Tải bản đầy đủ (.pdf) (400 trang)

Giáo trình luật thi hành án dân sự việt nam chủ biên nguyễn công bình,

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.3 MB, 400 trang )


394-2018/CXBIPH/53-188/CAND

2


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

Giáo trình

(Tái bản lần thứ 3 có sửa đổi, bổ sung)

NHÀ XUẤT BẢN CƠNG AN NHÂN DÂN
HÀ NỘI - 2018

3


Chủ biên
TS. NGUYỄN CƠNG BÌNH
TS. BÙI THỊ HUYỀN

Tập thể tác giả
1. TS. NGUYỄN CƠNG BÌNH

Chương I & III

2. TS. NGUYỄN TRIỀU DƯƠNG

Chương IV


3. TS. NGUYỄN THỊ THU HÀ

Chương VII

4. TS. BÙI THỊ HUYỀN

Chương II

5. TS. TRẦN PHƯƠNG THẢO

Chương VI

6. PGS.TS. TRẦN ANH TUẤN

Chương V

4


LỜI GIỚI THIỆU
Thi hành án dân sự là một trong những nội dung cơ bản
của tư pháp dân sự, có tác động trực tiếp tới hiệu quả của việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể thơng qua
hoạt động tư pháp. Vì vậy, thi hành án dân sự luôn được Nhà
nước và xã hội quan tâm.
Thời gian qua, cùng với những thành tựu của công cuộc
cải cách tư pháp, tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở
nước ta cũng đã có nhiều tiến bộ và ngày càng có hiệu quả.
Tuy vậy, để nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động thi hành
án dân sự, ngày 14 tháng 11 năm 2008 tại kì họp thứ 4 Quốc

hội Khố XII đã thơng qua Luật thi hành án dân sự và ngày 25
tháng 11 năm 2014 tại kì họp thứ 8 Quốc hội Khố XIII đã
thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành
án dân sự. Việc Nhà nước ban hành Luật thi hành án dân sự
Việt Nam và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi
hành án dân sự đã đánh dấu bước phát triển mới của pháp
luật thi hành án dân sự Việt Nam và kịp thời đáp ứng nhu cầu
điều chỉnh của pháp luật đối với các quan hệ phát sinh trong
thi hành án dân sự.
Trong chương trình đào tạo cử nhân luật, Luật thi hành án
dân sự Việt Nam là môn học giáo dục chuyên nghiệp. Để đáp
ứng nhu cầu học tập, nghiên cứu và tìm hiểu pháp luật thi
5


hành án dân sự của các sinh viên, cán bộ giảng dạy, nghiên
cứu và hoạt động thực tiễn pháp luật, tập thể giảng viên Bộ
môn luật tố tụng dân sự của Trường Đại học Luật Hà Nội đã
biên soạn cuốn Giáo trình luật thi hành án dân sự Việt Nam.
Nội dung cuốn Giáo trình này bao gồm bảy chương trình bày
những vấn đề lí luận cơ bản về luật thi hành án dân sự như
khái niệm luật thi hành án dân sự, nguồn của luật thi hành án
dân sự, quan hệ pháp luật thi hành án dân sự, xã hội hố thi
hành án dân sự v.v.. Ngồi ra, cịn phân tích làm rõ các quy
định của pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam hiện hành về
thời hiệu, thẩm quyền và nguyên tắc thi hành án dân sự; nhiệm
vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong thi
hành án dân sự; đối tượng, thẩm quyền và thủ tục thi hành án
dân sự v.v.. Hi vọng cuốn Giáo trình này sẽ đáp ứng được yêu
cầu của các độc giả quan tâm đến luật thi hành án dân sự.

Mặc dù tập thể tác giả đã cố gắng trình bày các vấn đề về
luật thi hành án dân sự trong cuốn Giáo trình một cách rõ
ràng và có hệ thống nhưng vẫn khó tránh khỏi những thiếu sót.
Chúng tơi rất mong nhận được ý kiến góp ý của bạn đọc.
Xin trân trọng cảm ơn!
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

6


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

BPKCTT
BLTTDS

Biện pháp khẩn cấp tạm thời
Bộ luật tố tụng dân sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

LCT

Luật cạnh tranh

LTHADS

Luật thi hành án dân sự


LSĐBSLTHADS Luật sửa đổi, bổ sung Luật thi hành
án dân sự
LTCTAND

Luật tổ chức toà án nhân dân

LTCVKSND
LTTTM

Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân
Luật trọng tài thương mại

PLTHADS

Pháp lệnh thi hành án dân sự

TANDTC

Toà án nhân dân tối cao

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

7


8



CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN
VỀ LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VIỆT NAM

