Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Khởi kiện vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.92 MB, 101 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHAN THANH DƢƠNG

ĐỀ TÀI

KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ THEO QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Định hƣớng Nghiên cứu

Hà Nội – 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHAN THANH DƢƠNG

ĐỀ TÀI

KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ THEO QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Định hƣớng Nghiên cứu

Chuyên ngành

: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự

Mã số

: 8380103

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN CƠNG BÌNH

Hà Nội – 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chƣa từng đƣợc công bố trong bất kỳ cơng
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, đƣợc
trích dẫn theo đúng quy định.
Tơi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
Tác giả luận văn

Phan Thanh Dƣơng


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS


: Bộ luật Dân sự

BLLĐ

: Bộ luật Lao động

BLTTDS

: Bộ luật Tố tụng dân sự

HNGĐ

: Hôn nhân và gia đình

HĐTPTANDTC

: Hội đồng thẩm phán Tịa án nhân dân tối cao

KDTM

: Kinh doanh thƣơng mại

NLHVDS

: Năng lực hành vi dân sự

NLHVTTDS

: Năng lực hành vi tố tụng dân sự


PLTTGQVADS

: Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án dân sự

TAND

: Tòa án nhân dân

TGPL

: Trợ giúp pháp lý

TTDS

: Tố tụng dân sự

UBND

: Ủy ban nhân dân

VADS

: Vụ án dân sự


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
1. CÁC PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................................................1
2. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN VĂN ............................2
3. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI ...............................4

4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI ........................................4
5. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI ...................................................................5
6. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI .........................................................................5
7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN .................................................................................5
Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ .....6
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của khởi kiện vụ án dân sự ...........................6
1.1.1. Khái niệm khởi kiện vụ án dân sự ..............................................................6
1.1.2. Đặc điểm của khởi kiện vụ án dân sự ......................................................13
1.1.3. Ý nghĩa của khởi kiện vụ án dân sự..........................................................17
1.2. Cơ sở của việc pháp luật quy định khởi kiện vụ án dân sự ............................18
1.2.1. Cơ sở lý luận của việc pháp luật quy định khởi kiện vụ án dân sự ..........18
1.2.2. Cơ sở thực tiễn của việc pháp luật quy định khởi kiện vụ án dân sự .......21
1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến hiệu quả khởi kiện vụ án dân sự ..........................22
1.3.1. Các quy định của pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự ............................22
1.3.2. Năng lực tham gia tố tụng của người khởi kiện vụ án dân sự .................22
1.3.3. Sự hỗ trợ của Luật sư đối với người khởi kiện vụ án dân sự ...................23
1.3.4. Hoạt động thụ lý giải quyết vụ án dân sự của Tòa án .............................24
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................25
Chƣơng 2 THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ...........26
2.1. Thực trạng các quy định về điều kiện khởi kiện vụ án dân sự .......................26
2.1.1. Quy định về điều kiện chủ thể khởi kiện ...................................................26
2.1.1.1. Quy định về điều kiện chủ thể có quyền khởi kiện vụ án dân sự .......26
2.1.1.2. Quy định về điều kiện để chủ thể thực hiện quyền khởi kiện vụ án dân sự .33
2.1.2. Quy định về điều kiện thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án ..39


2.1.3. Quy định về điều kiện vụ án chưa được giải quyết bằng bản án, quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật hoặc quyết định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật....................................................44

2.1.4. Quy định về tài liệu, chứng cứ xuất trình kèm theo đơn khởi kiện ..........47
2.1.5. Quy định về điều kiện tiền tố tụng ............................................................48
2.1.6. Quy định về thời hiệu khởi kiện ................................................................50
2.2. Thực trạng các quy định về phạm vi, hình thức và thủ tục khởi kiện vụ án dân
sự ............................................................................................................................51
2.2.1. Quy định về phạm vi khởi kiện vụ án dân sự............................................51
2.2.2. Quy định về hình thức khởi kiện vụ án dân sự .........................................53
2.2.3. Quy định về thủ tục khởi kiện vụ án dân sự .............................................53
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2..........................................................................................55
Chƣơng 3 THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG DÂN SỰ VỀ KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ .......56
3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự ...56
3.1.1. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện các quy định của pháp luật
tố tụng dân sự về khởi kiện vụ án dân sự ...........................................................56
3.1.2. Những hạn chế, bất cập trong việc thực hiện các quy định của pháp luật
tố tụng dân sự về khởi kiện vụ án dân sự ...........................................................58
3.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong việc thực hiện các quy
định của pháp luật tố tụng dân sự về khởi kiện vụ án dân sự ............................69
3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả khởi kiện vụ án dân sự ................72
3.2.1. Kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về khởi
kiện vụ án dân sự ................................................................................................72
3.2.2. Kiến nghị thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về khởi
kiện vụ án dân sự ................................................................................................76
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3..........................................................................................80
KẾT LUẬN CHUNG ..............................................................................................81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trƣớc khi ban hành Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004, vấn đề khởi
kiện VADS đã đƣợc quy định trong ba pháp lệnh về thủ tục tố tụng. Đó là Pháp
lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (PLTTGQVADS) 1989, Pháp lệnh Thủ tục
giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp
lao động năm 1996. Các quy định về khởi kiện vụ án dân sự (VADS) trong các
pháp lệnh này là cơ sở pháp lý quan trọng để các chủ thể có thể sử dụng bảo vệ
quyền và lợi ích của mình trƣớc Tịa án và cũng là cơ sở để Tòa án xem xét thụ lý
giải quyết các vụ tranh chấp. BLTTDS năm 2004 đƣợc Quốc hội thông qua tại kỳ
họp thứ 5 ngày 15/6/2004 đã kế thừa và phát triển các quy định của ba pháp lệnh về
thủ tục tố tụng dân sự trƣớc đó. Đến năm 2011, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của BLTTDS đƣợc ban hành nhằm khắc phục một số hạn chế, vƣớng mắc của
BLTTDS, trong đó có vấn đề khởi kiện VADS. Tuy nhiên, một số quy định của Bộ
luật này về khởi kiện VADS vẫn còn hạn chế và bất cập. Sự thiếu cụ thể, rõ ràng
của một số quy định của pháp luật đã làm cho đƣơng sự khó khăn khi xác định các
điều kiện khởi kiện để nộp đơn khởi kiện, khó khăn cho Tịa án khi thụ lý các đơn
khởi kiện. Năm 2013, Nhà nƣớc ban hành Hiến pháp mới ghi nhận và bảo đảm thực
hiện các quyền dân sự cơ bản của công dân, các quy định về khởi kiện VADS trong
BLTTDS năm 2004 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS năm 2011
cũng cần đƣợc hồn thiện nhằm cụ thể hóa việc thực hiện quyền này. Ngày
25/11/2015, BLTTDS năm 2015 đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng hịa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 10 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày
01/7/2016. Tuy nhiên, trong thực hiễn giải quyết các VADS tại các Tòa án vẫn cịn
gặp nhiều vƣớng mắc, bất cập, có nhiều ý kiến khác nhau trong việc thực hiện các
quy định này và chƣa đƣợc các cơ quan có thẩm quyền giải thích một cách đầy đủ
và thống nhất. Ngồi ra, cũng có nhiều quy định mới cần đƣợc hiểu chính xác và
đƣợc hƣớng dẫn cụ thể để triển khai áp dụng trên thực tế. Việc nghiên cứu chuyên
sâu lý luận về khởi kiện VADS sẽ góp phần đƣa đến nhận thức sâu sắc hơn về các
quy định hiện hành, chỉ ra đƣợc những khuyết điểm, hạn chế của pháp luật vẫn còn



