Tải bản đầy đủ (.pdf) (392 trang)

Giáo trình luật thương mại việt nam tập 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.09 MB, 392 trang )

GIÁO TRÌNH

LUẬT THƢƠNG MẠI
VIỆT NAM
TẬP II

1


Giáo trình này đã được Hội đồng nghiệm thu giáo trình Trường

Đại học Luật Hà Nội (thành lập theo Quyết định số 1281/QĐĐHLHN ngày 05 tháng 5 năm 2016 của Hiệu trưởng Trường Đại
học Luật Hà Nội) đồng ý thông qua ngày 29 tháng 7 năm 2016 và
được Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Hà Nội cho phép xuất
bản theo Quyết định số 249/QĐ-ĐHLHN ngày 15 tháng 02 năm
2017.

MÃ SỐ: TPG/K - 17 - 04
2250-2017/CXBIPH/02-187/TP

2


TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

Giáo trình

LUẬT THƢƠNG MẠI
VIỆT NAM
TẬP II


NHÀ XUẤT BẢN TƢ PHÁP
HÀ NỘI - 2017
3


Đồng chủ biên
PGS.TS. NGUYỄN VIẾT TÝ
TS. NGUYỄN THỊ DUNG

Tập thể tác giả
1. PGS.TS. NGUYỄN THỊ VÂN ANH
2. PGS.TS. VŨ THỊ LAN ANH
3. TS. TRẦN THỊ BẢO ÁNH
4. TS. NGUYỄN THỊ DUNG
5. TS. VŨ PHƢƠNG ĐÔNG
6. PGS. TS. TRẦN THỊ THU PHƢƠNG
7. PGS.TS. NGUYỄN VIẾT TÝ
8. TS. NGUYỄN QUÝ TRỌNG
9. TS. VŨ ĐẶNG HẢI YẾN
10. TS. NGUYỄN THỊ YẾN

4

Chƣơng 16
Chƣơng 21
Chƣơng 15, 20
Chƣơng 17
Chƣơng 18
Chƣơng 14 (Mục III)
Chƣơng 14 (mục I, II)

Chƣơng 22
Chƣơng 19
Chƣơng 23


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS
LTM
TNHH
TTTM

Bộ luật Dân sự
Luật Thƣơng mại
Trách nhiệm hữu hạn
Trọng tài thƣơng mại

5


6


LỜI GIỚI THIỆU
Trong q trình đổi mới quản lí nhà nước về kinh tế, Luật
Thương mại là lĩnh vực pháp luật có những thay đổi lớn theo xu thế
mở rộng quyền tự do kinh doanh và hội nhập kinh tế quốc tế. Bắt
nhịp với những thay đổi này, trong các cơ sở đào tạo luật, môn học
Luật Thương mại (tiền thân là mơn học Luật Kinh tế) cũng có nhiều
thay đổi về kết cấu và nội dung chương trình. Nhằm hướng tới mục
tiêu phù hợp xu hướng phát triển về lí luận và thực tiễn của pháp

luật thương mại, phù hợp với nội dung và chương trình đào tạo của
nhà trường, Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam của Trường Đại
học Luật Hà Nội đã được biên soạn mới.
Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam là học liệu chính thức sử
dụng trong giảng dạy, học tập môn học Luật Thương mại và một số
chuyên đề tự chọn thuộc chương trình đào tạo cử nhân luật, cử
nhân chuyên ngành luật kinh tế, luật thương mại quốc tế và các lớp
bồi dưỡng kiến thức pháp luật kinh doanh tại Trường Đại học Luật
Hà Nội. Đối với các cơ sở đào tạo khác, Giáo trình Luật Thương
mại cũng có thể được sử dụng làm học liệu cho các mơn học có nội
dung tương tự như Luật Kinh tế, Luật Kinh doanh.
Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam gồm 2 tập với tổng số 23
chương, được kết cấu theo 5 phần lớn, đáp ứng nhu cầu nghiên cứu,
đào tạo cơ bản về địa vị pháp lí của các loại hình doanh nghiệp
trong nền kinh tế thị trường, về hợp đồng và hoạt động thương mại,
giải quyết tranh chấp thương mại ngoài Toà án:
Phần thứ nhất: Những vấn đề chung về Luật Thương mại Việt Nam.
Phần thứ hai: Địa vị pháp lí của các chủ thể kinh doanh trong
nền kinh tế.

7


Phần thứ ba: Quy chế pháp lí về thành lập doanh nghiệp, tổ
chức lại, giải thể và phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
Phần thứ tư: Hoạt động thương mại và hợp đồng trong hoạt
động thương mại.
Phần thứ năm: Giải quyết tranh chấp thương mại ngồi Tồ án.
Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam Tập I có 13 chương, cung
cấp những kiến thức chung về môn học Luật Thương mại, về địa vị

pháp lí của các loại chủ thể kinh doanh và quy chế pháp lí về thành
lập, tổ chức lại, giải thể, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Giáo
trình Luật Thương mại Việt Nam Tập II có 10 chương, cung cấp
những kiến thức lí luận và thực tiễn về hợp đồng và hoạt động thương
mại, chế tài thương mại và giải quyết tranh chấp thương mại ngoài
Toà án. Tập I và Tập II bao gồm nội dung cơ bản và nội dung chọn
lọc để phù hợp với kết cấu chương trình đào tạo của mỗi ngành học
đang áp dụng tại Trường Đại học Luật Hà Nội, bao gồm ngành
Luật học, ngành Luật Kinh tế và ngành Luật Thương mại quốc tế...
Được hồn thành có sự kế thừa các giáo trình đã xuất bản, tập
thể tác giả đã tiếp tục phát triển kiến thức về lí luận, thực tiễn,
nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu đào tạo cử nhân luật
theo học chế tín chỉ. Trong lần xuất bản này, Giáo trình khó tránh
khỏi thiếu sót về nội dung và hình thức. Rất mong nhận được ý
kiến đóng góp của độc giả để Giáo trình được tiếp tục hoàn chỉnh
trong những lần tái bản.
Trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 9 năm 2017
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

