Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

TÍN DỤNG HỘ SẢN XUẤT - THỰC TRẠNG CHO VAY HỘ SẢN XUẤT TẠI NHNN&PTNT THANH TRÌ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.04 KB, 20 trang )

TÍN DỤNG HỘ SẢN XUẤT - THỰC TRẠNG CHO VAY HỘ SẢN XUẤT TẠI
NHNN&PTNT THANH TRÌ
1.1. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội huyện Thanh Trì .
1.1.1, tình hình kinh tế – xã hội huyện thanh trì:
Huyện Thanh Trì là huyện nằm ở vùng trũng phía Nam Hà Nội, kinh tế nông
nghiệp là chủ yếu. Trong những năm gần đây, thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo đúng tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Huyện lần thứ XX kinh tế Huyện đã
có bước phát triển khá. Hiện nay Huyện đang tập trung chỉ đạo phát triển kinh tế nông
nghiệp, xây dựng nông thôn, có chính sách ưu tiên hỗ trợ nông thôn chuyển đổi cơ cấu
sản xuất, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, chỉ đạo thực hiện các dự án phát triển
làng nghề, quy hoạch khu sinh thái, các dự án phát triển rau, hoa cao cấp có giá trị kinh
tế cao...
Tuy nhiên hiện nay diện tích đất cho sản xuất nông nghiệp hiện đang bị thu hẹp
do Nhà nước triển khai nhiều dự án vào địa bàn Huyện, làm giảm tỷ trọng ngành nông
nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp - xây dựng cơ bản và
thương mại dịch vụ. Tốc độ đô thị hoá diễn ra rất nhanh.
Năm 2004 UBND thành phố Hà Nội thành lập 2 quận mới và đã chia tách 09 xã
của Huyện Thanh Trì về quận Hoàng Mai.
Điều kiện kinh tế - xã hội của Huyện như trên đã tạo ra một số thuận lợi cho
hoạt động kinh doanh của NHNo & PTNT Thanh Trì cụ thể:
- NHNo & PTNT Thanh Trì có hướng đầu tư mới trong lĩnh vực thương mại,
dịch vụ - xây dựng. Là một ngân hàng lớn và có uy tín trên địa bàn Huyện, với mạng
lưới chi nhánh và phòng giao dịch được bố trí rất thuận tiện cho dân cư trong Huyện,
đặc biệt ở gần các làng nghề, các khu dân cư có tốc độ đô thị hoá cao như Đông Mỹ,
Cầu Bươu, PGD Ngũ Hiệp... sẽ giúp ngân hàng thu hút được khách hàng.
- Việc Quận mới Hoàng Mai được thành lập, nhờ mối quan hệ uy tín lâu dài với
Khoa bạc Nhà nước và BHXH quận Hoàng Mai, Ngân hàng Thanh Trì đã thu hút được
KBNN quận Hoàng Mai và BHXH Hoàng Mai mở tài khoản và giao dịch tại NHNo
Thanh Trì, đặc biệt là các đơn vị này luôn có nguồn tiền gửi với lãi suất thấp, chi phí trả
lãi rẻ. Đồng thời nhờ việc nhanh chóng khai trương PGD Vạn Xuân để tranh thủ thu hút
khách hàng là các cán bộ công chức trên địa bàn quận Hoàng Mai nên việc cho vay