2

tồn tại để từ đó có những đề xuất giải pháp có giá trị tham khảo cho việc hồn thiện
pháp luật về khởi kiện VADS tại các Tòa án trên cả nƣớc. Với những lý do trên, tôi
đã lựa chọn đề tài “Khởi kiện vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015” làm Luận văn cao học luật của mình.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Quá trình tìm hiểu và nghiên cứu đề tài cho thấy, trong thời gian trƣớc và sau
khi BLTTDS năm 2015 đƣợc ban hành đã có một số cơng trình nghiên cứu về vấn
đề khởi kiện VADS đƣợc cơng bố.
Về đề tài nghiên cứu khoa học, có cơng trình nghiên cứu khoa học cấp cơ sở
đề tài “Hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết vụ án dân sự theo định hướng cải
cách tư pháp” do PGS.TS. Trần Anh Tuấn chủ nhiệm, thực hiện ở Trƣờng Đại học
Luật Hà Nội năm 2010.
Về các bài báo, tạp chí, có bài “Bàn về điều kiện khởi kiện của các tổ chức tín
dụng có tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay” của tác giả Trịnh Huy Tân đăng trên
Tạp chí Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao số 9/2008; bài “Về việc rút đơn
khởi kiện của đương sự trong tố tụng dân sự” của tác giả Nguyễn Triều Dƣơng
đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân số tháng 11/2009; bài “Về điều kiện khởi kiện
tranh chấp thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án trong một vụ án cụ
thể” của tác giả Ngơ Đình Quyến đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân tháng 3/2008;
bài “Những vấn đề cơ bản lưu ý khi thụ lý đơn khởi kiện, khởi tố, đơn yêu cầu trong
giải quyết vụ án dân sự” của tác giả Duy Kiên đăng trên Tạp chí Kiểm sát số
7/2012; bài “Các điều kiện cần và đủ khi khởi kiện vụ án dân sự” của tác giả Tƣởng
Duy Lƣợng đăng trên Tạp chí Kiểm sát số Tân Xuân/2012; bài “Đảm bảo quyền
khởi kiện vụ án dân sự theo quy định của Luật sửa đổi bổ sung bộ luật tố tụng dân
sự” của tác giả Đặng Thanh Hoa đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý số 2/2012; bài
“Một số ý kiến về thời hiệu khởi kiện theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung Bộ

luật tố tụng dân sự năm 2004” của tác giả Lê Mạnh Hùng đăng trên Tạp chí Kiểm
sát số 10/2012; bài “Chủ thể khởi kiện vụ án dân sự và thực tiễn áp dụng” của tác
giả Đặng Hoàng Quân đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân số 23/2013; bài “Giải
quyết việc nguyên đơn rút đơn yêu cầu khởi kiện trong vụ án dân sự nhiều nguyên
đơn có đúng yêu cầu” của tác giả Bùi Thị Tố Nga đăng trên Tạp chí Tịa án nhân


3

dân số 1/2014; bài “Khởi kiện vụ án dân sự theo quy định của BLTTDS năm 2015”
của tác giả Bùi Thị Huyền đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 12/2017; bài “Bắt đầu lại
thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự” của tác giải Nguyễn Minh Hằng đăng trên Tạp chí
Kiểm sát số 13/2017…
Về luận văn, luận án, có Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Cơng Bình bảo vệ
tại Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm 2006 với đề tài “Bảo đảm quyền bảo vệ của
đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ luật học của học viên
Liễu Thị Hạnh bảo vệ bảo vệ tại Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm 2009 với đề tài
“Thụ lý vụ án dân sự, một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận văn thạc sĩ luật học
“Quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện trong tố tụng dân sự Việt Nam” của
học viên Trần Đức Thành bảo vệ tại Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm 2011; Luận
văn thạc sĩ luật học “Khởi kiện vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân
sự năm 2004” của tác giả Nguyễn Thị Hƣơng bảo vệ tại Khoa luật trực thuộc Đại
học Quốc gia Hà Nội năm 2012; Luận văn thạc sĩ luật học “Khởi kiện vụ án dân
sự” của học viên Trần Thị Lƣợt bảo vệ tại Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm 2014;
Luận văn thạc sĩ luật học “Khởi kiện vụ án dân sự và thực tiễn thực hiện tại tỉnh
Điện Biên” của học viên Bùi Thị Quế Anh bảo vệ tại Trƣờng Đại học Luật Hà Nội
năm 2016; Luận văn thạc sĩ luật học “Khởi kiện, thụ lý vụ án dân sự có yếu tố nước
ngồi và thực tiễn thực hiện tại các Tòa án trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh” của học
viên Bùi Thị Thanh Mai bảo vệ tại Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm 2017; Luận
văn thạc sĩ luật học “Quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện vụ án dân sự

theo BLTTDS năm 2015” của Lê Thị Thu Thủy, bảo vệ tại Trƣờng Đại học Luật Hà
Nội năm 2017 …
Ngồi ra, cịn nhiều bài viết riêng lẻ khác đăng tải trên các trang Web về luật học.
Các cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập đến khởi kiện VADS ở nhiều góc độ
khác nhau. Trên cơ sở kế thừa các kết quả nghiên cứu trƣớc đó, các tác giả đã phát
triển thêm những vấn đề lý luận pháp lý, làm sáng tỏ đƣợc nhiều vấn đề liên quan
đến khởi kiện VADS. Tuy nhiên, chƣa có cơng trình nghiên cứu nào nghiên cứu
một cách đầy đủ, toàn diện vấn đề khởi kiện VADS theo quy định của BLTTDS
năm 2015.


4

3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Đối tƣợng nghiên cứu đề tài luận văn là các vấn đề lý luận về khởi kiện
VADS, các quy định của pháp luật về khởi kiện VADS và thực tiễn thi hành các
quy định này tại các Tòa án nhân dân (TAND) Việt Nam.
Khởi kiện VADS gồm nhiều nội dung, có thể đƣợc nghiên cứu dƣới rất nhiều
góc độ khác nhau nhƣ một quyền pháp lý; một thủ tục pháp lý hay một hoạt động
pháp lý. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của luận văn thạc sỹ luật học phạm vi đề tài
chỉ tập trung vào những vấn đề lý luận cơ bản về khởi kiện VADS, những quy định
của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về khởi kiện VADS và thực tiễn
áp dụng chúng tại các TAND Việt Nam trong những năm gần đây dƣới góc độ khởi
kiện VADS là hoạt động tố tụng mà các chủ thể thực hiện theo trình tự, thủ tục do
pháp luật quy định.
4. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Mục tiêu nghiên cứu đề tài nhằm góp phần làm rõ hơn một số vấn đề lý luận
về khởi kiện VADS, nội dung của các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về khởi
kiện VADS và thực tiễn áp dụng các quy định này, qua đó phát hiện đƣợc những
vƣớng mắc, bất cập trong các quy định của pháp luật hiện hành về khởi kiện VADS

cũng nhƣ thực tiễn thực hiện để đƣa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của
pháp luật về vấn đề này và nâng cao hiệu quả thực hiện.
Để đạt đƣợc mục đích nêu trên, việc nghiên cứu đề tài có các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về khởi kiện VADS nhƣ khái niệm,
đặc điểm, ý nghĩa của khởi kiện VADS và cơ sở của việc pháp luật quy định khởi
kiện VADS;
- Tìm hiểu, phân tích các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về
khởi kiện VADS;
- Khảo sát thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam về khởi kiện VADS;
- Phát hiện những vƣớng mắc, bất cập trong các quy định của pháp luật tố tụng
dân sự Việt Nam về khởi kiện VADS và thực tiễn thực hiện, từ đó tìm ra các giải
pháp kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam về khởi kiện
VADS và nâng cao hiệu quả thực hiện.