8


Phần thứ tƣ
HOẠT ĐỘNG THƢƠNG MẠI
VÀ HỢP ĐỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG THƢƠNG MẠI
Chƣơng 14
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG
TRONG LĨNH VỰC THƢƠNG MẠI
I. QUAN NIỆM VỀ HỢP ĐỒNG TRONG LĨNH VỰC

THƢƠNG MẠI
Hợp đồng là hình thức pháp lí thích hợp nhất thể hiện bản
chất của các quan hệ tài sản. Quan hệ kinh tế và quan hệ dân sự
có chung hình thức pháp lí là hợp đồng. Hợp đồng dù thể hiện
dƣới hình thức nào, bởi ngơn ngữ nào cũng phản ánh bản chất là
sự thỏa thuận, sự thống nhất ý chí của các bên nhằm làm phát
sinh, thay đổi và chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lí.
Ở Việt Nam, trong mỗi thời kì lịch sử khác nhau, hợp đồng
trong lĩnh vực kinh tế hay lĩnh vực thƣơng mại có một bản chất
pháp lí riêng của nó. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung,
hợp đồng kinh tế có bản chất pháp lí hồn tồn khác hợp đồng dân
sự (theo nghĩa truyền thống) về mục đích, về chủ thể, về hình thức
cũng nhƣ về nội dung của hợp đồng. Trong thời kì này, ở Việt Nam
hầu nhƣ chỉ tồn tại hợp đồng kinh tế với tƣ cách là hình thức phản
ánh quan hệ kinh tế trong nền kinh tế. Các văn bản đầu tiên về
hợp đồng kinh tế là Nghị định số 004/TTg ngày 04/01/1960 của
9


Thủ tƣớng Chính phủ ban hành Điều lệ tạm thời về chế độ hợp
đồng kinh tế giữa các xí nghiệp quốc doanh và cơ quan nhà nƣớc,
Nghị định số 54/CP ngày 10/3/1975 của Hội đồng Chính phủ ban
hành Điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế và đặc biệt là Pháp lệnh
Hợp đồng kinh tế đƣợc ban hành năm 1989. Pháp lệnh Hợp đồng
kinh tế năm 1989 đã phản ánh đầy đủ bản chất của hợp đồng kinh
tế, đồng thời quy định cụ thể về thủ tục kí kết, thực hiện thay đổi,
đình chỉ, hủy bỏ, thanh lí hợp đồng kinh tế. Ngồi ra, trong Pháp
lệnh này cịn quy định một số nội dung khác về hợp đồng kinh tế
nhƣ: hợp đồng kinh tế vô hiệu, trách nhiệm vật chất do vi phạm
chế độ hợp đồng kinh tế…

Trong những năm từ 1986 đến 1990, cùng với việc đổi mới
cơ chế quản lí kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ
chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, ở Việt Nam bắt đầu
xuất hiện các hợp đồng dân sự (đúng theo nghĩa truyền thống).
Để điều chỉnh quan hệ hợp đồng dân sự, năm 1991, Nhà nƣớc đã
ban hành Pháp lệnh Hợp đồng dân sự và sau đó là BLDS năm
1995. Bộ luật này đã xác định khái niệm hợp đồng dân sự (xem
Điều 394 BLDS năm 1995) với một nội hàm tƣơng đối rộng, bao
gồm cả những đặc điểm của khái niệm hợp đồng kinh tế theo
Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989. Tuy nhiên, trong Nghị
quyết ngày 28/10/1995 của Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam về việc thi hành BLDS năm 1995 vẫn thừa
nhận hiệu lực của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989. Do đó,
từ năm 1991 đến khi BLDS năm 2005 có hiệu lực, ở Việt Nam
vẫn tồn tại 2 loại hợp đồng - hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân
sự - đƣợc điều chỉnh bằng những quy định pháp luật khác nhau
về hợp đồng. Cụ thể là, hợp đồng dân sự đƣợc quy định trong
BLDS còn hợp đồng kinh tế lại đƣợc quy định trong Pháp lệnh
Hợp đồng kinh tế. Chỉ đến khi BLDS năm 2005 và LTM năm
2005 có hiệu lực, hợp đồng (bao gồm hợp đồng kinh tế và hợp
đồng dân sự) mới đƣợc điều chỉnh bằng một hệ thống văn bản
10


pháp luật thống nhất về hợp đồng dân sự.1 Trong BLDS năm
2005 cũng nhƣ LTM năm 2005 và các văn bản pháp luật thƣơng
mại sau đó khơng cịn ghi nhận khái niệm hợp đồng kinh tế.
Mặc dù, khái niệm hợp đồng kinh tế khơng cịn đƣợc ghi
nhận trong các văn bản pháp luật hiện hành và trên thực tế khái
niệm này khơng cịn đƣợc sử dụng để chỉ các quan hệ hợp đồng

trong lĩnh vực thƣơng mại (trƣớc đây gọi là lĩnh vực kinh tế).
Nhƣng điều đó khơng có nghĩa là hợp đồng trong lĩnh vực thƣơng
mại khơng cịn tồn tại. Bởi lẽ, khi còn các hoạt động trong lĩnh
vực thƣơng mại đƣợc coi nhƣ một loại hành vi dân sự đặc thù thì
vẫn có những quy định riêng điều chỉnh các hợp đồng với tƣ cách
là hình thức pháp lí của các hoạt động thƣơng mại. (Các hợp
đồng này đƣợc gọi chung là hợp đồng thƣơng mại hay hợp đồng
trong lĩnh vực thƣơng mại).
Xét dƣới góc độ biện chứng, hợp đồng dân sự là hình thức
pháp lí của hành vi dân sự, hợp đồng trong thƣơng mại là hình thức
pháp lí của hoạt động thƣơng mại. Xuất phát từ quan điểm: “Hành
vi thương mại là một biểu hiện của hành vi pháp lí dân sự,…”,2
hành vi thƣơng mại là hành vi dân sự đặc thù và với logic đó, hợp
đồng trong lĩnh vực thƣơng mại là loại hợp đồng dân sự đặc thù.
Là loại hợp đồng dân sự, hợp đồng trong lĩnh vực thƣơng mại
có những điểm giống hợp đồng dân sự về bản chất, tức là phản
ánh bản chất là sự thỏa thuận, sự thống nhất ý chí của các bên
nhằm làm phát sinh, thay đổi và chấm dứt các quyền và nghĩa vụ
pháp lí, đều phản ánh các quan hệ tài sản mang tính chất hàng hố
tiền tệ, đều có chủ thể là pháp nhân, cá nhân… Bên cạnh đó, hợp
đồng trong lĩnh vực thƣơng mại cũng có những đặc điểm riêng của
1