I. KHÁI NIỆM, ĐỐI TƯỢNG ĐIỀU CHỈNH, PHƯƠNG
PHÁP ĐIỀU CHỈNH VÀ NGUỒN CỦA LUẬT THI HÀNH
ÁN DÂN SỰ VIỆT NAM
1. Khái niệm luật thi hành án dân sự Việt Nam
Quá trình bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các đương
sự bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau. Việc giải quyết vụ
việc dân sự tại toà án tuy rất quan trọng nhưng thực ra mới
chỉ là giai đoạn đầu của quá trình bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự. Trong giai đoạn này, tồ án mới chỉ làm
rõ các tình tiết của vụ việc dân sự và áp dụng các quy phạm
pháp luật quyết định quyền và nghĩa vụ của các đương sự.
Quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong vụ việc dân sự đã
được toà án, trọng tài, hội đồng xử lí vụ việc cạnh tranh quyết
định muốn trở thành hiện thực thì phải thơng qua việc thi
hành án. Trong đó, người có quyền thi hành án yêu cầu người
có nghĩa vụ thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ thi hành án
của họ đối với mình và người có nghĩa vụ thi hành án phải
thực hiện nghĩa vụ của mình vì lợi ích của người có quyền thi
hành án. Do vậy, theo nghĩa chung thì thi hành án dân sự là
9


thực hiện bản án, quyết định dân sự của toà án, trọng tài, hội
đồng xử lí vụ việc cạnh tranh.
Thi hành án dân sự xuất phát và gắn liền với hoạt động xét
xử của toà án, trọng tài, hội đồng xử lí vụ việc cạnh tranh. Tuy

vậy, theo nghĩa một thuật ngữ pháp lí thì cịn có các ý kiến
khác nhau về thi hành án dân sự.(1) Ý kiến thứ nhất cho rằng thi
hành án dân sự là một dạng của hoạt động hành chính, bởi thi
hành án dân sự là hoạt động mang tính điều hành và chấp hành
mà điều hành và chấp hành là đặc trưng của hoạt động hành
chính. Mặt khác, thi hành án dân sự ở nước ta lại khơng do tồ
án - cơ quan tư pháp tổ chức. Ý kiến thứ hai cho rằng thi hành
án dân sự là một dạng của hoạt động hành chính-tư pháp vì thi
hành án dân sự là hoạt động mang tính điều hành và chấp hành
quyết định của tồ án - cơ quan tư pháp, trọng tài, hội đồng xử
lí vụ việc cạnh tranh. Hơn nữa, trong q trình thi hành án dân
sự còn phải tiến hành các hoạt động mang tính hành chính như
chứng thực bản sao giấy tờ, việc uỷ quyền thi hành án dân sự,
trước bạ chuyển quyền sở hữu nhà cho người được thi hành án
v.v.. Ý kiến thứ ba lại cho rằng thi hành án dân sự là một dạng
của hoạt động tư pháp vì thi hành án dân sự gắn liền với hoạt
động xét xử, mang tính tài sản, độc lập và do cơ quan tư pháp
có thẩm quyền tổ chức thực hiện. Qua nghiên cứu, chúng tơi
thấy ý kiến này là có cơ sở khoa học hơn cả.
(1).Xem: Cơng trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nước “Luận cứ khoa học và
thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong
giai đoạn mới” do Viện nghiên cứu khoa học pháp lí thuộc Bộ tư pháp chủ trì
thực hiện năm 2003, tr. 13; Cơng trình nghiên cứu khoa học cấp bộ “Những
quan điểm cơ bản về BLTTDS Việt Nam” do Viện nhà nước và pháp luật thuộc
Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia chủ trì thực hiện năm 2001,
tr. 63 và Tạp chí luật học, số 2/2001, tr. 22.

10



Thi hành án dân sự gắn liền với hoạt động xét xử, giải
quyết tranh chấp vì xét xử, giải quyết tranh chấp và thi hành án
dân sự là hai mặt của q trình bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự. Xét xử, giải quyết tranh chấp là tiền đề của
thi hành án dân sự, khơng có xét xử thì khơng có thi hành án
dân sự. Ngược lại, thi hành án dân sự tiếp nối với xét xử làm
cho bản án, quyết định có hiệu lực trên thực tế nên có tác dụng
củng cố kết quả xét xử.
Thi hành án dân sự mang tính tài sản - đặc trưng của quan
hệ dân sự. Trên thực tế, phần lớn các bản án, quyết định dân sự
được đưa ra thi hành đều quyết định các vấn đề về tài sản như
chia thừa kế, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
v.v.. Thông qua thi hành án dân sự, người phải thi hành án phải
thực hiện các nghĩa vụ về tài sản của họ và người được thi
hành án dân sự sẽ nhận được các quyền, lợi ích về tài sản.
Thi hành án dân sự mang tính độc lập - đặc trưng của hoạt
động tư pháp. Thi hành án là q trình diễn ra phức tạp, trong đó
cơ quan thi hành án dân sự thường phải chịu áp lực, tác động từ
nhiều phía. Để bảo đảm hiệu quả của thi hành án dân sự thì cơ
quan thi hành án dân sự và chấp hành viên phải được độc lập và
không cá nhân, cơ quan, tổ chức nào được can thiệp trái pháp
luật vào quá trình thi hành án dân sự. Vì vậy, khác với các văn
bản quy phạm pháp luật quy định về thi hành án dân sự được
ban hành trước, Pháp lệnh thi hành án dân sự (PLTHADS) năm
2004 và Luật thi hành án dân sự (LTHADS) đã quy định cơ quan
thi hành án dân sự tách khỏi các cơ quan tư pháp địa phương,
không phụ thuộc về tổ chức và quản lí của các cơ quan này.
Thi hành án dân sự do cơ quan thi hành án dân sự - cơ quan
11