5

5. CÁC PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện mục đích của đề tài nói trên, việc nghiên cứu đƣợc tiến hành dựa
trên cơ sở phƣơng pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin và Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
về Nhà nƣớc và pháp luật, các quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về cải cách
hành chính, cải cách tƣ pháp ở nƣớc ta.
Việc nghiên cứu cũng sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu khoa học nhƣ
phƣơng pháp phân tích, lịch sử, tổng hợp, logic, quy nạp, thống kê, so sánh… nhằm
làm sáng tỏ các vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu đề tài.
6. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN VĂN
Luận văn là cơng trình nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề liên quan
đến khởi kiện vụ án dân sự theo quy định của BLTTDS năm 2015. Những đóng góp
của luận văn đƣợc thể hiện trên một số phƣơng diện sau đây:

- Góp phần hồn thiện khái niệm khởi kiện VADS; phân tích làm rõ thêm các
đặc điểm, ý nghĩa của khởi kiện VADS và cơ sở của việc pháp luật quy định về
khởi kiện VADS;
- Phân tích, đánh giá đúng đƣợc thực trạng các quy định của pháp luật tố tụng
dân sự Việt Nam về khởi kiện VADS, thấy đƣợc những bất cập, vƣớng mắc trong
các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về khởi kiện VADS và thực
tiễn thực hiện, từ đó tìm ra các giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả khởi
kiện VADS;
- Luận văn là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho việc giảng dạy, học tập và
nghiên cứu của các cơ sở đào tạo, các cơ sở nghiên cứu pháp luật, các cơ quan lập
pháp và các cơ quan thi hành pháp luật.
7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tham khảo, nội dung luận văn gồm
03 chƣơng:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về khởi kiện vụ án dân sự
Chƣơng 2: Thực trạng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam
hiện hành về khởi kiện vụ án dân sự
Chƣơng 3: Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam về khởi kiện vụ án dân sự và kiến nghị


6

Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của khởi kiện vụ án dân sự
1.1.1. Khái niệm khởi kiện vụ án dân sự
Hiện nay, trong cuộc cách mạng 4.0 về cơng nghệ đang diễn ra trên tồn thế
giới, con ngƣời ngày càng xích lại gần nhau hơn, cùng với đó nhiều mối quan hệ xã
hội mới cũng đƣợc phát sinh và kéo theo khơng thể thiếu chính là sự tranh chấp về

quyền và lợi ích giữa các chủ thể khi xảy ra mâu thuẫn. Các chủ thể khị bị xâm
phạm về quyền và lợi ích có thể lựa chọn một trong rất nhiều phƣơng thức giải
quyết nhƣ thƣơng lƣợng, trung gian, hoà giải; giải quyết ở cơ quan tài phán phi nhà
nƣớc (trọng tài thƣơng mại,...) hoặc giải quyết ở Tồ án thơng qua việc u cầu Tịa
án giải quyết yêu cầu của mình. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền đƣa ra u cầu
của mình đến Tồ án có thẩm quyền để buộc ngƣời có hành vi vi phạm phải chấm
dứt hành vi vi phạm, phải bồi thƣờng thiệt hại để phục hồi các quyền dân sự, phải
thực hiện nghĩa vụ dân sự... Nhƣ vậy, có thể nói cơ sở làm phát sinh thủ tục giải
quyết VADS tại Tòa án dựa trên yêu cầu của các chủ thể. Việc đƣa ra yêu cầu này
gọi là khởi kiện VADS theo thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm.
Khởi kiện VADS là một thủ tục có tính truyền thống lâu đời của tố tụng dân sự
(TTDS). Tuy nhiên, trƣớc khi khởi kiện đến Tòa án nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình chủ thể phải là ngƣời có quyền khởi kiện nhằm tránh khả năng
một ngƣời khơng có quyền khởi kiện nhƣng thực hiện việc khởi kiện rồi gây thiệt hại
cho các chủ thể khác. Trƣớc đây, khi xã hội đã có Nhà nƣớc, pháp luật đã ghi nhận
quyền khởi kiện của các tổ chức, các nhân khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp
của mình bị xâm phạm có quyền khởi kiện yêu cầu cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Theo cổ luật La Mã, pháp luật đã ghi
nhận quyền khởi kiện của cơng dân La Mã, theo đó, ngƣời có quyền, lợi ích bị xâm
phạm có quyền khởi kiện đến Tòa án yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi hợp pháp của
mình. Những chủ thể này có thể khởi kiện hay không khởi kiện và việc khởi kiện này
phụ thuộc vào ý chí của ngƣời đó. Trong xã hội ngày nay, khi quyền con ngƣời ngày
càng đƣợc đề cao và bảo vệ thì quyền khởi kiện lại là một trong những nhóm quyền


7

tố tụng thuộc quyền con ngƣời. Theo Điều 8 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm
1948 đã ghi nhận: “Mọi người đều có quyền được bảo vệ bằng các Tịa án quốc gia
có thẩm quyền với phương tiện pháp lý có hiệu lực chống lại những hành vi vi phạm

các quyền căn bản đã được Hiến pháp và pháp luật công nhận.” 1
Từ việc ghi nhận quyền con ngƣời trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền
năm 1948 vào Hiến pháp thì để cụ thể hóa quyền con ngƣời nói chung và quyền
khởi kiện nói riêng pháp luật Việt Nam đã có những bƣớc phát triển nhất định.
Trƣớc khi BLTTDS năm 2004 ra đời, đã có khơng ít văn bản pháp luật quy định về
vấn đề quyền khởi kiện của đƣơng sự. Theo đó, quyền khởi kiện của đƣơng sự đƣợc
hiểu theo nghĩa rất rộng, cụ thể, quyền khởi kiện đƣợc hiểu là khả năng Nhà nƣớc
cho phép công dân đƣợc u cầu Tịa án có thẩm quyền bảo về quyền và lợi ích hợp
pháp của mình khi bị xâm hại hoặc yêu cầu cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền công
nhận một sự kiện pháp lý, các quyền dân sự, hơn nhân gia đình, kinh doanh, thƣơng
mại, lao động. Sắc lệnh số 85 ngày 22/05/1950 về cải cách bộ máy tƣ pháp và tố
tụng… thuật ngữ vụ kiện dân sự đƣợc dùng để chỉ những tranh chấp dân sự có u
cầu Tịa án giải quyết. Đến năm 1959, khi Hiến pháp năm 1959 ra đời, thuật ngữ vụ
kiện dân sự trƣớc đây đƣợc thay bằng thuật ngữ vụ án, cụ thể theo Điều 1 Luật tổ
chức Tòa án nhân dân năm 1960 quy định “Tòa án nhân dân xét xử những vụ án
hình sự và dân sự…”, khái niệm VADS ở đây đƣợc dùng để chỉ những vụ kiện dân
sự và những việc dân sự đặc biệt.
Về phƣơng diện lý luận, TS. Hoàng Ngọc Thỉnh đã khẳng định trong Giáo
trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm 1994
rằng: “Quyền khởi kiện VADS là quyền tố tụng của công dân, pháp nhân và các tổ
chức xã hội yêu cầu Tòa án nhân dân bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của mình, của
tập thể của Nhà nước hay của người khác đang bị tranh chấp hoặc vi phạm”2. Khái
niệm này đƣợc xây dựng trƣớc khi BLTTDS năm 2004 có hiệu lực, trên cơ sở các
quy định tại PLTTGQVADS do Hội đồng Nhà nƣớc ban hành năm 1989. Theo đó,
khái niệm quyền khởi kiện VADS trong trƣờng hợp này đƣợc thực hiện đối với cả
việc dân sự khơng có tranh chấp, nhƣ vậy, quyền khởi kiện sẽ đƣợc hiểu theo nghĩa
1