Tham khảo: Đinh Thị Mai Phƣơng, Thống nhất luật hợp đồng ở Việt Nam, Nxb.
Tƣ pháp, Hà Nội, 2005.
2
Đào Trí Úc, “Vai trị của luật dân sự ở nƣớc ta hiện nay”, Đề tài cấp bộ: Những
vấn đề lí luận về Bộ luật dân sự ở Việt Nam), Hà Nội, 1997, tr. 20.

11



nó, mà trên cơ sở đó, về cơ bản có thể phân biệt hợp đồng trong
lĩnh vực thƣơng mại với hợp đồng dân sự nói chung. Cụ thể:
Thứ nhất, về chủ thể, hợp đồng trong lĩnh vực thƣơng mại
chủ yếu đƣợc thiết lập giữa các chủ thể là thƣơng nhân. Thƣơng
nhân bao gồm tổ chức kinh tế đƣợc thành lập hợp pháp và cá
nhân hoạt động thƣơng mại một cách độc lập, thƣờng xun, có
đăng kí kinh doanh. Thƣơng nhân là chủ thể của hợp đồng trong
lĩnh vực thƣơng mại có thể là thƣơng nhân Việt Nam hoặc
thƣơng nhân nƣớc ngồi (trong hợp đồng mua bán hàng hố quốc
tế). Ngồi chủ thể là thƣơng nhân, các tổ chức, cá nhân khơng
phải là thƣơng nhân cũng có thể trở thành chủ thể của hợp đồng
trong lĩnh vực thƣơng mại trong những trƣờng hợp pháp luật quy
định cụ thể. Ví dụ, hoạt động của bên chủ thể không phải là
thƣơng nhân và khơng nhằm mục đích lợi nhuận trong quan hệ
hợp đồng mua bán hàng hoá phải tuân theo LTM khi chủ thể này
lựa chọn áp dụng LTM1 hay ví dụ khác: Trong quan hệ ủy thác
mua bán hàng hoá, bên ủy thác có thể là thƣơng nhân hoặc khơng
phải là thƣơng nhân.2
Thứ hai, về hình thức, hợp đồng trong lĩnh vực thƣơng mại có
thể đƣợc thiết lập bằng hình thức lời nói, bằng văn bản hoặc bằng
hành vi cụ thể của các bên giao kết. Tuy nhiên, do tính chất phức
tạp trong hoạt động thƣơng mại và những yêu cầu chặt chẽ trong
nội dung của hợp đồng mà pháp luật quy định nhiều hợp đồng
thƣơng mại cụ thể phải đƣợc kí kết dƣới hình thức văn bản hoặc
bằng hình thức khác có giá trị pháp lí tƣơng đƣơng văn bản. Ví dụ,
hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, hợp đồng ủy thác mua bán
hàng hố, hợp đồng đại lí thƣơng mại, hợp đồng vận chuyển hàng
hoá bằng đƣờng sắt, hợp đồng nhƣợng quyền thƣơng mại v.v..

Thứ ba, về đối tượng hợp đồng, tƣơng tự nhƣ đối tƣợng của
1
2

Khoản 3 Điều 1 LTM năm 2005.
Điều 157 LTM năm 2005.

12


hợp đồng dân sự, hợp đồng trong lĩnh vực thƣơng mại có đối
tƣợng là hàng hố hoặc dịch vụ (cơng việc). Bên cạnh đó, trong
lĩnh vực thƣơng mại có một số loại hợp đồng có đối tƣợng chƣa
đƣợc biết đến trong hợp đồng dân sự truyền thống, đó là các hợp
đồng có tính chất tổ chức nhƣ hợp đồng thành lập công ti hay hợp
đồng hợp tác kinh doanh (hợp đồng BCC), hợp đồng đầu tƣ theo
hình thức đối tác công tƣ (hợp đồng PPP)... Đối tƣợng của các
loại hợp đồng này khơng phải là hàng hố hoặc dịch vụ mà là một
hoạt động mang tính tổ chức để hình thành nên các doanh nghiệp
hoặc để thực hiện hoạt động thƣơng mại. Trên thực tế, đối tƣợng
hợp đồng trong lĩnh vực thƣơng mại thƣờng có số lƣợng lớn và
do đó, nhìn chung, giá trị của hợp đồng thƣơng mại thƣờng lớn
hơn giá trị của hợp đồng dân sự. Điều này dẫn đến sự khác nhau
trong nội dung của hợp đồng dân sự và nội dung của hợp đồng
trong lĩnh vực thƣơng mại. Chẳng hạn, một ngƣời nào đó mua
của thƣơng nhân kinh doanh vật liệu xây dựng vài cân xi măng về
sửa chữa nhỏ trong gia đình. Ở đây đối tƣợng hợp đồng rất nhỏ
nên nội dung của hợp đồng này rất đơn giản, việc giao nhận và
thanh toán đƣợc thực hiện theo kiểu “tiền trao, cháo múc”. Còn
trƣờng hợp một cơng ti xây lắp kí hợp đồng mua của một công ti

xi măng 1000 tấn xi măng để xây dựng một cơng trình nào đó thì
việc thỏa thuận cũng nhƣ thực hiện các điều khoản trong nội
dung của hợp đồng phức tạp hơn nhiều từ việc xác định số lƣợng,
chất của đối tƣợng cho đến giao nhận, thanh toán v.v.. Thậm chí,
để thực hiện hợp đồng với đối tƣợng lớn nhƣ vậy, có thể làm phát
sinh các hợp đồng mới nhƣ hợp đồng bốc xếp hàng hoá hay hợp
đồng vận chuyển hàng hố v.v..
Tóm lại, hiện nay, hợp đồng trong lĩnh vực thƣơng mại là hợp
đồng dân sự đặc thù. Hợp đồng dân sự và hợp đồng trong lĩnh
vực thƣơng mại có mối quan hệ biện chứng với nhau. Đây là
mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, trong đó, hợp đồng dân
sự là cái chung và hợp đồng thƣơng mại là cái riêng. Với tƣ
13