tư pháp tổ chức thực hiện. Việc thực hiện quyền tư pháp của
Nhà nước do nhiều cơ quan tư pháp thực hiện và toà án chỉ là
một trong các cơ quan đó. Cơ quan thi hành án dân sự có chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn thực hiện quyền tư pháp của Nhà
nước cho nên cơ quan thi hành án dân sự là một trong các cơ
quan tư pháp. Để xã hội hố thi hành án, các văn phịng thừa
phát lại cũng được tổ chức thi hành án đối với một số bản án,
quyết định có hiệu lực thi hành. Tuy vậy, việc tổ chức thi hành
án dân sự của văn phòng thừa phát lại trong một số trường hợp
vẫn chịu sự kiểm soát của cơ quan thi hành án dân sự như
trường hợp cưỡng chế thi hành án dân sự.(1)
Ngoài ra, để thực hiện các bản án, quyết định được đưa ra
thi hành thì trong quá trình thi hành án dân sự đôi khi các chủ
thể tham gia thi hành án còn phải tiến hành các hoạt động như
yêu cầu cơ quan có thẩm quyền chứng thực bản sao giấy tờ,
việc uỷ quyền thi hành án, trước bạ chuyển quyền sở hữu nhà
cho người được thi hành án v.v.. Tuy vậy, những hoạt động
này không phải là hoạt động cơ bản, chỉ mang tính bổ trợ cho
việc thi hành bản án, quyết định dân sự.
Thi hành án dân sự là nhằm mục đích đưa bản án, quyết
định dân sự ra thực hiện trên thực tế. Do vậy, đối tượng thi
hành án dân sự trước hết phải là các bản án, quyết định giải
quyết các vụ việc dân sự, sau đó là các quyết định về tài sản
trong các bản án hình sự, hành chính của tồ án. Hiện nay,
(1).Xem: Nghị định của Chính phủ số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 về tổ chức
và hoạt động của thừa phát lại thực hiện thí điểm ở Thành phố Hồ Chí Minh; Nghị
định của Chính phủ số 135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013 sửa đổi, bổ sung tên gọi
và một số điều của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 về tổ chức và
hoạt động của thừa phát lại thực hiện thí điểm tại Thành phố Hồ Chí Minh.


12


nhìn chung pháp luật về thi hành án dân sự của các nước trên
thế giới đều quy định đối tượng thi hành án dân sự theo hướng
này. Tuy vậy, pháp luật về thi hành án dân sự của một số nước
lại quy định đối tượng thi hành án dân sự bao gồm cả các quyết
định giải quyết tranh chấp về tài sản của cơ quan, tổ chức khác
như quyết định của cơ quan thuế (Thuỵ Điển), quyết định của
trọng tài (Pháp, Đức và Thuỵ Điển) hoặc các thoả thuận về
quyền, nghĩa vụ dân sự của các đương sự (Pháp, Nhật Bản). Sở
dĩ ở nhiều nước pháp luật về thi hành án dân sự quy định đối
tượng thi hành án dân sự bao gồm cả các quyết định của các cơ
quan, tổ chức khác và các thoả thuận về quyền, nghĩa vụ dân
sự của các đương sự vì theo pháp luật về thi hành án dân sự
của các nước này toà án là cơ quan có quyền hạn, nhiệm vụ
quản lí thi hành án và ra quyết định thi hành án. Mặt khác, đây
đều là các quyết định giải quyết tranh chấp về tài sản hay thoả
thuận về quyền, nghĩa vụ đối với tài sản và trước khi ra quyết
định thi hành án tồ án đã xem xét tính hợp pháp và tính có căn
cứ của chúng. Do vậy, về hình thức tuy là thi hành quyết định
của các cơ quan, tổ chức khác hoặc sự thoả thuận của các
đương sự nhưng về nội dung thực chất vẫn là thi hành quyết
định dân sự của toà án.
Ở Việt Nam, trước ngày 01/7/2003, đối tượng thi hành án
dân sự bao gồm bản án, quyết định dân sự của toà án.. Tuy
vậy, từ ngày 01/7/2003, đối tượng thi hành án dân sự bao gồm
cả quyết định giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại
Việt Nam (Điều 57 Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003).