Trần Anh Tuấn (2008), Quyền khởi kiện và việc xác định tƣ cách tham gia tố tụng, Tạp chí Tịa án nhân
dân, (23), tr.12

2
Phan Hữu Thƣ (1994), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, tr.109,110.


8

rộng hơn, đồng nhất với quyền yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự. Bên cạnh
đó, TS. Hồng Ngọc Thỉnh đƣa ra khái niệm trên để nhằm phân biệt với khái niệm
quyền khởi tố VADS của Viện kiểm sát nhân dân. Cho đến khi BLTTDS năm 2004
ra đời là một bƣớc ngoặt lớn trong TTDS, quy định tại bộ luật này đã phân định rõ
ràng giữa VADS và việc dân sự, theo đó, thủ tục giải quyết VADS trƣớc đây đƣợc
tách thành hai thủ tụ riêng biệt đó là thủ tục giải quyết VADS và thủ tục giải quyết
việc dân sự đồng thời Viện kiểm sát khơng cịn quyền khởi tố VADS. Chính vì thế
mà khái niệm quyền khởi kiện sẽ đƣợc hiểu theo nghĩa hẹp hơn. Tƣơng tự, TS.
Phan Chí Hiếu cho rằng “Quyền khởi kiện VADS là quyền tố tụng của cá nhân,
pháp nhân, các tổ chức xã hội hoặc các chủ thể khác theo quy định của pháp luật tố
tụng dân sự yêu cầu Tòa án bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp củ mình, của Nhà
nước, tập thể hay của người khác đang bị tranh chấp hoặc bị vi phạm”3.Theo
BLTTDS năm 2004 thì có hai loại thủ tục riêng biệt là thủ tục giải quyết vụ việc
dân sự và thủ tục giải quyết việc dân sự. Theo đó, khái niệm vụ việc dân sự đã thay
cho khái niệm VADS trƣớc đây. Vụ việc dân sự bao gồm VADS và việc dân sự.
VADS bao gồm các tranh chấp về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thƣơng
mại và lao động. Việc dân sự là những yêu cầu của cơ quan, cá nhân, tổ chức khơng
có tranh chấp u cầu Tịa án cơng nhận hoặc khơng cơng nhận một sự kiện pháp
lý. Ta có thể một lần nữa khẳng định khái niệm về quyền khởi kiện quy định trong
BLTTDS năm 2004 đã đƣợc hiểu theo nghĩa hẹp hơn trƣớc đây.
Về khái niệm khởi kiện VADS, dƣới góc độ ngơn ngữ học, theo Từ điển Tiếng
Việt thì khởi kiện đƣợc hiểu là “đứng ra đưa đơn kiện (trong một vụ án)”4
TS. Hoàng Ngọc Thỉnh cho rằng “ Quyền khởi kiện VADS là quyền quan trọng
của các chủ thể. Nó cho phép cá nhân cơ quan, tổ chức và các chủ thể khác bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tịa án. Việc thực hiện quyền này của các
chủ thể được gọi là khởi kiện vụ án dân sự.” và “Khởi kiện VADS là việc cá nhân,
cơ quan, tổ chức hoặc các chủ thể khác theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự
nộp đơn u cầu Tịa án có thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình

3

Phan Hữu Thƣ, Lê Thu Hà (2007), Giáo trình luật tơ tụng dân sự, Học viện Tƣ pháp, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội, tr.305.
4
Trung tâm ngơn ngữ và văn hóa Việt Nam - Bộ giáo dục và đào tạo “Đại từ điển Tiếng Việt”, Nxb Văn hóa
– Thơng tin, Tr. 889


9

hay của người khác”5. Theo đó, khởi kiện là hành vi đầu tiên của cá nhân, pháp
nhân và chủ thể khác tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, là cơ sở làm
phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Tƣơng tự, ThS. Huỳnh Thị Nam Hải
cũng đề cập đến khái niệm về khởi kiện VADS nhƣ sau: “Khởi kiện là việc cá
nhân, pháp nhân hoặc các chủ thể khác theo quy định của pháp luật TTDS nộp đơn
u cầu Tịa án có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay của
người khác”6.Theo những kết quả nghiên cứu này, có thể thấy khởi kiện VADS
đƣợc nhìn nhận dƣới rất nhiều góc độ nhƣ: là một quyền tố tụng, là một hành vi
pháp lý thông qua việc thực hiện quyền khởi kiện u cầu Tịa án bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của chủ thể hoặc là một hoạt động tố tụng của chủ thể u cầu Tịa
án có thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Khi đi sâu vào nghiên cứu về khởi kiện VADS ta thấy, quyền khởi kiện VADS
theo thủ tục giải quyết tại Tòa án cấp sơ thẩm là một quyền tố tụng quan trọng mà
pháp luật quy định cho các chủ thể có quyền khởi kiện để những chủ thể này chống

lại hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ từ phía các chủ thể
khác. Tuy nhiên, để thực hiện đƣợc quyền này, chủ thể có quyền khởi kiện phải
thực hiện những thủ tục theo quy định của pháp luật TTDS nhƣ phải làm đơn khởi
kiện, xuất trình các tài liệu chứng cứ để chứng minh cho u cầu của mình là có căn
cứ và hợp pháp, phải nộp án phí sơ thẩm theo quy định trừ trƣờng hợp đƣợc miễn
theo quy định của pháp luât,... Chính vì vây, nếu nhìn nhận khởi kiện VADS dƣới
góc độ là một quyền pháp lý thì mới chỉ ra đƣợc chủ thể có quyền khởi kiện mà
chƣa chỉ ra đƣợc đối tƣợng khởi kiện, lý do khởi kiện, phạm vi khởi kiện và Tịa án
có thẩm quyền xét xử theo thủ tục sơ thẩm VADS.
Mặt khác, nếu chúng nhìn nhận khởi kiện VADS dƣới góc độ là một hành vi
pháp lý thơng qua hành vi nộp đơn u cầu Tịa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp thì mới chỉ ra đƣợc chủ thể có quyền khởi kiện, đối tƣợng khởi kiện và Tịa án
có thẩm quyền xét xử theo thủ tục sơ thẩm VADS mà chƣa chỉ ra đƣợc thủ tục khởi
kiện, lý do khởi kiện và phạm vi khởi kiện.

