Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Thực trạng về chính sách quản lí tỷ giá hối đoái của Việt Nam trong thời gian qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.53 KB, 18 trang )

Thực trạng về chính sách quản lí tỷ giá hối đoái của Việt
Nam trong thời gian qua
1. Sự hình thành và vận động của tỷ giá cùng chính sách TGHĐ trong giai đoạn
trước tháng 3/1989 thời kế hoạch hoá , tập trung kinh tế.
Năm 1950 được coi như là một cái mốc khi mà Trung Quốc , Liên Xô và các
nước chủ nghĩa xã hội Đông Âu thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam , đặt nền
móng đầu tiên cho việc hình thành các quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam
và các nước.Trong hai năm liên tiếp,1952-1953,Việt Nam lần lượt kí hiệp định
thương mại và nghị định thư mậu dịch tiểu nghạch với Trung Quốc.Từ ngày 25
tháng 11 năm 1955, tỷ giá chính thức được quy định giữa đồng Việt Nam(VND) và
nhân dân tệ Trung Quốc(CNY) là 1 CNY=1470 VND. Tỷ giá giá này được xác định
dựa trên việc so sánh giá bán lẻ của 34 mặt hàng tiêu dùng tại một số tỉnh lớn của hai
nước. Vào thời điểm này, tỷ giá Rúp của Liên Xô (SUR) và nhân dân tệ của Trung
Quốc (CNY) là 1 CNY = 2SUR. Từ đó,tỷ giá tính chéo tạm thời giữa đồng Việt Nam
và Rup của Liên Xô là 1 SUR = 735VND.Sau đợt đổi tiền vào đầu năm 1959 (1 đồng
Việt Nam mới bằng 1000 đồng Việt Nam cũ) cũng đã có những điều chỉnh tỷ giá
tương ứng với sự thay đổi mệnh giá của đồng tiền (1SUR = 0,735VND). Đến đầu
năm 1961 tỷ giá giữa đồng Việt Nam và Rup của Liên Xô được điều chỉnh lại là
1SUR=3,27VND,do hàm lượng vàng trong đồng Rup được điều chỉnh tăng 4,44 lần.
Năm 1977, các nước xã hội chủ nghĩa thoả thuận thanh toán với nhau bằng tiền
Rup chuyển nhượng ( là đồng tiền ghi sổ dùng trong thanh toán mậu dịch giữa các
nước trong khối với tỷ giá được quy định sao cho tài khoản giữa các bên sau khi trao
đổi ngoại thương theo khối lượng đã được ghi trong hiệp định ký kết vào đầu năm thì
cuối năm số dư phải bằng zero ) có hàm lượng vàng quy định là 0,98712 gam trên
mỗi đồng Rup chuyển nhượng. Bên cạnh tỷ giá Nhà nước còn sử dụng tỷ giá kết toán
nội bộ 1SUR=5,64VND , được hình thành từ năm 1958 và được xác định trên cơ sở
so sánh giá cả hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam bằng đồng Rup nhân dân tệ với giá
hàng hoá đó bằng đồng Việt Nam trong 3 năm 1955, 1956, 1957. Tỷ giá kết toán nội
bộ này dùng để thanh toán giữa các tổ chức và đơn vị kinh tế Nhà nước có thu chi
ngoại tệ với ngân hàng, tính thu chi với các đối tác ngoại thương. Tỷ giá kết toán nội
bộ này được xác định cố định cho đến tận năm 1986 mới được điều chỉnh lại là


1SUR=18VND, năm 1987 điều chỉnh lại là 1SUR=150VND , cuối năm 1988 mới
được điều chỉnh lại là 1SUR=700VND và cho đến tháng 3 năm 1989 thì huỷ bỏ chế
độ kết toán nội bộ này. Sau khi bắt đầu có chủ trương thu hút vốn đầu tư nước ngoài
(1985 ) thì vấn đề luồng ngoại tệ bằng Dola Mỹ vào Việt Nam phải được tính đến
( nhất là khi Việt Nam thông qua luật đầu tư nước ngoài vào năm 1987). Và TGHD
chính thức giữa đồng Việt Nam và Dola Mỹ đã được xác định một cách chủ quan
theo tỷ giá hiện tại giữa đồng Việt Nam và đồng Rup ( năm 1985: 1SUR=18VND và
mối tương quan Dola-Rup xem như tương đương 1:1.Do đó, TGHD chính thức giữa
đồng Việt Nam và Dola Mỹ vào năm 1985 là 1USD=18VND ) . Cũng bắt đầu từ năm
này, thị trường ngoại tệ chợ đen mà chủ yếu là thị trường Dola Mỹ bắt đầu bột phát