Sau đó, Điều 67 Luật trọng tài thương mại năm 2010
(LTTTM), Điều 2 PLTHADS năm 2004 và Điều 121 Luật
cạnh tranh năm 2004 quy định quyết định của trọng tài thương
13


mại, hội đồng xử lí vụ việc cạnh tranh cũng được thi hành theo
thủ tục thi hành án dân sự. Kế thừa các quy định này, Điều 1
LTHADS năm 2008 tiếp tục quy định đối tượng thi hành án
dân sự bao gồm bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch
thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lí vật
chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết
định hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính
của tồ án, bản án, quyết định dân sự của toà án nước ngoài,
quyết định của trọng tài nước ngoài được tồ án cơng nhận và
cho thi hành ở Việt Nam, quyết định xử lí vụ việc cạnh tranh
có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án của hội đồng
xử lí vụ việc cạnh tranh và quyết định của trọng tài thương mại
Việt Nam. Vì vậy, theo nghĩa pháp lí thì thi hành án dân sự là
một dạng hoạt động tư pháp trong việc thực hiện bản án, quyết
định dân sự của toà án và các quyết định của các cơ quan, tổ
chức khác được đưa ra thi hành theo quy định của pháp luật.
Quá trình thi hành án dân sự có sự tham gia của nhiều cá
nhân, cơ quan, tổ chức nên đã phát sinh nhiều mối quan hệ
khác nhau giữa cơ quan thi hành án dân sự với các cá nhân, cơ
quan, tổ chức khác liên quan đến việc thi hành án. Trong đó,
mỗi chủ thể tham gia vào quá trình này với những động cơ,
mục đích riêng. Mặt khác, thực tế thi hành án dân sự cũng cho
thấy nhiều người phải thi hành án đã chây ỳ, không chịu thực
hiện nghĩa vụ thi hành án của họ làm cho cơ quan thi hành án

dân sự buộc phải tổ chức cưỡng chế thi hành án nên dễ xâm
phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của những người liên quan
đến thi hành án. Để bảo đảm việc thi hành án dân sự có hiệu
quả, bảo vệ được lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan đến việc thi hành
14


án dân sự Nhà nước phải đặt ra các quy phạm pháp luật quy
định cụ thể những vấn đề liên quan đến thi hành án dân sự như
thời hiệu yêu cầu thi hành án, thẩm quyền thi hành án, quyền
và nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức và cá nhân tham gia thi
hành án, trình tự, thủ tục yêu cầu thi hành án, thụ lí đơn yêu
cầu thi hành án, ra quyết định thi hành án, áp dụng biện pháp
bảo đảm thi hành án, áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án,
khiếu nại, tố cáo và kháng nghị về thi hành án v.v.. Trước đây,
hoạt động thi hành án dân sự được xem là một dạng của hoạt
động tố tụng dân sự cho nên tổng hợp các quy phạm pháp luật
điều chỉnh các quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự, cá
nhân, cơ quan, tổ chức phát sinh trong quá trình thi hành án
dân sự được coi là chế định cơ bản của luật tố tụng dân sự. Tuy
nhiên, theo xu thế phát triển của khoa học pháp lí ở Việt Nam
các ngành luật ngày càng được chia nhỏ hơn, theo đó tập hợp
các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong
một lĩnh vực nhất định cũng có thể trở thành ngành luật độc
lập. Thi hành án dân sự có sự độc lập tương đối và có nhiệm
vụ khác với việc giải quyết vụ việc dân sự. Trong thi hành án
dân sự, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khơng xem xét
lại vụ việc dân sự, không ra quyết định giải quyết lại nội dung
vụ việc dân sự mà chỉ áp dụng các biện pháp cần thiết nhằm tổ

chức thực hiện các quyết định trong bản án, quyết định dân sự
được đưa ra thi hành. Các hành vi của các cơ quan, tổ chức và
cá nhân tham gia thi hành án dân sự cũng chỉ nhằm thực hiện
các quyết định trong bản án, quyết định dân sự được đưa ra thi
hành và khơng có mục đích làm sáng tỏ vụ việc như trong quá
trình giải quyết vụ việc dân sự. Do đó, tổng hợp các quy phạm
pháp luật điều chỉnh các quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân
15