5

Nguyễn Cơng Bình (2017), Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,
tr.241.
6
Nguyễn Thị Hồng Nhung (Chủ biên, 2017), Giáo trình Luật tố tụng dân sự, Nxb, Đại học Quốc gia TP. Hồ
Chí Minh, Tr. 188


10

Khởi kiện VADS là hoạt động tố tụng của cơ quan, tổ chức, cá nhân dẫn đến
hậu quả pháp lý Tòa án phải xem xét thụ lý và giải quyết VADS. Để tránh việc khởi
kiện tràn lan, khơng có căn cứ dẫn đến xâm phạm quyền, lợi ích của chủ thể khác và
việc giải quyết VADS của Tịa án có hiệu quả, pháp luật phải quy định đầy đủ, cụ

thể các vấn đề liên quan đến khởi kiện VADS nhƣ các chủ thể có quyền khởi kiện,
điều kiện khởi kiện VADS, phạm vi khởi kiện VADS, trình tự, thủ tục khởi kiện
VADS v.v…
Thông thƣờng, để các chủ thể bảo vệ đƣợc quyền, lợi ích hợp pháp của họ, pháp
luật phải quy định chủ thể có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm có quyền tự mình
hoặc thơng qua ngƣời đại diện hợp pháp khởi kiện VADS. Ngoài ra, pháp luật cịn quy
định một số chủ thể có thể khởi kiện VADS để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của ngƣời khác hoặc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nƣớc.
Để khởi kiện VADS, các chủ thể khởi kiện VADS còn phải đáp ứng đƣợc các
điều kiện nhất định. Pháp luật quy định những điều kiện rất chặt chẽ để một đơn
khởi kiện đƣợc Tịa án chấp nhận mà khơng bị trả lại, có nghĩa là các điều kiện khởi
kiện ở Việt Nam tồn tại nhƣ một hệ thống sang lọc sơ bộ đối với đơn khởi kiện, nếu
đơn khởi kiện đáp ứng đầy đủ các điều kiện khởi kiện thì vụ án mới đƣợc thụ lý.
Hiện nay có rất nhiều quan điểm về vấn đề này, quan điểm thứ nhất cho rằng điều
kiện khởi kiện bao gồm: (i) Ngƣời khởi kiện có quyền khởi kiện và có năng lực
hành vi tố tụng dân sự; (ii) Vụ án khởi kiện phải thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án (bao gồm thẩm quyền theo loại việc, thẩm quyền theo cấp Tòa án và thẩm
quyền của Tòa án theo lãnh thổ); (iii) Vụ việc phải đƣợc cơ quan, tổ chức khác giải
quyết trƣớc khi khởi kiện nếu pháp luật có quy định; (iiii) Sự việc chƣa đƣợc giải
quyết bằng một bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tịa án hoặc quyết
định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền; (iiiii) Hình thức đơn khởi
kiện đáp ứng các yêu cầu của pháp luật tố tụng dân sự7. Quan điểm thứ hai cho rằng
điều kiện khởi kiện bao gồm: (i) Chủ thể có quyền khởi kiện; (ii) Vụ án đƣợc khởi
kiện phải thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án (Gồm thẩm quyền chung, thẩm
quyền theo cấp và thẩm quyền theo lãnh thổ); (iii) Phạm vi khởi kiện; (iiii) Hình

7

Bùi Thị Thanh Hằng (Chủ biên, 2014), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb. Đại học quốc gia
Hà Nội, Tr. 230.



11

thức khởi kiện và phƣơng thức gửi đơn khởi kiện8. Theo ý hiểu của tác giả, quyền
khởi kiện phát sinh khi một chủ thể bị một chủ thể khác có hành vi xâm phạm, gây
thiệt hại về quyền và lợi ích hợp pháp. Do đó, chủ thể này có quyền yêu cầu Tòa án
là cơ quan Nhà nƣớc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, không phải vụ việc nào cũng thuộc thẩm quyền của Tòa án mà theo quy
định của pháp luật có thể thuộc thẩm quyền của cơ quan, tổ chức khác và trong
trƣờng hợp nếu vụ việc đã đƣợc giải quyết thông qua một bản án, quyết định đã có
hiệu lực của Tịa án khác hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền thì Tịa án sẽ khơng chấp nhận u cầu khởi kiện của chủ thể, trừ
trƣờng hợp đƣợc khởi kiện lại. Theo quan điểm của tác giả, điều kiện khởi kiện bao
gồm các điều kiện sau:
Thứ nhất, chủ thể khởi kiện phải có quyền khởi kiện
Khi cho rằng quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm hoặc tranh chấp thì cá
nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện VADS yêu cầu Tòa án giải quyết nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Việc xác định chủ thể có quyền khởi kiện
hay khơng phụ thuộc vào quy định của cả pháp luật nội dung và pháp luật hình thức.
Nếu chủ thể đó khơng thể tự mình thực hiện quyền khởi kiện thì có thể thơng qua
ngƣời đại diện để thực hiện quyền khởi kiện và ngƣời thực hiện hành vi khởi kiện
phải là ngƣời có năng lực hành vi tố tụng dân sự. Vì vậy, việc một chủ thể phải có
năng lực hành vi tố tụng dân sự mới thỏa mãn điều kiện khởi kiện là một cách hiểu
khơng chính xác. Một cá nhân ngay cả khi họ khơng có năng lực hành vi dân sự, mất
năng lực hành vi dân sự hoặc mắc một số căn bệnh làm mất khả năng nhận thức và
làm chủ hành vi thì khi bị chủ thể khác xâm phạm hoặc tranh chấp về quyền và lợi
ích thì nội tại bên trong chủ thể đó đã có quyền khởi kiện. Chỉ có điều họ khơng tự
mình thực hiện quyền khởi kiện của chính mình đƣợc mà pháp luật quy định trong
những trƣờng hợp này các chủ thể khác có thể thay họ thực hiện quyền khởi kiện.

Thứ hai, phải khởi kiện các vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án theo loại việc
Các quan điểm đã nêu ở trên đều cho rằng khi khởi kiện các chủ thể phải đảm
bảo việc khởi kiện phải đúng theo thẩm quyền của Tòa án cả theo cấp và lãnh thổ.

8

Nguyễn Thị Hồng Nhung (Chủ biên, 2017), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb, Đại học Quốc
gia TP. Hồ Chí Minh, tr. 189.


12

Có thể thấy, khởi kiện gắn liền với hoạt động giải quyết của Tòa án và quyền khởi
kiện đƣợc ghi nhận là một trong các quyền con ngƣời đƣợc Nhà nƣớc bảo đảm thực
hiện thông qua hệ thống cơ quan Tòa án. Mặt khác, việc giải quyết các mâu thuẫn,
tranh chấp trong xã hội dân sự không chỉ thông qua hoạt động xét xử của Tịa án mà
cịn có thể thuộc thẩm quyền của cơ quan, tổ chức khác. Do đó, khi u cầu Tịa án
giải quyết một tranh chấp, mâu thuẫn thì các chủ thể phải đảm bảo những vấn đề
này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án mà không thuộc thẩm quyền của cơ
quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, khi xác định tranh chấp,
mâu thuẫn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tịa án thì các chủ thể dựa trên quy
định của pháp luật để xác định chính xác Tịa án nào có thẩm quyền thụ lý giải
quyết. Việc xác định đúng Tòa án cấp huyện hoặc cấp tỉnh hay giữa các Tòa án
cùng cấp với nhau thực chất là điều kiện để Tòa án thụ lý giải quyết VADS một
cách nhanh chóng, hiệu quả tránh việc chuyển đơn khởi kiện sang cho Tịa án khác
để giải quyết gây lãng phí thời gian và tiền bạc.
Thứ ba, sự việc chƣa đƣợc giải quyết thơng qua một bản án, quyết định có hiệu
lực của Tịa án hoặc quyết định có hiệu lực của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
Điều kiện này đƣợc đặt ra nhằm tránh lãng phí nguồn lực của Tịa án và xã hội
khi giải quyết các vụ việc mà trƣớc đó đã đƣợc giải quyết bằng một bản án, quyết