cách là cái chung và cái riêng, hợp đồng dân sự và hợp đồng
trong lĩnh vực thƣơng mại đều tồn tại khách quan và độc lập
tƣơng đối với nhau; những thuộc tính vốn có của hợp đồng dân
sự đƣợc biểu hiện cụ thể trong hợp đồng trong lĩnh vực thƣơng
mại, đồng thời hợp đồng trong lĩnh vực thƣơng mại cũng có
những đặc thù riêng của nó.
II. PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HỢP ĐỒNG TRONG LĨNH
VỰC THƢƠNG MẠI
1. Nội dung của pháp luật điều chỉnh hợp đồng trong lĩnh
vực thƣơng mại
Pháp luật điều chỉnh hợp đồng trong lĩnh vực thƣơng mại
đƣợc hiểu là tổng thể quy phạm pháp luật do Nhà nƣớc ban hành
hoặc thừa nhận, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong q
trình kí kết và thực hiện hợp đồng trong lĩnh vực thƣơng mại. Nội
dung của pháp luật điều chỉnh hợp đồng trong lĩnh vực thƣơng

mại bao gồm:
(i) Những quy định về bản chất, chủ thể của hợp đồng trong
lĩnh vực thƣơng mại;
(ii) Những quy định về giao kết và thực hiện hợp đồng trong
lĩnh vực thƣơng mại;
(iii) Những quy định về thay đổi, đình chỉ, hủy bỏ hợp đồng
trong lĩnh vực thƣơng mại;
(iv) Những quy định về trách nhiệm vật chất (chế tài thƣơng
mại) do vi phạm hợp đồng trong lĩnh vực thƣơng mại;
Ngoài ra, trong nội dung của pháp luật điều chỉnh hợp đồng
trong lĩnh vực thƣơng mại, cịn có những quy định về hợp đồng
vô hiệu, về các biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng.
Ở Việt Nam, trƣớc năm 2005, khi còn tồn tại 2 hệ thống pháp
luật về hợp đồng (hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự) độc lập
tƣơng đối với nhau thì các nội dung kể trên đƣợc pháp luật ghi
14


nhận trong các văn bản về hợp đồng kinh tế mà điển hình là Pháp
lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989. Khi BLDS năm 2005 có hiệu
lực, nội dung của pháp luật điều chỉnh hợp đồng trong lĩnh vực
thƣơng mại đƣợc quy định trong một hệ thống văn bản pháp
luật thống nhất điều chỉnh quan hệ hợp đồng dân sự, trong đó
có các văn bản chủ yếu: BLDS năm 2005, BLDS năm 2015,
LTM năm 2005 và các văn bản luật chuyên ngành nhƣ: Luật
Đƣờng sắt năm 2005, Luật Du lịch năm 2005, Luật Hàng không
dân dụng Việt Nam năm 2006, Luật Hàng hải năm 2015, Luật
Kinh doanh bảo hiểm v.v..
Những quy định của BLDS áp dụng đối với hợp đồng trong
lĩnh vực thương mại: BLDS năm 2015 với 44 điều trong mục 7

Chƣơng XV đã ghi nhận hầu hết các nội dung của pháp luật về
hợp đồng nói chung và hợp đồng trong lĩnh vực thƣơng mại nói
riêng. Cụ thể:
+ BLDS năm 2015 đã xác định khái niệm hợp đồng, theo đó:
“Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay
đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”;1
+ Cùng với việc xác định khái niệm hợp đồng làm cơ sở cho
việc xác định khái niệm các hợp đồng cụ thể trong lĩnh vực thƣơng
mại, BLDS năm 2015 cịn có những quy định điều chỉnh các quan
hệ hợp đồng trong lĩnh vực thƣơng mại, đó là các quy định về giao
kết và thực hiện hợp đồng, về sửa đổi, chấm dứt hợp đồng, về hợp
đồng vô hiệu và trách nhiệm vật chất do vi phạm hợp đồng v.v..2
+ BLDS năm 2015 cũng đã quy định về điều kiện có hiệu lực
của hợp đồng giao dịch dân sự, các biện pháp thực hiện nghĩa vụ
dân sự cũng nhƣ trách nhiệm dân sự.3 Đây cũng là một nội dung
quan trọng của pháp luật về hợp đồng trong lĩnh vực thƣơng mại;
1

Điều 385 BLDS năm 2015.
Mục 7 Chƣơng XV Phần thứ 3 BLDS năm 2015.
3
Điều 117 và Mục 3, 4 Chƣơng XV Phần thứ 3 BLDS năm 2015.
2

15


+ Ngồi ra, BLDS năm 2015 cịn quy định các loại hợp đồng
thông dụng.1 Những quy định về các loại hợp đồng thơng dụng
này có thể đƣợc áp dụng trong trƣờng hợp pháp luật chuyên