được tăng trưởng.
- Như đã nói, Nhà nước triển khai nhiều dự án trọng điểm trên địa bàn Huyện
năm 2004 như dự án cầu Thanh Trì, đường vành đai 3, khu công nghiệp Ngọc Hồi...,
việc đền bù giải phóng mặt bằng được triển khai mạnh mẽ, tạo điều kiện cho Ngân
hàng thu nợ tồn đọng khó đòi và thu tiền gửi tiết kiệm khá lớn từ dân cư tập trung ở
một số địa bàn có dự án.
- Với tốc độ đô thị hoá nhanh, nhiều doanh nghiệp (chủ yếu là vừa và nhỏ) và
các Công ty ra đời trên địa bàn Huyện tạo điều kiện để NHNo & PTNT Thanh Trì thu
hút khách hàng là doanh nghiệp, điều mà trước đây còn rất hạn chế.
Tuy nhiên, tình hình kinh tế - xã hội như trên tạo ra khó khăn cho hoạt động kinh
doanh của NHNo & PTNT Thanh Trì, đó là:
- Do diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp dẫn tới thị phần đầu tư hộ sản xuất
nông nghiệp của ngân hàng bị thu hẹp.
- Phòng giao dịch của ngân hàng chính sách xã hội, phòng giao dịch của ngân
hàng Đầu tư Hà Nội ra đời, thêm vào đó, NHNo Hoàng Mai được khai trương vào đầu
năm 2005 tạo ra sự cạnh tranh về huy động vốn, cho vay và chia sẻ thị phần của NHNo
Thanh Trì tại khu vực.
- Do đối tượng vay của NHNo & PTNT Thanh Trì chủ yếu là bà con nông dân
với đối tượng đầu tư là cây trồng, con giống, gia súc, thả cá, sản xuất nông nghiệp với
số món tuy nhiều nhưng lượng nhỏ lẻ, manh mún, nên dư nợ cho vay hộ sản xuất còn ít.
Hơn nữa, trình độ dân trí nhìn chung còn thấp, hiểu biết hạn chế, vì vậy rủi ro lớn.
Trước những thuận lợi và khó khăn đó, chi nhánh NHNo & PTNT Thanh Trì đã,
đang và sẽ nỗ lực hết mình để có thể vừa vượt qua được những khó khăn thử thách để
đứng vững trong cạnh tranh, phát huy hơn nữa thế mạnh cũng như khai thác những điều
kiện thuận lợi để phát triển hoạt động kinh doanh của mình.
1.1.2. SỰ CẦN THIẾT CỦA TÍN DỤNG HỘ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH
TẾ
Tình hình kinh tế – xã hội huyện Thanh trì cho chúng ta thấy việc phát triển
kinh tế nông nghiệp ở nông thôn hiện nay giữ một vai trò hết sức quan trọng trong quá
trình sản xuất nông nghiệp, kinh doanh hàng hoá, phát triển và mở rộng các ngành nghề

truyền thống, khi đồng tiền này sẵn có trong nông nghiệp. Hộ sản xuất là một trong
những nhân tố quyết định tạo ra của cải vật chất cho xã hội, làm phong phú và đã dạng
hoá trong nông nghiệp. Từ việc sản xuất hàng hoá mang tính chất tự cung tự cấp, đến
việc trao đổi hàng hoá trên thị trường. Hộ sản xuất là đơn vị sản xuất hàng hoá tự chủ
tiến hành sản xuất trong điều kiện tự nhiên, phải tham gia cạnh tranh của nhiều thành
phần kinh tế, trong quá trình sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Ngày nay kinh tế hộ đã và
đang phát triển nhờ có cơ chế chính sách mới của Đảng cho hộ tự chủ trong sản xuất
kinh doanh đã phát huy được thế mạnh tính năng động sáng tạo, tính nhanh nhạy trong
việc: Thay đổi cơ cấu sản xuất, Thay đổi cơ cấu đầu tư. Mạnh dạn đưa khoa học kỹ
thuật vào sản xuất tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị cao, hàng hoá sản xuất ra ngày càng
phong phú. Đời sống nhân dân được cải thiện. Như vậy từ việc phát triển kinh tế hộ đã
hình thành nên các thị trường tiêu thụ hàng hoá ngày càng mở rộng và phát triển đã làm
cho nền kinh tế nông thôn ngày càng đổi mới.
Trong thời gian qua hoạt động của ngân hàng đã có những đóng góp đáng kể
vào thành công của sự nghiệp đổi mới nền kinh tế đất nước, điều hành chính sách tiền
tệ tích cực, cơ bản ổn định được giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, tăng dự trữ ngoại
tệ cho quốc gia.
Huy động được một khối lượng đáng kể vốn trong và ngoài nước, thúc đẩy đầu
tư cho sản xuất của các thành phần kinh tế góp phần tăng trưởng kinh tế, tăng cường
đầu tư tín dụng ưu đãi để phục vụ xoá đói giảm nghèo và thực hiện một số chính sách
xã hội.
Khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường công nhận sự ra đời và tồn tại
của nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế nói chung và kinh tế hộ nông dân
nói riêng. Muốn sản xuất kinh doanh dịch vụ đòi hỏi tư liệu sản xuất, vật tư tiền vốn
phải luôn đổi mới và mở rộng, thay đổi hình thức đầu tư vốn, luôn cải thiện trang thiết
bị mẫu mã. Đổi mới cơ cấu đầu tư cây giống, con giống... mặt hàng mới sản xuất luôn
phải phù hợp với nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng. Muốn đổi mới sản xuất kinh
doanh cần phải có vốn đầu tư. Nhu cầu vốn này bản thân người sản xuất không thể có
đủ được mà cần phải có sự hỗ trợ của Nhà nước và các tổ chức tín dụng của ngân hàng.
Trước nhu cầu cấp thiết của nền kinh tế. Thực hiện nghiêm chỉ thị của Thủ