định đã có hiệu lực pháp luật của Tịa án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền. Điều kiện này cũng nhằm bảo đảm hiệu lực của các
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, duy trì sự ổn định của các quan hệ xã
hội, tránh tình trạng cùng một sự việc lại có các quyết định giải quyết khác nhau,
chồng chéo lên nhau, làm giảm uy tín của Tịa án và các cơ quan, tổ chức khác.
Ngoài ra, điều kiện này cũng nhằm hạn chế tình trạng chủ thể khởi kiện cố ý kéo dài
quá trình giải quyết tranh chấp bằng việc nộp đơn khởi kiện, đơn khiếu nại nhiều
lần đến nhiều cơ quan khác nhau theo kiểu “cầu may”. Tuy nhiên, điều kiện này
cũng có những ngoại lệ. Trong những điều kiện nhất định, đƣơng sự có quyền khởi
kiện lại mặc dù vụ việc đã đƣợc giải quyết bằng một bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Tịa án9. Việc quy định này khơng phá vỡ sự ổn định của các bản

9

Xem khoản 3 Điều 192 BLTTDS năm 2015.


13

án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án mà để nhằm bảo đảm tốt hơn
quyền và lợi ích của chủ thể trong các quan hệ xã hội đƣợc pháp luật bảo vệ.
Phạm vi khởi kiện VADS là giới hạn những vấn đề chủ thể khởi kiện có quyền
u cầu Tịa án giải quyết trong một VADS. Việc pháp luật quy định cụ thể phạm vi
khởi kiện VADS không những tạo thuận lợi cho các chủ thể thực hiện quyền khởi
kiện của họ mà còn tạo thuận lợi cho Tòa án trong việc giải quyết VADS.
Khởi kiện VADS là hoạt động TTDS khởi đầu cho quá trình TTDS tại Tịa án,
có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc giải quyết VADS. Để bảo đảm cho hoạt động
này có hiệu quả thì pháp luật phải quy định cụ thể trình tự, thủ tục và phƣơng thức
hoạt động. Việc pháp luật quy định cụ thể trình tự, thủ tục và phƣơng thức hoạt
động của khởi kiện VADS không những tạo thuận lợi cho các chủ thể trong việc

thực hiện quyền khởi kiện VADS mà còn tạo cơ sở pháp lý cho Tòa án trong việc
quyết định thụ lý VADS hay không.
Hiện nay, trong pháp luật Việt Nam không quy định định nghĩa về khởi kiện
VADS. Tuy vậy, qua các phân tích trên có thể đi đến kết luận: “Khởi kiện VADS là
hoạt động tố tụng của các cá nhân, tổ chức, cơ quan có quyền, tự mình hoặc thơng
qua người đại diện hợp pháp của mình đưa vấn đề tranh chấp ra Tịa án có thẩm
quyền giải quyết theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định nhằm bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của mình hoặc của người khác, lợi ích cơng cộng hoặc lợi ích của
Nhà nước”.
1.1.2. Đặc điểm của khởi kiện vụ án dân sự
Với tƣ cách là hoạt động tố tụng làm tiền đề phát sinh những giai đoạn tiếp
theo trong quá trình tố tụng, hoạt động khởi kiện VADS cũng mang trong mình
những đặc điểm cụ thể nhƣ sau:
Thứ nhất, khởi kiện là cơ sở làm phát sinh thủ tục sơ thẩm giải quyết VADS tại
Tịa án
Khởi kiện VADS đƣợc thực hiện thơng qua hành vi nộp đơn khởi kiện đến Tịa
án có thẩm quyền của chủ thể có quyền và lợi ích bị xâm phạm hoặc thông qua
ngƣời đại diện hợp pháp của họ. Nếu khơng có hoạt động này sẽ khơng có VADS
đƣợc giải quyết tại Tịa án. Ở các vụ án hình sự thời điểm các cơ quan tiến hành tố
tụng bắt đầu tham gia giải quyết là khi có đơn tố giác tội phạm hay phát hiện hành


14

vi có dấu hiệu tội phạm. Trong trƣờng hợp phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì cơ
quan có thẩm quyền sẽ ra quyết định khởi tố vụ án hình sự mà có thể khơng cần
phải thơng qua u cầu của ngƣời bị hại. Thông qua hoạt động tố tụng này hay cụ
thể hơn là nộp đơn khởi kiện kèm tài liệu chứng cứ liên quan đến VADS thì cơ
quan tiến hành TTDS ở đây là Tịa án mới có thể xem xét và giải quyết theo yêu cầu
của đƣơng sự. Việc làm đơn khởi kiện là bƣớc đầu tiên trong hoạt động khởi kiện,

từ việc làm đơn khởi kiện sẽ là tiền đề cho các hoạt động tố tụng tiếp theo trong quá
trình giải quyết VADS nhƣ: Thụ lý hay không thụ lý vụ án; nộp tạm ứng án phí; hịa
giải;…Chính vì vậy, khởi kiện đƣợc coi là hoạt động không thể thiếu, là cơ sở làm
phát sinh VADS tại Tòa án.
Khi giải quyết VADS theo thủ tục sơ thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm chỉ đƣợc xem
xét trong phạm vi yêu cầu của các chủ thể, không giải quyết những nội dung mà các
chủ thể không yêu cầu. Chính vì vậy khởi kiện VADS chính là cơ sở làm phát sinh
thủ tục tố tụng dân sự giải quyết VADS tại Tịa án đồng thời cũng chính là căn cứ
để xác định phạm vi xét xử sơ thẩm.
Thứ hai, khởi kiện VADS là hoạt động do các chủ thể có quyền thực hiện theo
quy định của pháp luật
Khởi kiện VADS đƣợc pháp luật ghi nhận là hoạt động bảo vệ quyền dân sự của
chủ thể có quyền hay lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Cụ thể khởi kiện đƣợc pháp luật
ghi nhận dƣới dạng quyền khởi kiện tại Điều 186 BLTTDS 2015, theo đó cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thể tự mình khởi kiện hoặc thơng qua ngƣời đại diện hợp pháp khởi
kiện VADS tại Tòa án có thẩm quyền để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Trƣớc khi u cầu Tịa án giải quyết VADS để bảo vệ quyền và lợi ích của mình thì
chủ thể đó phải là chủ thể của quan hệ pháp luật nội dung có tranh chấp hoặc bị xâm
phạm. Quy định này hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc tự định đoạt trong TTDS, nó
khơng cho phép ngƣời không phải là chủ thể của quan hệ pháp luật lợi dụng quyền
khởi kiện để rồi lại đi xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của ngƣời khác10.
Ngồi ra, các chủ thể có quyền khởi kiện muốn thực hiện quyền khởi kiện của
mình thì phải có năng lực hành vi tố tụng dân sự (NLHVTTDS). Theo đó, “Năng
lực hành vi tố tụng dân sự là khả năng bằng hành vi của mình thực hiện các quyền
10

Nguyễn Cơng Bình (2017), Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,
tr.243.