ngành về các hợp đồng cụ thể trong lĩnh vực thƣơng mại khơng
quy định.
Tóm lại, BLDS năm 2015 là văn bản pháp luật quan trọng
quy định tƣơng đối đầy đủ về hợp đồng nói chung và hợp đồng
trong lĩnh vực thƣơng mại nói riêng. Các quy định của BLDS
năm 2015 trực tiếp điều chỉnh quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực
thƣơng mại trong trƣờng hợp các văn bản pháp luật chuyên ngành
không quy định.
Những quy định pháp luật về hợp đồng trong lĩnh vực thương
mại trong LTM năm 2005 và các luật chuyên ngành:
Ở Việt Nam, những quy định của BLDS đƣợc áp dụng chung
cho tất cả các loại hợp đồng. Bên cạnh đó, pháp luật về hợp
đồng trong lĩnh vực thƣơng mại còn đƣợc quy định trong LTM
năm 2005 và các luật chuyên ngành khác nhƣ: Luật Đƣờng sắt
năm 2005, Luật Du lịch năm 2005, Luật Hàng không dân dụng
Việt Nam năm 2006, Luật Hàng hải năm 2015, Luật Kinh doanh
bảo hiểm v.v.. Đặc điểm chung nhất của LTM và các luật chuyên
ngành đó là: không quy định cụ thể về các hợp đồng mà chủ yếu
quy định về các bên chủ thể, quyền và nghĩa vụ của các bên trong
từng hoạt động thƣơng mại. Đảm bảo tính thống nhất của pháp
luật hợp đồng, khi quy định về các loại hợp đồng cụ thể trong
lĩnh vực thƣơng mại, LTM năm 2005 và các luật chuyên ngành
khác không lặp lại những quy định chung về hợp đồng đã đƣợc
ghi nhận trong BLDS.
Quy định về từng loại hợp đồng cụ thể trong lĩnh vực thƣơng
mại, LTM và các luật chuyên ngành tập trung quy định về tính
1

Mục 1 - 13 Chƣơng XVI Phần thứ 3 BLDS năm 2015.


16


chất, chủ thể, hình thức, quyền và nghĩa vụ trong từng quan hệ
hợp đồng cụ thể.
Khi xác định tính chất của các hợp đồng cụ thể trong lĩnh vực
thƣơng mại, các luật chuyên ngành thƣờng đƣa ra khái niệm về
hợp đồng cụ thể đó.1 Riêng LTM năm 2005 khơng xác định khái
niệm về các hợp đồng trong lĩnh vực thƣơng mại, mà chỉ dừng lại
ở việc đặt tên cho từng loại hợp đồng tƣơng ứng từng hoạt động
thƣơng mại, ví dụ: Tƣơng ứng với hoạt động mua bán hàng hố
có hợp đồng mua bán hàng hoá; tƣơng ứng với hoạt động đại diện
cho thƣơng nhân có hợp đồng đại diện cho thƣơng nhân hay
tƣơng ứng với hoạt động ủy thác mua bán hàng hố có hợp đồng
ủy thác mua bán hàng hố. Tuy nhiên, tính chất của từng hoạt
động thƣơng mại (gồm mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ
thƣơng mại) lại đƣợc LTM năm 2005 ghi nhận đầy đủ. Những
tính chất của từng hoạt động thƣơng mại cụ thể đó cũng chính là
tính chất hay đặc điểm của các hợp đồng tƣơng ứng. Bởi lẽ, về
thực chất hợp đồng trong lĩnh vực thƣơng mại là hình thức pháp
lí của hoạt động thƣơng mại.
Việc xác định chủ thể tham gia từng quan hệ hợp đồng trong
lĩnh vực thƣơng mại cũng đƣợc LTM năm 2005 và các luật
chuyên ngành quy định thơng qua việc xác định tƣ cách pháp
lí của thƣơng nhân (doanh nghiệp) khi thực hiện một hoạt
động thƣơng mại cụ thể. Ví dụ: theo Điều 167 LTM năm 2005:
“1. Bên giao đại lí là thương nhân giao hàng hố cho đại lí
bán… 2. Bên đại lí là thương nhân nhận hàng hố để làm đại lí
bán…”. Nhƣ vậy, chỉ có thƣơng nhân mới đƣợc thực hiện đại lí
thƣơng mại và chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng đại lí thƣơng

mại phải là thƣơng nhân.

1

Điều 92 Luật Đƣờng sắt năm 2005; Điều 54 Luật Du lịch năm 2005; Điều 128
Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006.

17


Hình thức của từng hợp đồng trong lĩnh vực thƣơng mại đƣợc
LTM năm 2005 và các luật chuyên ngành quy định cụ thể đối với
từng loại hợp đồng. Ví dụ: (i) Hợp đồng mua bán hàng hoá đƣợc
thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc đƣợc xác lập bằng hành
vi cụ thể; đối với các loại hợp đồng mua bán hàng hoá mà pháp
luật quy định phải đƣợc lập thành văn bản thì phải tn theo các
quy định đó; mua bán hàng hoá quốc tế phải đƣợc thực hiện trên
cơ sở hợp đồng bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá
trị pháp lí tƣơng đƣơng.1 (ii) Hợp đồng đại diện cho thƣơng
nhân và hợp đồng ủy thác mua bán hàng hoá phải đƣợc lập thành
văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lí tƣơng đƣơng.2
(iii) Hợp đồng vận chuyển hàng hố bằng đƣờng khơng cũng phải
đƣợc xác lập bằng văn bản, vận đơn hàng không.3
Quyền và nghĩa vụ của các bên trong từng quan hệ hợp đồng
cụ thể đƣợc LTM năm 2005 quy định trong nội dung của từng
hoạt động thƣơng mại cụ thể.4 Các quyền, nghĩa vụ đƣợc pháp
luật quy định đối với mỗi hoạt động thƣơng mại có ý nghĩa quan
trọng trong việc kí kết và thực hiện các hợp đồng trong lĩnh vực
thƣơng mại. Các quyền và nghĩa vụ đó có thể là cơ sở để các thỏa
thuận thành quyền và nghĩa vụ cụ thể trong hợp đồng nhằm đảm

bảo các thỏa thuận trong hợp đồng không trái với quy định của
pháp luật. Ngoài ra, khi thực hiện hợp đồng, nếu khơng có thỏa
thuận khác thì các bên phải tn thủ các quyền và nghĩa vụ mà
pháp luật đã quy định.
Tóm lại, ngoài những quy định chung cho tất cả các hợp đồng
trong BLDS, nội dung của pháp luật về từng hợp đồng trong lĩnh
vực thƣơng mại còn đƣợc quy định trong LTM năm 2005 và các
1

Điều 24, Điều 27 LTM năm 2005.
Điều 142, Điều 159 LTM năm 2005.
3
Điều 128, Điều 129 Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006.
4
Các Điều 95, 96, 150, 155… LTM năm 2005.
2