sự, văn phòng thừa phát lại với đương sự, cá nhân, cơ quan và
tổ chức phát sinh trong quá trình thi hành án dân sự có thể
thành một ngành luật - Luật thi hành án dân sự.
Luật thi hành án dân sự Việt Nam là tổng hợp các quy
phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ giữa cơ quan thi hành
án dân sự, văn phòng thừa phát lại với đương sự, cơ quan, tổ
chức và cá nhân liên quan đến việc thi hành án dân sự, phát
sinh trong quá trình thi hành án dân sự nhằm bảo đảm việc thi
hành án dân sự có hiệu quả, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
2. Đối tượng điều chỉnh của luật thi hành án dân sự
Việt Nam
Tham gia vào quá trình thi hành án dân sự ngoài cơ quan
thi hành án dân sự, văn phịng thừa phát lại, các đương sự cịn
có các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác. Vì vậy, các quan hệ phát
sinh trong quá trình thi hành án dân sự khá đa dạng, bao gồm:
Các quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự, văn phòng thừa
phát lại với đương sự; các quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân
sự, văn phòng thừa phát lại với cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên
quan đến việc thi hành án dân sự; các quan hệ giữa cơ quan thi

hành án dân sự, văn phòng thừa phát lại với tồ án, viện kiểm
sát, hội đồng xử lí vụ việc cạnh tranh và trọng tài; các quan hệ
giữa cơ quan thi hành án dân sự, văn phòng thừa phát lại với
nhau và các quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự, văn phòng
thừa phát lại với cơ quan quản lí cơng tác thi hành án. Ngồi ra,
để thực hiện bản án, quyết định của toà án trong một số trường
hợp còn phát sinh các quan hệ khác như quan hệ giữa các
đương sự với cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan.
16


Tuy vậy, để bảo đảm hiệu quả của việc thi hành án dân sự,
luật thi hành án dân sự Việt Nam chỉ quy định quyền và nghĩa
vụ của các chủ thể tham gia vào các quan hệ mà việc thực hiện
có ý nghĩa trực tiếp đối với việc thi hành bản án, quyết định
được đưa ra thi hành. Đối với quyền và nghĩa vụ của các chủ
thể tham gia vào các quan hệ mà việc thực hiện tuy có ý nghĩa
đối với việc thi hành án nhưng khơng mang tính trực tiếp như
quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự với cơ quan quản lí
cơng tác thi hành án dân sự, quan hệ giữa đương sự với các cơ
quan nhà nước khác trong việc thực hiện một số công việc như
công chứng, chứng thực việc uỷ quyền, bản sao giấy tờ liên
quan đến thi hành án, việc đăng kí trước bạ, sang tên, cơng
nhận quyền sở hữu nhà ở của nguyên đơn tại cơ quan quản lí
nhà đất sau khi toà án xử chấp nhận yêu cầu được sở hữu nhà ở
của ngun đơn v.v. thì khơng do luật thi hành án quy định.
Như vậy, đối tượng điều chỉnh của luật thi hành án dân sự
Việt Nam là các quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự, văn
phòng thừa phát lại với đương sự, cơ quan, tổ chức và cá nhân
liên quan đến việc thi hành án dân sự phát sinh trong quá trình

thi hành án dân sự.
Đối tượng điều chỉnh của luật thi hành án dân sự Việt Nam
là tiêu chí cơ bản để phân biệt luật thi hành án dân sự với các
ngành luật khác. Tuy cũng là các quan hệ phát sinh giữa cơ
quan nhà nước với các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác như
quan hệ pháp luật hành chính, quan hệ pháp luật tố tụng hình
sự, quan hệ pháp luật tố tụng dân sự nhưng các quan hệ thuộc
đối tượng điều chỉnh luật thi hành án dân sự Việt Nam có một
số đặc trưng cơ bản sau đây:
- Các quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của luật thi hành
17


án dân sự phát sinh trong quá trình thi hành án dân sự, từ khi
đương sự thực hiện quyền yêu cầu thi hành án đến khi kết thúc
thi hành án. Đối với trường hợp cơ quan thi hành án dân sự chủ
động thi hành án, quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của luật thi
hành án dân sự phát sinh từ khi toà án chuyển giao bản án, quyết
định cho cơ quan thi hành án dân sự.
- Việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của các chủ thể tham gia
các quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của luật thi hành án
dân sự có tác dụng trực tiếp đối với việc thi hành bản án, quyết
định được đưa ra thi hành.
- Một bên chủ thể của quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh
của luật thi hành án dân sự là cơ quan thi hành án dân sự hoặc
văn phòng thừa phát lại còn bên kia là đương sự hoặc cá nhân,
cơ quan, tổ chức khác.
Các quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của luật thi hành
án dân sự rất đa dạng. Căn cứ vào tính chất, đặc điểm của các
mối quan hệ này có thể chia đối tượng điều chỉnh của luật thi

hành án dân sự thành ba nhóm:
- Nhóm thứ nhất bao gồm các quan hệ giữa cơ quan thi
hành án dân sự, văn phòng thừa phát lại với các đương sự.
- Nhóm thứ hai bao gồm các quan hệ giữa cơ quan thi hành
án dân sự, văn phòng thừa phát lại với các cá nhân, cơ quan và
tổ chức liên quan đến việc thi hành án dân sự.
- Nhóm thứ ba bao gồm các quan hệ giữa cơ quan thi hành
án dân sự, văn phòng thừa phát lại với tồ án, trọng tài, hội
đồng xử lí vụ việc cạnh tranh và viện kiểm sát.
Trong các nhóm quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của
luật thi hành án dân sự thì nhóm quan hệ giữa cơ quan thi hành
18


