hành viên cần
được đào tạo, tập huấn thường xuyên để nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ, bản lĩnh, trách nhiệm và phải được bố trí, phân cơng tổ chức thi
hành án phù hợp với từng ngạch Chấp hành viên (sơ cấp, trung cấp và cao
cấp). Ngoài ra, để đảm bảo năng lực tổ chức thi hành án của Chấp hành viên
thì việc lựa chọn, bổ nhiệm Chấp hành viên cần đảm bảo đúng các điều kiện
theo quy định để quá trình tổ chức thi hành án thực sự là q trình thực thi

cơng lý, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các bên, góp phần thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.2.5. Các điều kiện đảm bảo cho hoạt động của Chấp hành viên,
công chức thi hành án dân sự
Trong quá trình thi hành án, khi áp dụng và tổ chức thực hiện biện pháp
cưỡng chế kê biên tài sản thì Chấp hành viên phải đối mặt với nhiều khó
khăn, áp lực như yêu cầu tuân thủ pháp luật; sự cản trở, chống đối của người


18

phải thi hành án; sự tác động, chi phối của các cơ quan, tổ chức liên quan...
Do đó, để Chấp hành viên thực sự độc lập, tuân thủ pháp luật trong quá trình
cưỡng chế kê biên tài sản thì các điều kiện đảm bảo cho hoạt động của Chấp
hành viên có ý nghĩa quan trọng. Đó là các điều kiện vật chất, phương tiện,
trang thiết bị phục vụ công tác THADS và chế độ đãi ngộ đối với Chấp hành
viên, công chức THADS như trụ sở, kho tang vật, phương tiện cưỡng chế,
công cụ hỗ trợ... Thực tế cho thấy r ng các cơ quan THADS hiện nay mặc dù
được trang bị một số công cụ, trang thiết bị hỗ trợ thi hành án nhưng thực tế
chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cũng như chưa tương xứng với thẩm quyền
của Chấp hành viên. Ví dụ như: hiện nay Chấp hành viên khơng có quyền
khởi tố hành vi khơng chấp hành án; khơng có quyền khám người, khám chỗ
ở để tìm tài sản có giá trị mà đương sự đang cầm giữ, cất giấu... Vì vậy nếu
khơng có sự hỗ trợ của các cơ quan, tổ chức khác thì khó có thể tổ chức
cưỡng chế kê biên tài sản có hiệu quả. Từ đó, quy định pháp luật về cưỡng
chế THADS nói chung, cưỡng chế kê biên tài sản nói riêng cần phải phù hợp
với điều kiện vật chất, trang thiết bị, phương tiện phục vụ công tác THADS
với những đặc thù nhất định nh m đảm bảo hiệu quả thi hành án trong thực tế.
1.1.2.6. Ý thức chấp hành pháp luật của đương sự và cơ quan, tổ chức,
cá nhân liên quan

Yêu cầu tôn trọng, chấp hành nghiêm chỉnh các bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật là ngun tắc có tính hiến định, do đó, hiệu quả THADS
nói chung, hiệu quả cưỡng chế kê biên tài sản nói riêng cũng phụ thuộc nhiều
vào ý thức chấp hành pháp luật của các đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân
liên quan. Thực tiễn cho thấy r ng các bản án, quyết định có hiệu lực pháp
luật là kết quả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng và các đương sự
liên quan đã phải tốn nhiều thời gian, chi phí cho q trình tố tụng, do đó đến
giai đoạn thi hành án nếu các đương sự nhận thức đầy đủ được trách nhiệm,
nghĩa vụ thi hành án và tự nguyện, tích cực phối hợp thi hành thì s thuận lợi,
đảm bảo hiệu quả thi hành án.


×