tướng Chính phủ ngành ngân hàng cũng nhanh chóng đổi mới phương thức đầu tư thích
hợp để hoà nhập với cơ chế thị trường. Là đầu tư vốn mở rộng tới các thành phần kinh
tế về với thị trường nông thôn, nông nghiệp và nông dân. Đổi mới công tác kế hoạch
hoá tín dụng gắn liền với quan hệ cung cầu trên thị trường vốn. Đầu tư vốn tới các hộ
sản xuất ở nông thôn nhằm thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển.
Nguồn vốn cho vay của ngân hàng là nguồn vốn bổ sung vốn thiếu cho hộ sản
xuất trong quá trình sản xuất kinh doanh, dịch vụ. Vốn tín dụng tạo điều kiện cho các
hộ sản xuất phát triển các ngành nghề trồng trọt, chăn nuôi cải tạo cây con giống cho
năng suất cao giá trị lớn vốn tín dụng đầu tư mở rộng sản xuất các ngành nghề truyền
thống giải quyết việc làm cho người lao động, cải thiện đời sống dân sinh. Vốn tín dụng
đã đến với tất cả các loại hộ sản xuất.
- Hộ giầu có điều kiện mở rộng sản xuất cải tiến kỹ thuật thu hút lao động tổ
chức sản xuất lớn tạo ra nhiều sản phẩm có năng suất chất lượng tốt giá trị cao đáp ứng
thị hiếu tiêu dùng. Bù đắp đủ chi phí còn có tích luỹ ngày càng nhiều hộ giầu ngày
càng giầu thêm.
- Hộ trung bình vay thêm vốn tín dụng ngân hàng có điều kiện mở rộng sản xuất.
Từng bước đầu tư thiết bị tăng năng suất lao động sản phẩm sản xuất ra nhiều hơn đủ
chi dùng cho gia đình còn dôi thừa, dần dần có tích luỹ để tái tạo sản xuất để trở thành
hộ sản xuất khá dẫn đến giầu.
- Hộ nghèo đói có vốn tín dụng dần từng bước tiếp thu khoa học kỹ thuật tự tổ
chức sản xuất làm ra sản phẩm dần cải thiện đời sống đủ bù đắp chi phí sinh hoạt cho
gia đình từ hộ nghèo đói phấn đấu trở thành hộ trung bình.
Việc thực hiện chủ trương chính sách cho vay đối với kinh tế hộ ở ngân hàng
nông nghiệp thực hiện theo văn bản 499A. Đảm bảo thực hiện đúng nguyên tắc tín
dụng hộ sản xuất sử dụng vốn tín dụng ngân hàng phải sử dụng đúng mục đích bảo toàn
vốn sử dụng có hiệu quả, hoàn trả vốn ngân hàng đầy đủ cả gốc và lãi, ngân hàng sẽ
tiếp tục đầu tư vốn để thực hiện chu kỳ sản xuất tiếp theo.
Như vậy việc đầu tư vốn tín dụng cho các hộ là rất cần thiết đây cũng là một
chính sách mới của Đảng đối với kinh tế hộ đã làm cho quá trình phân hoá giàu nghèo ở
nông thôn được rút ngắn, kinh tế nông thôn ngày càng đổi mới.