một cách mạnh mẽ với sự trợ lực của ba dòng chảy là: dòng kiều hối của kiều bào đổ
về thay thế dân cho những kiện hàng quà biếu mà một phần đáng kể là dưới hình thức
bất hợp pháp. Những lượng lớn Dola Mỹ được cất trữ từ khi miền Nam được giải
phóng bởi các tiểu tư sản Sài Gòn cũ cũng bắt đầu được tung ra ít nhiều.Thứ ba, cùng
với việc xoá bỏ ngăn sông cấm chợ thì dòng chảy hàng buôn lậu qua biên giới cũng
gia tăng theo. Mức TGHD trên thị trường chợ đen được hình thành và vận động theo
những tín hiệu quy luật thị trựờng đã có một sự chệnh lệch lớn so với tỷ giá chính
thức, sự bất hợp lý trong việc xác lập TGHD ở giai đoạn này thực chất không quan
trọng đối với cả nền kinh tế nói chung vì tỷ giá là một loại giá cả, mà bản thân phạm
trù giá cả cơ bản là không tồn tại trong nền kinh tế tập trung, bao cấp ngoại trừ việc
có ảnh hưởng xấu đến ngân sách Nhà nước.
Với việc thực hiện tỷ giá kết toán nội bộ, mức tỷ giá chính thức thường cố định
trong thời gian tương đối dài và thấp hơn rất nhiều so với mức tỷ giá trên thị
trường.VD:giai đoạn từ năm 1985 đến 1988, 1 Rup có giá vào khoảng 1500 VND, 1
Dola có giá vào khoảng 3000 VND . Trong khi đó, tỷ giá kết toán nội bộ trong thanh
toán quan hệ xuất nhập khẩu ở mức khoảng 1SUR=150VND và 1USD=225VND. Từ
đó, 1 Rup nhập khẩu Nhà nước phải bù lỗ một số tiền là 1350 đồng và 1 Dola phải
bù lỗ 2775 đồng. Như vậy, nếu kim ngạch trong năm 1987 là 650 triệu SUR-USD ,
trong đó khu vực đồng Rup là 500 triệu và khu vực Dola là 150 triệu thì số tiền phải
bù lỗ lên đến 900 tỷ VND . Tình hình này dẫn đến một thực trạng là những địa

phương, những ngành nghề nào đó càng xuất khẩu nhiều thì ngân sách Nhà nước
càng phải bù lỗ nhiều. Nếu bù lỗ không đủ hay chậm trễ sẽ dẫn đến tình trạng nợ
chồng chất lẫn nhau và thiếu vốn kinh doanh. Bên cạnh đó, do tỷ giá chính thức quy
định thấp, các tổ chức kinh tế và cá nhân có ngoại tệ lại tìm cách không bán cho
ngân hàng, các tổ chức đại diện nước ngoài hoặc cá nhân nước ngoài cũng hạn chế
việc chuyển tiền vào tài khoản ở ngân hàng để chi tiêu mà thường đưa hàng từ nước
ngoài vào hay sử dụng trực tiếp tiền mặt trên thị trường. Thực tế này vừa gây thiệt
hại về kinh tế cho Nhà nước vừa làm phát sinh những tiêu cực trong đời sống kinh tế
xã hội, thúc đẩy mạnh mẽ những hoạt động phi pháp và chính điều này tác động
ngược trở lại làm tình hình tỷ giá trong thị trường càng diễn biến phức tạp. Đối với
nhập khẩu, Nhà nước thường đứng ra phân phối nguyên vật liệu, trang thiết bị, máy
móc nhập khẩu cho các ngànhh đơn vị trong nền kinh tế với giá rẻ ( theo tỷ giá chính
thức). Như vậy, các ngànhh, các đơn vị được phân phối hàng nhập khẩu thì được
chênh lệch giá. Do đó, cách thức xây dựng và điều hành tỷ giá cùng cơ chế ngoại
thương như vậy đã được xem là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến những
thâm hụt trầm trọng trong ngân sách Nhà nước ở giai đoạn này. Tóm lại, TGHD được
xác lập và vận hành ở Việt Nam trong giai đoạn trước tháng 3/1989 là một hệ thống
khá phức tạp, được xác lập theo ý đồ phục vụ cho kế hoạch do Nhà nước quyết định,
không xuất phát từ luật thực tại trong nền kinh tế trong và ngoài nước mà hậu quả là
làm cho việc tính toán,phản ánh thu chi ngân sách Nhà nước bị sai lệch, công tác điều
hành ngân sách Nhà nước gặp khó khăn, cản trở các quan hệ kinh tế cả trong và ngoài
nước. Đây cũng là vừa một biểu hiện và cũng vừa là kết quả của một nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung.