án dân sự, văn phòng thừa phát lại với các đương sự mang tính
phổ biến, bởi đương sự là người có quyền hoặc nghĩa vụ thi
hành án dân sự cịn cơ quan thi hành án dân sự có nhiệm vụ và
quyền hạn tổ chức thi hành án dân sự. Để bảo đảm việc thi
hành án nhanh chóng, đúng đắn, bảo vệ được lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trước hết
pháp luật phải điều chỉnh quan hệ này. Đối với các quan hệ
khác, cũng có thể phát sinh trong q trình thi hành án dân sự
nhưng không phải trường hợp nào cũng có. Tuy vậy, để nâng
cao được hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự, pháp luật thi
hành án dân sự phải điều chỉnh cả các quan hệ này.
3. Phương pháp điều chỉnh của luật thi hành án dân sự
Việt Nam
Phương pháp điều chỉnh của luật thi hành án dân sự là tổng
hợp những cách thức mà luật thi hành án dân sự tác động lên
các quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của nó. Do đối tượng

điều chỉnh của luật thi hành án dân sự khá đa dạng và trong thi
hành án dân sự các đương sự vẫn có quyền quyết định quyền
lợi của họ nên luật thi hành án dân sự Việt Nam điều chỉnh các
quan hệ phát sinh trong quá trình thi hành án dân sự bằng hai
phương pháp là mệnh lệnh và định đoạt.
Luật thi hành án dân sự điều chỉnh các quan hệ phát sinh
trong quá trình thi hành án dân sự bằng phương pháp mệnh
lệnh thể hiện ở chỗ quy định địa vị pháp lí của cơ quan thi
hành án dân sự, văn phịng thừa phát lại hồn tồn khác với địa
vị pháp lí của các chủ thể khác. Trong quá trình thi hành án
dân sự, các chủ thể khác đều phải phục tùng cơ quan thi hành
án dân sự, văn phòng thừa phát lại. Quyết định của cơ quan thi
19


hành án dân sự được đưa ra trong quá trình thi hành án dân sự
các chủ thể khác đều phải thực hiện, nếu không sẽ bị cưỡng
chế thực hiện. Sở dĩ pháp luật thi hành án dân sự quy định các
chủ thể khác phải nghiêm chỉnh thực hiện quyết định của cơ
quan thi hành án dân sự, văn phòng thừa phát lại là xuất phát
từ yêu cầu của công tác thi hành án dân sự. Trong thi hành án
dân sự, việc can thiệp của cơ quan thi hành án dân sự, văn
phòng thừa phát lại là rất cần thiết, là yếu tố bảo đảm cho việc
thi hành án dân sự được thực hiện. Thực tế đã chứng minh,
trong nhiều trường hợp, nếu khơng có sự can thiệp của cơ quan
thi hành án dân sự, văn phịng thừa phát lại thì việc thi hành án
dân sự sẽ không thể thực hiện được. Ngoài ra, cơ quan thi hành
án dân sự là cơ quan nhà nước, văn phòng thừa phát lại là tổ
chức có nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức thi hành án dân sự và
được thực hiện quyền lực của Nhà nước để tổ chức thi hành án

dân sự. Để các cơ quan thi hành án dân sự, văn phòng thừa
phát lại thực hiện được chức năng, nhiệm vụ Nhà nước giao thì
các cơ quan này phải có những quyền lực pháp lí nhất định đối
với các chủ thể khác. Do đó, ở các quan hệ do luật thi hành án
dân sự điều chỉnh khơng có sự bình đẳng giữa cơ quan thi hành
án dân sự, văn phòng thừa phát lại với các chủ thể khác.
Ngoài phương pháp mệnh lệnh, luật thi hành án dân sự
Việt Nam cũng điều chỉnh các quan hệ phát sinh quá trình thi
hành án dân sự bằng phương pháp định đoạt. Theo đó, trong
q trình thi hành án dân sự, các đương sự vẫn được tự quyết
định quyền, lợi ích hợp pháp của họ và việc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của họ. Khi bản án, quyết định được thi hành,
các đương sự có quyền tự quyết định việc thi hành án dân sự
như yêu cầu đương sự bên kia hoặc cơ quan thi hành án dân sự
20