Tóm lại: Tín dụng ngân hàng đối với việc mở rộng và phát triển kinh tế hộ ở
nông thôn là một chủ trương lớn của Đảng. Thông qua việc cho vay trực tiếp đến hộ sản
xuất, thông qua việc đầu tư vốn đã khuyến khích tạo điều kiện cho hộ thiếu vốn có vốn
sản xuất, phát triển các ngành nghề truyền thống. Tín dụng ngân hàng đã làm thay đổi
về cơ cấu sản xuất ở nông thôn thông qua việc đầu tư vốn đã xoá hẳn nạn cho vay nặng
lãi, bước đầu đã làm cho nền kinh tế nông thôn phát triển nâng cao đời sống của nông
dân nông thôn.
1.2 THỰC TRẠNG CHO VAY HỘ SẢN XUẤT TẠI NGÂN HÀNG THANH TRÌ
TRONG THỜI GIAN QUA.
1.2.1. HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NHNO & PTNT THANH TRÌ THỜI GIAN
QUA.
a). Hoạt động huy động vốn.
Đối với một NHTM thì nguồn vốn là yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát
triển của nó trong tương lai. Bởi vai trò của ngân hàng là "đi vay" để "cho vay". Nguồn
vốn còn ảnh hưởng lớn đến khả năng cạnh tranh và lợi thế cạnh tranh của các NHTM.
Hầu hết các NHTM Việt Nam hiện nay đều huy động cho mình nguồn vốn bằng nhiều
biện pháp và tiêu chí là tìm nguồn vốn sao cho chi phí rẻ nhất và ổn định. Theo tiêu chí
đó, ngân hàng có thể sử dụng biện pháp làm tăng sự "hấp dẫn" của lãi suất, làm phong
phú về mặt kỳ hạn gửi, rút... Có thể nói thời gian vừa qua công tác huy động vốn của
chi nhánh NHNo Thanh Trì tương đối tốt.
Nắm bắt được các điều kiện kinh tế - xã hội của huyện và xuất phát từ kế hoạch
nguồn vốn của mình, chi nhánh đã chủ trương khơi tăng nguồn vốn từ dân cư, đặc biệt
trú trọng đến công tác huy động vốn không kỳ hạn với mức lãI suất thấp. NHNo Thanh
Trì đã trú trọng tới việc nâng cấp mạng lưới phòng giao dịch để thu hút nguồn vốn ổn
định, vững chắc. Chi nhánh đã tăng cường các hoạt động tiếp thị, tuyên truyền, để thu
hút các nguồn vốn mang tính ổn định, lãi suất thấp như của kho bạc Hoàng Mai,
BQLDA Thăng Long. Chi nhánh cũng tăng cường thiết lập các mối quan hệ thu - chi
tiền mặt tại chỗ với các tổ chức, đơn vị kinh tế có khả năng tài chính lớn như BQL dự
án khu công nghiệp Ngọc Hồi, dự án khu công nghiệp Cầu Bươu..., tiếp thị với các
doanh nghiệp để họ mở tài khoản tiền gửi tại chi nhánh... Thời gian vừa qua, chi nhánh