18


luật chuyên ngành. Ngoài ra, các quy định điều chỉnh quan hệ
hợp đồng trong lĩnh vực thƣơng mại còn đƣợc ghi nhận trong các
điều ƣớc quốc tế song phƣơng và đa phƣơng mà Việt Nam tham
gia với tƣ cách thành viên. Chẳng hạn nhƣ: Hiệp định thƣơng mại
Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA), Hiệp định chung về thƣơng mại dịch
vụ của WTO (GATS), Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dƣơng
(TPP), Hiệp định thƣơng mại tự do Việt Nam - Liên minh châu
Âu (FTA), Công ƣớc Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng
hoá quốc tế (CISG) v.v.. Những quy định trong các điều ƣớc
quốc tế trực tiếp hoặc gián tiếp điều chỉnh các quan hệ hợp đồng

trong lĩnh vực thƣơng mại nói chung và hợp đồng thƣơng mại
quốc tế nói riêng.
2. Áp dụng pháp luật về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại
Hợp đồng trong lĩnh vực thƣơng mại đƣợc điều chỉnh bằng
pháp luật về hợp đồng trong lĩnh vực thƣơng mại. Các quy phạm
pháp luật về hợp đồng trong lĩnh vực thƣơng mại có thể thuộc
nhiều nguồn luật khác nhau, trong đó cơ bản phải kể đến là các
văn bản pháp luật quốc gia, điều ƣớc quốc tế, tập quán thƣơng
mại. Vấn đề đặt ra ở đây là việc áp dụng các nguồn luật trên đối
với hợp đồng trong lĩnh vực thƣơng mại nói chung cũng nhƣ đối
với từng hợp đồng cụ thể trong lĩnh vực thƣơng mại.
Ở Việt Nam, việc áp dụng pháp luật về hợp đồng trong lĩnh
vực thƣơng mại dựa trên các nguyên tắc đƣợc quy định trong
BLDS năm 2015, LTM năm 2005 và các văn bản luật chuyên
ngành. Trong đó, quy định các nguyên tắc về áp dụng BLDS năm
2015, LTM năm 2005 và các luật chuyên ngành, áp dụng Điều
ƣớc quốc tế, tập quán thƣơng mại, thói quen thƣơng mại.1
1

Điều 4, 5 BLDS năm 2015; Điều 4, 5 LTM năm 2005; Điều 2 Luật Đƣờng sắt
năm 2005; Điều 2, 3 Luật Du lịch năm 2005; Điều 3, 4 Luật Hàng không dân
dụng Việt Nam năm 2006; Điều 2, 3 Luật Hàng hải năm 2005; Điều 2 Luật Kinh
doanh bảo hiểm v.v..

19


- Áp dụng các văn bản luật quốc gia
Các văn bản pháp luật quốc gia là nguồn luật cơ bản và chủ yếu
nhất điều chỉnh các quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực thƣơng mại.

Các văn bản pháp luật hiện hành về hợp đồng trong lĩnh vực thƣơng
mại ở Việt Nam bao gồm BLDS năm 2015, LTM năm 2005, các
luật chuyên ngành1 và các văn bản hƣớng dẫn thi hành các luật đó.
Theo các nguyên tắc áp dụng pháp luật đƣợc quy định trong
các văn bản kể trên, khi kí kết và thực hiện hợp đồng trong lĩnh
vực thƣơng mại, trƣớc hết áp dụng văn bản pháp luật chuyên
ngành, nếu trong văn bản pháp luật chun ngành khơng quy định
thì áp dụng LTM năm 2005 và trong trƣờng hợp LTM năm 2005
cũng nhƣ luật chun ngành đó khơng quy định thì áp dụng những
quy định của BLDS về vấn đề đó. Với phạm vi áp dụng của BLDS,
các quy định về hợp đồng dân sự đƣợc áp dụng chung cho hợp
đồng nói chung trong các lĩnh vực dân sự, lao động, thƣơng mại và
đầu tƣ kinh doanh. Nhƣ vậy, BLDS là văn bản gốc điều chỉnh mọi
quan hệ hợp đồng, trong đó có hợp đồng trong thƣơng mại.
Ví dụ: Khi kí kết và thực hiện hợp đồng vận chuyển hàng hố
đƣờng sắt, văn bản đầu tiên đƣợc áp dụng đó là Luật Đƣờng sắt
năm 2005, nhƣng trong Luật Đƣờng sắt lại khơng có quy định về
chế tài, do đó, phải áp dụng những quy định về chế tài trong
thƣơng mại theo LTM. Tuy nhiên, LTM, Luật Đƣờng sắt đều
khơng có những nội dung liên quan đến hợp đồng vận chuyển vơ
hiệu thì văn bản đƣợc áp dụng ở đây sẽ là BLDS.
Đối với các hợp đồng thƣơng mại quốc tế, pháp luật quốc gia
có thể đƣợc áp dụng theo những điều kiện nhất định. Thông
thƣờng pháp luật quốc gia đƣợc áp dụng trong các trƣờng hợp
sau: (i) Các bên trong hợp đồng thỏa thuận lựa chọn áp dụng;
1

Ví dụ: Luật Đƣờng sắt năm 2005, Luật Du lịch năm 2005, Luật Hàng không dân
dụng Việt Nam năm 2006, Luật Hàng hải năm 2015, Luật Kinh doanh bảo hiểm v.v..