tổ chức thi hành án. Trong quá trình thi hành án dân sự, các
đương sự vẫn có thể thương lượng, thoả thuận việc thi hành án,
tự thi hành án hoặc không yêu cầu thi hành án nữa. Sở dĩ luật
thi hành án dân sự điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá
trình thi hành án dân sự bằng cả phương pháp định đoạt vì bản
chất của thi hành án dân sự là việc các đương sự thực hiện các
quyền dân sự của họ. Trong giao lưu dân sự, các đương sự có
quyền tự quyết định quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì khi
thực hiện quyền dân sự trong thi hành án dân sự họ cũng phải
có quyền tự quyết định quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
Như vậy, luật thi hành án dân sự điều chỉnh các quan hệ
phát sinh trong quá trình thi hành án bằng cả phương pháp
mệnh lệnh và phương pháp định đoạt. Tuy nhiên, do yêu cầu

của thi hành án dân sự nên phương pháp mệnh lệnh là phương
pháp được sử dụng chủ yếu nhất.
4. Nguồn của luật thi hành án dân sự Việt Nam
Các văn bản quy phạm pháp luật là một trong những hình
thức thể hiện ý chí của Nhà nước trong quản lí xã hội nên được
coi là nguồn cơ bản của luật. Nguồn của luật thi hành án dân
sự Việt Nam bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành có chứa đựng các quy
phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ giữa cơ quan thi hành
án dân sự, toà án, viện kiểm sát, các đương sự và những người
khác tham gia vào quá trình thi hành án dân sự. Các văn bản
quy phạm pháp luật là nguồn của luật thi hành án dân sự Việt
Nam hiện nay bao gồm nhiều loại như Hiến pháp, Bộ luật tố
tụng dân sự (BLTTDS), Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân
(LTCVKSND), LTHADS, các nghị quyết của Quốc hội, các nghị
định của Chính phủ và quyết định của Thủ tướng Chính phủ, các
21


thông tư và thông tư liên bộ quy định về thi hành án dân sự.
- Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước, quy định về
chế độ chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội, quốc phịng, an ninh,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, thể chế hoá mối
quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ và Nhà nước
quản lí. Các văn bản quy phạm pháp luật khác được Nhà nước
ban hành nhằm cụ thể hoá các quy định của hiến pháp. Hiện
nay, Hiến pháp năm 1992 là nguồn quan trọng của luật thi
hành án dân sự Việt Nam. Trong Hiến pháp năm 1992 có các
quy định về nguyên tắc thi hành án dân sự như quy định về

hiệu lực của bản án, quyết định (Điều 136), quy định về kiểm
sát các hoạt động thi hành án dân sự (Điều 137) v.v.. Trên cơ
sở quy định này của Hiến pháp năm 1992, các văn bản quy
phạm pháp luật thi hành án dân sự quy định cụ thể về thời
hiệu, thẩm quyền, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong thi
hành án dân sự và trình tự, thủ tục thi hành án dân sự.
- BLTTDS quy định về nguyên tắc, thẩm quyền, trình tự,
thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự là cơ bản. Tuy vậy, trong
BLTTDS năm 2015 có Phần thứ chín có 9 điều luật, từ Điều
482 đến Điều 488 quy định các vấn đề về thi hành án dân sự
như các bản án, quyết định được thi hành; ghi nhận và giải
thích về quyền yêu cầu thi hành án dân sự; thời hạn chuyển
giao bản án, quyết định; giải thích, sửa chữa bản án, quyết định
của toà án; giải quyết yêu cầu, kiến nghị đối với bản án, quyết
định của toà án; thẩm quyền, thủ tục xét miễn, giảm nghĩa vụ
thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước của toà
án v.v.. Đây là các quy định mang tính chất chung, tính nguyên
tắc về thi hành án dân sự và vì vậy BLTTDS là một trong các
22


nguồn cơ bản của luật thi hành án dân sự Việt Nam.
- LTCVKSND chủ yếu quy định về tổ chức của viện kiểm
sát. Tuy vậy, trong LTCVKSND cũng có những quy định về
thi hành án dân sự như quy định về kiểm sát các hoạt động thi
hành án dân sự (Điều 6, Điều 28 LTCVKSND năm 2014), do
đó các văn bản quy phạm pháp luật này cũng là một trong các
nguồn của luật thi hành án dân sự Việt Nam.
- LTHADS là văn bản quy phạm pháp luật quy định trực
tiếp và hệ thống tất cả các vấn đề liên quan đến thi hành án dân