đã và đang tập trung huy động vốn từ dân cư do đền bù giải phóng mặt bằng của các dự
án trên địa bàn Hoàng Mai và Thanh Trì.
Bên cạnh đó, NHNo Thanh Trì còn thu hút nguồn vốn nhàn rỗi từ mọi tầng lớp
dân cư bằng các chương trình khuyến mại cho khách hàng,... (chương trình huy động
vốn có thưởng bằng vàng ba chữ A của NHNo Việt Nam, áp dụng mức lãi suất huy động
hấp dẫn khi mở phòng giao dịch Vạn Xuân, Khương Đình...)
Với rất nhiều biện pháp khác nhau, chi nhánh đã huy động được một nguồn vốn
tăng cường liên tục, kết quả thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2.1. Cơ cấu nguồn vốn theo tính chất huy động
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu 2003 % 2004 %
2003/2004
C.lệch tuyệt đối
%
+ -
TG của dân cư 452.000 76,22 501.000 77,5 18.000 10,8
TG của TCKT 11.000 19 112.600 17,4 35.700 2,35
TG của TCTD 31.000 4,78 33.100 5,1 2.100 6,7
Tổng nguồn vốn 593.000 100 646.700 100 53.700 9
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh NHNo & PTNT Thanh Trì)
Qua bảng số liệu ta thấy tổng nguồn vốn của chi nhánh có xu hướng tăng lên.
Năm 2004 tổng nguồn tăng 53.700 triệu đồng so với năm2003 (tương đương 9%).
Trong đó nguồn tiền gửi của dân cư có xu hướng tăng nhanh hơn so với nguồn tiền gửi
của các tổ chức kinh tế và tiền gửi của tổ chức tín dụng.
Năm 2004, tiền gửi của dân cư tăng 18.000 triệu đồng so với 2003 (tương đương
với 10,8%). Nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế cũng đã tăng lên (năm 2004 gấp
2,35% so với năm 2003). Xét về cơ cấu tỉ trọng thì nguồn tiền gửi của dân cư là cao
nhất ở cả 2 năm, sau đó đến tỉ trọng tiền gửi của các tổ chức kinh tế, các tổ chức tín
dụng.
Bảng 2.2: Cơ cấu nguồn vốn theo thời hạn huy động

Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu 2003 % 2004 %
2003/2004
C.lệch tuyệt đối
%
+ -
Không kỳ hạn 123.000 21 145.700 23,3 22.700 18,45
Kỳ hạn < 12 tháng 326.000 55 302.000 46,7 24.000 7,36
Kỳ hạn > 12 tháng 144.000 24 199.000 30 55.000 38,19
Tổng nguồn vốn 593.000 100 646.700 100 53.700 9
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh NHNo & PTNT Thanh Trì)
Theo thời hạn huy động ta thấy tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi kỳ hạn trên 12
tháng có xu hướng tăng lên, tiền gửi kỳ hạn < 12 tháng có xu hướng giảm qua 2 năm.
Trong đó nguồn tiền gửi không kỳ hạn tăng 22.700 triệu đồng (tương đương với
18,45%), nguồn vốn này tăng chủ yếu là do tiền gửi của các tổ chức kinh tế tăngvà tập
trung chủ yếu ở hai đơn vị lớn là kho bạc Hoàng Mai và ban quản lý dự án Thăng Long
thường xuyên có trên dưới 70 tỷ năm 2004. Nguồn tiền gửi này tuy tăng không nhiều
nhưng mang lại lợi nhuận cao cho chi nhánh. Tính riêng năm 2004, với lãi suất 0,2% và
lấy chênh lệch lãi suất và phí điều vốn là 0,4%, ngân hàng đã thu được lợi nhuận gần 3
tỷ từ tiền gửi của 2 đơn vị này.
Nguồn tiền gửi từ dân cư tuy ổn định nhưng lãi suất huy động cao và xu hướng
tăng lãi suất trong chi phí điều vốn không tăng nhưng chi nhánh vẫn tiếp tục huy động
vì lợi ích chung của toàn ngành. Đây cũng là một nguyên nhân làm chênh lệch lãi suất
đầu ra - đầu vào thấp.
Để đạt được kết quả huy động vốn như trên,chi nhánh NHNo Thanh Trì đã
không ngừng huy động vốn dưới nhiều hình thức, coi việc huy động vốn là việc của
mọi cán bộ công nhân viên cơ quan, đồng thời chi nhánh cũng cung cấp các sản phẩm
dịch vụ khác nhau đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú của khách hàng : các loại tiền
gửi với các kỳ hạn khác nhau, đa dạng hoá các phương thức trả lãi: trả lãi trước, lãi sau,
lãi bậc thang. Đồng thời chi nhánh đã mở rộng mạng lưới tới nhiều khu vực khác nhau

×