20


(ii) Điều ƣớc quốc tế mà các quốc gia (có các chủ thể của hợp
đồng mang quốc tịch của quốc gia đó) kí kết hoặc tham gia có
quy định điều khoản về luật áp dụng cho hợp đồng thƣơng mại
quốc tế là luật của một quốc gia nhất định; (iii) Cơ quan có thẩm
quyền giải quyết tranh chấp chọn luật áp dụng (khi các bên không
đạt đƣợc thỏa thuận về luật áp dụng cho quan hệ hợp đồng).
Trƣờng hợp có hai hay nhiều hệ thống pháp luật khác nhau
cùng có thể đƣợc áp dụng để điều chỉnh một quan hệ hợp đồng
thƣơng mại quốc tế, xung đột pháp luật sẽ nảy sinh và đòi hỏi
phải đƣợc giải quyết. Thực chất của việc giải quyết xung đột
pháp luật về hợp đồng thƣơng mại quốc tế là lựa chọn một hệ
thống pháp luật để áp dụng cho quan hệ hợp đồng thƣơng mại
quốc tế. Khi đƣợc chọn áp dụng, luật quốc gia đƣợc hiểu là toàn
bộ hệ thống pháp luật. Nếu luật của Việt Nam đƣợc chọn áp
dụng, thì tồn bộ các quy định có liên quan đến hợp đồng thƣơng
mại quốc tế sẽ đƣợc áp dụng.1
- Áp dụng Điều ước quốc tế
Trong lĩnh vực thƣơng mại nói chung và hợp đồng trong lĩnh
vực thƣơng mại nói riêng, có rất nhiều điều ƣớc quốc tế song
phƣơng và đa phƣơng đã đƣợc thiết lập mà Việt Nam đã hoặc sẽ
là thành viên. Trong đó phải kể đến các điều ƣớc quan trọng nhƣ:
Hiệp định chung về thƣơng mại dịch vụ của WTO (GATS), có
hiệu lực từ ngày 01/01/1995; Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình
Dƣơng (TPP), kí ngày 02/02/2016; Hiệp định thƣơng mại tự do
Việt Nam - EU (FTA), kết thúc đàm phán tháng 02/2016; Hiệp
định thƣơng mại Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA), có hiệu lực từ ngày
10/12/2001; Cơng ƣớc Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng

hoá quốc tế (CISG), có hiệu lực tại Việt Nam ngày 01/01/2017.
1

Xem thêm: Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb. Tƣ
pháp, Hà Nội, 2004, tr. 27 - 73; tr. 136 - 143.

21


Việc áp dụng Điều ƣớc quốc tế tại Việt Nam dựa trên các
nguyên tắc quy định trong BLDS, LTM1 cũng nhƣ các luật
chuyên ngành. Khi áp dụng điều ƣớc quốc tế đối với các hợp
đồng trong lĩnh vực thƣơng mại, cần phân biệt hai trƣờng hợp:
(i) Đối với những điều ƣớc quốc tế mà Việt Nam đã là thành
viên, nếu điều ƣớc có quy định khác với pháp luật Việt Nam, thì
áp dụng theo quy định của Điều ƣớc quốc tế;2
(ii) Đối với những điều ƣớc quốc tế mà Việt Nam chƣa là
thành viên, thì các bên trong hợp đồng trong lĩnh vực thƣơng mại
có quyền thỏa thuận áp dụng những nội dung không trái với
những nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
- Áp dụng tập quán thương mại
Tập quán thƣơng mại là nguồn luật rất quan trọng điều chỉnh
các quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực thƣơng mại, đặc biệt là
trong thƣơng mại quốc tế. Theo LTM năm 2005, tập quán thƣơng
mại là thói quen đƣợc thừa nhận rộng rãi trong hoạt động thƣơng
mại trên một vùng, miền hoặc một lĩnh vực thƣơng mại, có nội
dung rõ ràng đƣợc các bên thừa nhận để xác định quyền và nghĩa
vụ của các bên trong hoạt động thƣơng mại.3 Tập quán thƣơng
mại thƣờng đƣợc áp dụng để điều chỉnh các quan hệ hợp đồng
trong lĩnh vực thƣơng mại, khi các mối quan hệ này không đƣợc

điều chỉnh bởi hợp đồng giữa các bên hoặc điều ƣớc quốc tế và
luật pháp của các quốc gia.
Hiện nay, trong quan hệ thƣơng mại hàng hoá quốc tế, khi đề
cập đến tập quán thƣơng mại cần đặc biệt quan tâm đến Các điều
kiện thƣơng mại quốc tế, gọi tắt là Incoterms (International
Commercial Terms),4 Quy tắc và thực hành thống nhất về tín
1

Khoản 4 Điều 4 BLDS năm 2015; khoản 1 Điều 5 LTM năm 2005.
Khoản 1 Điều 5 LTM năm 2005.
3
Khoản 4 Điều 3 LTM năm 2005.
4
Bộ Incoterms đầu tiên đƣợc ICC ban hành vào năm 1936 dƣới tên gọi Incoterms
2

22


dụng chứng từ (Uniform Customs and Practise for Documentary
Credit - UCP) do Phòng Thƣơng mại quốc tế (International
Chamber of Commerce - ICC) tập hợp và phát hành...1
- Thói quen thương mại
Thói quen thƣơng mại cũng là nguồn quy phạm điều chỉnh
quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực thƣơng mại. Theo LTM, thói
quen trong hoạt động thƣơng mại là quy tắc xử sự có nội dung rõ
ràng đƣợc hình thành và lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài
giữa các bên, đƣợc các bên mặc nhiên thừa nhận để xác định
quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thƣơng mại.2
III. HOẠT ĐỘNG THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀ HỢP ĐỒNG

THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1. Khái quát chung về hoạt động thƣơng mại điện tử
a) Khái niệm về hoạt động thương mại điện tử
Hoạt động thƣơng mại điện tử là hoạt động thƣơng mại đƣợc
thực hiện thông qua phƣơng tiện điện tử. Khác với thƣơng mại
truyền thống là thƣơng mại đƣợc thực hiện dựa trên các tài liệu
bằng giấy (hợp đồng bằng văn bản giấy, chứng cứ bằng văn bản
giấy), thƣơng mại điện tử sử dụng các phƣơng tiện điện tử để
giao dịch và lƣu trữ thông tin.
Hoạt động thƣơng mại điện tử trƣớc tiên là hoạt động thƣơng
mại. Thuật ngữ “thƣơng mại” hiện nay đƣợc hiểu theo nghĩa
1936. Để phù hợp với thực tiễn thƣơng mại thế giới, Incoterms đã đƣợc sửa đổi,
bổ sung vào các năm 1953, 1967, 1976, 1980, 1990 và lần gần đây nhất là vào
cuối năm 1999, ICC đã cho ra đời bộ Incoterms 2000. Incoterms cung cấp một bộ
quy tắc quốc tế giải thích những điều kiện thƣơng mại thông dụng trong ngoại
thƣơng. Incoterms chỉ điều chỉnh những vần đề về quyền và nghĩa vụ của các bên
kí kết hợp đồng liên quan đến việc giao hàng (với ý nghĩa là hàng hố hữu hình).
Incoterms 2000 Gồm 13 điều kiện là: EXW; FCA; FAS; FOB; CFR; CIF; CPT;
CIP; DAF; DES; DEQ; DDU; DDP.
1
Bản hiện hành là UCP 500 đƣợc ICC ban hành năm 1993.
2
Khoản 3 Điều 3 LTM năm 2005.