15

và nghĩa vụ tố tụng dân sự”11. Nếu năng lực pháp luật TTDS là điều kiện cần thì
NLHVTTDS là điều kiện đủ để một chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng
dân sự. Trong trƣờng hợp chủ thể này khơng thể tự mình khởi kiện thì có thể thơng
qua ngƣời đại diện hợp pháp của mình khởi kiện thay theo quy định của pháp luật.
Ví dụ, trƣờng hợp cha, mẹ, ngƣời thân thích khác có quyền u cầu Tịa án giải
quyết ly hơn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà
không thể nhận thức, làm chủ đƣợc hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của
bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hƣởng nghiêm trọng đến tính
mạng, sức khỏe, tinh thần của họ12. Việc quy định này nhằm đảm bảo triệt để quyền
con ngƣời đƣợc ghi nhận trong Hiến pháp 2013 khi mà Tòa án là cơ quan thực hiện
quyền tƣ pháp bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân.
Thứ ba, khởi kiện VADS là hoạt động tố tụng mà các đương sự tự do định
đoạt trong việc bảo vệ quyền lợi của mình
Về bản chất, khởi kiện VADS là một trong những phƣơng thức để giải quyết
những tranh chấp, xung đột về lợi ích. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khi có quyền, lợi
ích hợp pháp bị xâm phạm có quyền thực hiện hoặc khơng thực hiện việc u cầu
Tịa án giải quyết tranh chấp phát sinh, buộc ngƣời có hành vi xâm phạm quyền dân
sự phải chấm dứt hành vi, bồi thƣờng thiệt hại hoặc theo thỏa thuận của các bên.
Việc khởi kiện này đƣợc thực hiện trên cơ sở tự nguyện và quyền tự do cá nhân của
mỗi chủ thể. Vấn đề này xuất phát từ bản chất dân sự của các quan hệ pháp luật dân
sự, hôn nhân, gia đình, kinh doanh, thƣơng mại, lao động đƣợc hình thành dựa trên
sự tự nguyện, tự do thỏa thuận khi các chủ thể xác lập quan hệ dân sự. Chình vì vậy,
ngay cả khi đã khởi kiện VADS ra Tịa thì các chủ thể có tranh chấp vẫn có thể thỏa
thuận với nhau để rút đơn khởi kiện không tiếp tục giải quyết tại Tòa án hoặc thay
đổi yêu cầu khởi kiện của mình. Ngồi ra, các đƣơng sự cịn đƣợc tự do lựa chọn
các phƣơng thức để bảo vệ quyền lợi của mình nhƣ thƣơng lƣợng, hịa giải, trọng tài
hoặc khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết.
Thứ tư, đối tượng của khởi kiện VADS là những vụ án chưa được giải quyết

bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tịa án hay quyết định đã có hiệu lực
của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, trừ trường pháp luật quy định khác
11

Nguyễn Cơng Bình (2017), Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,
tr.112.
12
Xem Khoản 2 Điều 51 Luật HNGĐ 2014


16

Khởi kiện VADS là một trong những thủ tục TTDS quan trọng, giúp các chủ thể
bị xâm phạm về quyền và lợi ích hợp pháp đƣợc pháp luật bảo vệ thơng qua hoạt
động xét xử của cơ quan Tịa án. Tuy nhiên, để đảm bảo tính nhanh chóng của TTDS
và tính ổn định của bản án, quyết định thì chỉ những VADS chƣa đƣợc giải quyết
bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tịa án hay quyết định đã có hiệu lực của
cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền mới đƣợc Tòa án xem xét giải quyết trừ trƣờng hợp
pháp luật cho phép đƣợc khởi kiện lại nhƣ: (i) Ngƣời khởi kiện đã có đủ năng lực
hành vi tố tụng dân sự; (ii) yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi nuôi con, thay đổi mức
cấp dƣỡng, mức bồi thƣờng thiệt hại, yêu cầu thay đổi ngƣời quản lý tài sản, thay đổi
ngƣời quản lý di sản, thay đổi ngƣời giám hộ hoặc vụ án đòi tài sản, đòi quyền sử
dụng đất cho thuê, cho mƣợn, cho ở nhờ mà trƣớc đó Tịa án chƣa chấp nhận u cầu
mà theo quy định của pháp luật đƣợc quyền khởi kiện lại; (iii) Đã có đủ điều kiện
khởi kiện; (iiii) Các trƣờng hợp khác theo quy định của pháp luật13.
Thứ năm, khởi kiện VADS được thực hiện theo một trình tự, thủ tục do pháp
luật tố tụng dân sự quy định
Để thực hiện quyền khởi kiện của mình thì các chủ thể có quyền khởi kiện đều
phải tuân theo đầy đủ, chính xác mọi quy định của pháp luật TTDS. Các vấn đề về
chủ thể có quyền khởi kiện, khởi kiện đúng Tòa án (vụ việc phải thuộc thẩm quyền

giải quyết của Tịa án đó mà khơng thuộc cơ quan, tổ chức khác), hình thức của
khởi kiện, thủ tục khởi kiện, việc nộp tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện,...
đều phải đảm bảo theo quy định về điều kiện, trình tự, thủ tục, thời gian, cách thức
thực hiện… đã đƣợc quy định cụ thể trong BLTTDS. Mọi trƣờng hợp vi phạm các
quy định của pháp luật TTDS về khởi kiện VADS nhƣ vi phạm về chủ thể có quyền
kháng cáo, về thẩm quyền của Tịa án,… đều khơng đƣợc chấp nhận và có thể bị trả
lại đơn khởi kiện hoặc chuyển đơn khởi kiện sang cho Tòa án khác có thẩm quyền.
Thứ sáu, khởi kiện VADS là phương thức văn minh thay thế cho việc tự do
hành sử của cá nhân trong việc giải quyết tranh chấp
Do các bên trong quan hệ pháp luật nội dung bình đẳng về địa vị pháp lý nên
một bên không thể tự mình cƣỡng chế bên kia thực hiện nghĩa vụ của mình nên họ
cần phải tìm đến một chủ thể có địa vị pháp lý cao hơn, có quyền năng đặc biệt để
13

Xem khoản 3 Điều 192 BLTTDS năm 2015


17

giúp họ khơi phục quyền và lợi ích bị xâm phạm hoặc yêu cầu dừng hành vi xâm
phạm đến quyền và lợi ích của họ, chủ thể đặc biệt đó là Nhà nƣớc mà cụ thể ở đây
là Tòa án. Thay vì hành xử bằng các hành vi, lời nói đời thƣờng khơng đƣợc ghi
nhận thì việc chọn khởi kiện ở cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền là lựa chọn tối ƣu,
tránh dẫn đến những hành xử không đúng chuẩn mực. Thơng qua hoạt động xét xử
của Tịa án, các chủ thể hồn tồn có thể dựa trên Bản án, quyết định của Tịa án để
có thể điều chỉnh hành vi của mình một cách văn minh tránh xâm phạm đến quyền
và lợi ích của ngƣời khác.
1.1.3. Ý nghĩa của khởi kiện vụ án dân sự
Khởi kiện VADS là một trong rất nhiều biện pháp các cá nhân, cơ quan, tổ
chức có thể lựa chọn nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Thơng qua