sự như đối tượng thi hành án dân sự, nguyên tắc thi hành án
dân sự, quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các cơ quan, tổ
chức và cá nhân trong thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án
dân sự, thẩm quyền thi hành án dân sự, thủ tục thi hành án dân
sự, biện pháp bảo đảm và biện pháp cưỡng chế thi hành án dân
sự, khiếu nại, tố cáo trong thi hành án dân sự, việc xử lí các
hành vi vi phạm pháp luật trong thi hành án dân sự v.v.. Vì vậy,
hiện nay LTHADS là nguồn cơ bản và quan trọng nhất của luật
thi hành án dân sự Việt Nam. Ngoài ra, Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật thi hành án dân sự (LSĐBSLTHADS)
năm 2014 cũng là một nguồn cơ bản quan trọng của luật thi
hành án dân sự Việt Nam.
- Nghị quyết của Quốc hội, nghị định của Chính phủ, quyết
định của Thủ tướng Chính phủ, thơng tư của các bộ và thông
tư liên bộ cũng là những nguồn của luật thi hành án dân sự
Việt Nam. Đây là các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn
thi hành LTHADS. Nội dung của các văn bản này bao gồm các
quy định chi tiết hoá, cụ thể hoá các quy định của LTHADS
nhằm bảo đảm việc thực hiện đúng và có hiệu quả các quy
định của LTHADS.
23


II. VAI TRÒ, NHIỆM VỤ VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA
LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VIỆT NAM
1. Vai trò của luật thi hành án dân sự Việt Nam
Là ngành luật trong hệ thống pháp luật của nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, luật thi hành án dân sự Việt Nam
có vai trị bảo đảm việc thực hiện đường lối, chính sách của
Đảng về phát triển kinh tế, xã hội đồng thời bảo đảm việc thi

hành án dân sự có hiệu quả và nâng cao được ý thức pháp luật
của các chủ thể trong xã hội.
Sự lãnh đạo của Đảng giữ vai trò quyết định sự phát triển
của xã hội. Ở nước ta, đường lối, chính sách của Đảng là kim
chỉ nam cho các hoạt động xã hội. Pháp luật có vai trị thể chế
hố các đường lối, chính sách của Đảng để mọi người thực
hiện. Khi Đảng chủ trương đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội,
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa làm cho dân
giàu, nước mạnh thì pháp luật nói chung và luật thi hành án
dân sự nói riêng càng có vai trị quan trọng. Các quan điểm, tư
tưởng của Đảng về phát triển kinh tế-xã hội, cải cách tư pháp
ngày nay được quán triệt trong các quy định của luật thi hành
án dân sự buộc các cơ quan, tổ chức và cá nhân thực hiện là
yếu tố rất quan trọng trong việc thực hiện đường lối, chính
sách của Đảng về phát triển kinh tế-xã hội và đặc biệt là đối
với việc thực hiện mục tiêu cải cách tư pháp ở nước ta:“Xây
dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm
minh, bảo vệ cơng lí, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân,
phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.(1)
(1). Xem: Mục I Nghị quyết của Bộ chính trị, Ban chấp hành trung ương Đảng
cộng sản Việt Nam khoá IX số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020.

24


Quá trình thi hành án dân sự bao gồm nhiều công việc khác
nhau, nảy sinh các quan hệ khác nhau giữa các chủ thể tham
gia vào quá trình này. Trong đó, mỗi chủ thể tham gia vào các
quan hệ này với những động cơ, mục đích và nhiệm vụ khác

nhau nên rất phức tạp. Vì vậy, các quy định của luật thi hành
án dân sự Việt Nam về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, thời
hiệu thi hành án, thẩm quyền thi hành án, thủ tục thi hành án,
thủ tục áp dụng các biện pháp bảo đảm và biện pháp cưỡng chế
thi hành án v.v. có tác dụng điều chỉnh các quan hệ quan hệ
phát sinh trong quá trình thi hành án dân sự bảo đảm được hiệu
quả của việc thi hành án dân sự.
Ngoài ra, luật thi hành án dân sự Việt Nam còn quy định cả
cơ chế giám sát, kiểm sát các hoạt động thi hành án dân sự,
trách nhiệm pháp lí của các chủ thể trong việc tổ chức hoặc
tham gia thi hành án dân sự v.v.. Các quy định này vừa có tác
dụng nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự vừa có tác dụng
nâng cao trách nhiệm của các chủ thể tổ chức hoặc tham gia thi
hành án dân sự, mặt khác còn góp phần nâng cao được ý thức
pháp luật của các chủ thể trong xã hội.
2. Nhiệm vụ của luật thi hành án dân sự Việt Nam
Nhận thức được vai trò to lớn của luật thi hành án dân sự
Việt Nam, trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật Nhà nước
ta đã ban hành như BLTTDS, PLTHADS, LTHADS v.v.. đều
có quy định về các nhiệm vụ của luật thi hành án dân sự. Theo
quy định của các văn bản quy phạm pháp luật này thì luật thi
hành án dân sự Việt Nam có các nhiệm vụ cụ thể sau:
Thứ nhất, luật thi hành án dân sự Việt Nam có nhiệm vụ
thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước trong
25


×