23


rộng, là các hoạt động phát sinh lợi nhuận từ khâu sản xuất đến
tiêu dùng. Hoạt động thƣơng mại không chỉ dừng lại ở việc mua
bán, trao đổi hàng hoá đơn thuần mà còn bao trùm các hoạt động

liên quan nhƣ quảng cáo, chào hàng, đặt hàng, giao kết hợp đồng,
phân phối, giao nhận sản phẩm, thanh toán v.v.. Đối tƣợng của
thƣơng mại khơng chỉ bó hẹp ở lĩnh vực hàng hố mà cịn mở
rộng sang các lĩnh vực khác nhƣ dịch vụ, vốn (đầu tƣ), tài chính.
Là hoạt động thƣơng mại, thƣơng mại điện tử hội tụ các đặc
điểm cấu thành của thƣơng mại truyền thống. Giống nhƣ thƣơng
mại truyền thống, thƣơng mại điện tử đƣợc tạo nên bởi ba dịng
chảy: dịng thơng tin (ngƣời sản xuất và ngƣời tiêu dùng trao đổi
thông tin cho nhau để biết nhà cung cấp đang bán gì, ngƣời tiêu
dùng muốn mua cái gì), dịng hàng hố (sau khi trao đổi thơng tin
nhà cung cấp sẽ sử dụng nhiều phƣơng thức khác nhau để giao
hàng đã đƣợc yêu cầu cho khách hàng, từ đó tạo nên dịng hàng
hố) và dịng tiền tệ (sau khi đã nhận đƣợc sản phẩm mong muốn,
khách hàng sẽ trả tiền).
Khác với thƣơng mại truyền thống, ba dòng chảy này trong
thƣơng mại điện tử có những đặc trƣng riêng. Các dịng chảy này
đƣợc thực hiện thơng qua các phƣơng tiện điện tử. Ví dụ, đối với
dịng thơng tin, thơng qua việc sử dụng internet, các doanh
nghiệp có thể kết nối với khách hàng ở khắp nơi, vào bất cứ lúc
nào mà không cần phải tiến hành gặp gỡ trực tiếp. Với dịng tiền
tệ, khách hàng có thể sử dụng séc điện tử, thẻ tài chính điện tử để
trả tiền cho ngƣời bán, cho nhà sản xuất. Dịng hàng hố cũng có
thể đƣợc giao nhận thơng qua phƣơng tiện điện tử nhƣ việc số
hoá các bài hát, các quyển sách.
Thƣơng mại điện tử khơng địi hỏi cả ba dịng chảy này đều
phải đƣợc thực hiện thông qua phƣơng tiện điện tử. Mỗi giai đoạn
cấu thành giao dịch thƣơng mại điện tử đều có thể thực hiện bằng
phƣơng tiện điện tử hoặc khơng. Ví dụ, việc chào hàng, đặt hàng,
24



kí kết hợp đồng, thanh tốn tiền hàng có thể đƣợc thực hiện bằng
phƣơng tiện điện tử, còn việc giao nhận hàng có thể đƣợc thực hiện
theo hình thức thƣơng mại truyền thống: giao nhận hàng hữu hình.
Hiện nay, có nhiều cách hiểu khác nhau về thƣơng mại điện
tử đƣợc đƣa ra bởi nhiều thiết chế quốc tế về thƣơng mại nhƣ Tổ
chức thƣơng mại thế giới WTO, Ủy ban về Luật thƣơng mại của
Liên hợp quốc UNCITRAL, Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh
tế OECD.1 Tuy nhiên, các cách hiểu đều thống nhất ở một điểm
chung, theo đó, thƣơng mại điện tử là việc thực hiện các giao
dịch thƣơng mại thông qua các phƣơng tiện điện tử.
Phƣơng tiện điện tử là phƣơng tiện hoạt động dựa trên công
nghệ điện, điện tử, kĩ thuật số, từ tính, truyền dẫn không dây,
quang học, điện từ hoặc công nghệ tƣơng tự.2 Các phƣơng tiện
điện tử đƣợc sử dụng trong thƣơng mại điện tử rất đa dạng. Một
số loại phƣơng tiện điện tử đƣợc sử dụng phổ biến là: (i) Các loại
phƣơng tiện viễn thông nhƣ điện thoại, telex, fax; (ii) Phát thanh,
truyền hình; (iii) Thiết bị kĩ thuật thanh tốn điện tử; (iv) Hệ
thống trao đổi dữ liệu và internet.
Tuy nhiên, với sự phát triển và phổ cập của internet hiện nay,
thƣơng mại điện tử dƣờng nhƣ đƣợc hiểu là việc thực hiện các
giao dịch thƣơng mại thơng qua internet. Chính vì vậy, mà thuật
ngữ “thƣơng mại điện tử” thƣờng đƣợc thể hiện theo ngôn ngữ
thông dụng của thế giới là “e-commerce” với “e” là biểu tƣợng
của internet. Trên thực tế, chính các hoạt động thƣơng mại thơng
qua mạng internet đã làm phát sinh thuật ngữ “thƣơng mại điện
tử”. Theo một số các chuyên gia, thƣơng mại điện tử đƣợc hiểu
theo nghĩa hẹp chỉ gồm các hoạt động thƣơng mại đƣợc tiến hành
trên mạng máy tính mở nhƣ internet.
1


TS. Phạm Ngọc Thúy (chủ biên), Thương mại điện tử dành cho doanh nghiệp,
Nxb. Lao động xã hội, 2006, tr. 6.
2
Điều 4 Luật Giao dịch điện tử năm 2005.

25


×