việc thực hiện hoạt động khởi kiện, chủ thể có quyền khởi kiện nhờ tới sự can thiệp
của Tịa án, thơng qua hoạt động xét xử, Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đƣơng sự, ngăn chặn đƣợc các thiệt hại xảy ra, chấm dứt hành vi vi phạm và
khôi phục lại các quyền dân sự của các chủ thể. Đồng thời, khi thực hiện việc khởi
kiện, nghĩa là chủ thể mong muốn đƣợc Nhà nƣớc sử dụng quyền lực của mình để
phán xét, khơi phục quyền hay lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm. Quyết
định của Tịa án mang tính cƣỡng chế bắt buộc thi hành đối với những chủ thể liên
quan và đƣợc đảm bảo thực hiện thông qua Cơ quan Thi hành án dân sự. Do đó,
pháp luật ghi nhận vấn đề khởi kiện, trao quền khởi kiện cho cá nhân, cơ quan, tổ
chức cũng có nghĩa là trao trách nhiệm cho cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền, điều
đó thể hiện sự quan tâm của Nhà nƣớc đối với đời sống của nhân dân, thực hiện
theo đƣờng lối của Đảng và Nhà nƣớc đó là “Nhà nƣớc của dân, do dân, vì dân”.
Khởi kiện VADS là cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật TTDS. Đây
là hành vi đầu tiên của các chủ thể trong quan hệ tranh chấp đƣa vấn đề tranh chấp
ra trƣớc Tòa án và khởi động một q trình tố tụng. Chỉ khi có đơn u cầu khởi
kiện của chủ thể thì Tịa án mới xem xét để có thụ lý giải quyết hay khơng. Quyền
khởi kiện của cá nhân, tổ chức, cơ quan là xuất phát tự ý chí của chính họ, họ có
quyền tự thỏa thuận và tự định đoạt đối với các chủ thể khác khi xảy ra tranh chấp.
Vì vậy, khi có đơn u cầu Tịa án giải quyết thì ngƣời có thẩm quyền sẽ xem xét
vào đƣa ra quyết định thụ lý hay khơng thụ lý. Khi có quyết định thụ lý thì Tịa án


18

sẽ thực hiện các giai đoạn tiếp theo của tố tụng. Nếu chủ thể có quyền khởi kiện
khơng thực hiện hoạt động khởi kiện thì sẽ khơng có những hoạt động tố tụng tiếp
theo và VADS sẽ không đƣợc phát sinh kéo theo đó là tranh chấp sẽ khơng đƣợc
giải quyết triệt để. Có thể thấy khởi kiện là hành vi đầu tiên của cá nhân, pháp nhân,
và các chủ thể khác tham gia vào quan hệ luật TTDS; là cơ sở pháp lý làm phát sinh
quan hệ tố tụng dân sự; là tiền đề cho các hoạt động tiếp theo trong q trình giải

quyết VADS.
Thơng qua hoạt động xét xử, Tịa án góp phần bảo vệ và củng cố pháp chế xã
hội chủ nghĩa đồng thời nâng cao hiệu quả xét xử, xác lập chế độ trách nhiệm cao
với nhân dân, củng cố lòng tin của nhân dân với chế độ. Với hoạt động khởi kiện
của mình, đƣơng sự đã nhờ tới sự can thiệp của chủ thể đặc biệt đó là Nhà nƣớc
đứng ra bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Khi đó, Nhà nƣớc sẽ sử dụng
bộ máy quyền lực mang tính cƣỡng chế của mình khơng chỉ khơi phục lại quyền và
lợi ích hợp pháp bị xâm hại của đƣơng sự mà còn trừng trị hành vi vi phạm pháp
luật nhằm răn đe, ngăn chặn các hành vi vi phạm khác, đảm bảo sự ổn định của các
quan hệ xã hội, góp phần tạo nên một xã hội văn minh, phát triển.
1.2. Cơ sở của việc pháp luật quy định khởi kiện vụ án dân sự
1.2.1. Cơ sở lý luận của việc pháp luật quy định khởi kiện vụ án dân sự
- Dựa trên cơ sở Nhà nước ghi nhận và đảm bảo thực hiện các quyền con
người về dân sự
Khởi kiện VADS là hoạt động của chủ thể có quyền triển khai thực hiện quyền
khởi kiện theo một trình tự, thủ tục luật định để bảo vệ quyền và lợi ích của mình
hay của ngƣời khác khi các quyền và lợi ích này bị xâm phạm hay tranh chấp, theo
đó khi chủ thể có quyền (quyền khởi kiện) thì đƣợc thực hiện hoạt động khởi kiện.
Việc quy định khởi kiện VADS trƣớc hết đƣợc dựa trên cơ sở Nhà nƣớc ghi nhận
và đảm bảo các quyền con ngƣời về dân sự. Quyền khởi kiện đƣợc ghi nhận là một
quyền con ngƣời trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 và các Công
ƣớc quốc tế khác, cụ thể tại Điều 8 Tun ngơn thế giới về nhân quyền năm 1948 có
viết “Mọi người đều có quyền được bảo vệ bằng các Tịa án quốc gia có thẩm
quyền với phương diện pháp lý có hiệu lực chống lại những hành vi vi phạm các
quyền căn bản đã được Hiến pháp và pháp luật công nhận”. Ghi nhận các quy định


19

về quyền con ngƣời, Hiến pháp 2013 của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam tại Điều 14 đã quy định nhƣ sau: “Ở nước Cộng hòa xã hộ chủ nghĩa Việt
Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn
trọng thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật”.
Ngoài việc ghi nhận quyền con ngƣời về dân sự thì việc đảm bảo cho nó đƣợc thực
hiện cịn mang ý nghĩa quan trọng hơn. Hiến pháp năm 2013 đã chỉ ra “Tòa án
nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
tổ chức, cá nhân”14theo đó giao nhiệm vụ này cho Tòa án là cơ quan xét xử của
nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện quyền tƣ pháp. Trên cơ sở đó,
pháp luật tố tụng dân sự cũng cụ thể hóa cơ chế bảo vệ các quyền này thông qua
phƣơng thức khởi kiện tại Tịa án. Vì vậy, việc ghi nhận khởi kiện VADS là hành
động triển khai thực hiện quyền khởi kiện của chủ thể có quyền trong TTDS trƣớc
hết phải dựa trên cơ sở ghi nhận và đảm bảo các quyền con ngƣời về dân sự.
-Dựa trên cơ sở trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của cơng dân
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020” đặt ra các yêu cầu, nhiệm vụ đổi mới tổ chức và hoạt
động của Tòa án nhân dân các cấp, trong đó có việc “đổi mới thủ tục hành chính
trong các cơ quan tư pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận
công lý; người dân chỉ nộp đơn đến Tòa án, Tòa án có trách nhiệm tiếp nhận và thụ
lý đơn…”15. Tại khoản 1 Điều 102 Hiến pháp 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là
cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư
pháp”. Vì vậy, khi cơng dân thực hiện quyền khởi kiện của mình u cầu Tịa án
giải quyết tranh chấp để bảo vệ quyền lợi cho họ thì Tịa án – cơ quan tƣ pháp phải
có trách nhiệm với việc khởi kiện đó của cơng dân. Để bảo vệ quyền lợi của cơng
dân khi họ khởi kiện thì Tịa án phải bố trí cán bộ, thời gian, địa điểm để tiếp nhận
đơn, hồ sơ khởi kiện của công dân, hƣớng dẫn cụ thể cho công dân khi họ đến liên
hệ khởi kiện VADS. Thể chế hóa Nghị quyết số 49-NQ/TW và cụ thể hóa Hiến
14


Xem Khoản 3 Điều 102 Hiến pháp năm 2013
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020”, tr. 5
15


×