2.2. Sự vận động của tỷ giá và chính sách TGHĐ từ tháng 3/1989 đến nay, thời kì
nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.2.1. Giai đoạn từ 1989-1992.
Giai đoạn này có thể được coi là cái mốc quan trọng trong phát triển TGHĐ ở
nước ta khi quan hệ ngoại thương được bao cấp với các thị trường truyền thống Đông
Âu và Liên Xô(cũ) bị gián đoạn , khiến chúnh ta phải chuyển sang buôn bán với khu
vực thanh toán bằng dola Mỹ.Kể từ đó cơ chế tỷ giá ổn định đã được thay thế dần

bằng cơ chế Nhà nước điều tiết theo quan hệ thị trường.Để đi tới một chính sách
TGHĐ tự chủ như ngày nay,cơ chế quản lý ngoại tệ nói chung , quản lý hối đoái nói
riêng đã trải qua những điều chỉnh lớn.
Chính trong giai đoạn này nền kinh tế chịu tác động của chính sách thả nổi tỷ
giá.Tỷ giá hối đoái VND/USD biến động mạnh theo xu hướng giá trị đồng dola Mỹ
tăng liên tục kèm theo các cơn “sốt”, các đột biến với biên độ rất lớn ( Từ cuối năm
1990 trở đi ) . Đỉnh cao của mức tăng tỷ giá USD là cuối năm 1991 . Ngày 4/12/1991
giá dola Mỹ trên thị trường tư nhân tại Hà nội và Thành phố Hồ Chí Minh là 14.450
VND/USD . Giá dola trong tháng 12/1990 đã tăng từ 60 đến 80% so với mức giá đầu
năm.
Mặc dù trong giai đoạn 1989-1992 chính sách quản lý ngoại tệ của Nhà Nước đã
có nhiều thay đổi , như chuyển từ hình thức quản lý theo tỷ giá kết toán nội bộ bình
quân cho tất cả các nhóm hàng hoá và duy trì tương đối ổn định các tỷ giá này , hoặc
nếu có thay đổi thì cũng chỉ ở mức nhỏ nhằm ổn định hệ thống giá vật tư và xuất
khẩu , nhập khẩu , nên tỷ giá công bố vẫn cách xa mức giá hình thành trên thị trường.
Diễn biến tỷ giá hối đoái từ năm1989 đến năm 1992 không những nói nên
khoảng cách giữa tỷ giá của nhà nước với tỷ giá hình thành trên thị trường tự do mà
còn phản ánh xu hướng tăng nhanh của giá trị đồng dola ở cả khu vực nhà nước lẫn
thị trường . Năm 1990,giá trị đồng dola vào thời điểm cuối năm đã tăng tới 50% so
với đầu năm . Mức tăng giá USD trong 1991 còn cao hơn .Tình trạng leo thang của
giá đồng dola đã kích thích tâm lý nắm giữ đồng dola , nhằm đầu cơ ăn chênh lệch
giá . Ngoại tệ vốn đã khan hiếm lại không được dùng cho hoạt động xuất nhập khẩu
mà còn bị buôn bán vòng vèo giữa các tổ chức trong nước . Mọi cố gắng quản lý
ngoại tệ của chính phủ ít đem lại hiệu quả . Giai đoạn này Ngân hàng không kiểm
soát được lưu thông tiền tệ . Trong các năm 1991-1992 do ảnh hưởng của sự đổ vỡ
các mối quan hệ ngoại thương với LiênXô và Đông Âu , nhập khẩu giảm sút một
cách nghiêm trọng ( năm 1991 là 357.0 triệu USD đến năm 1992 chỉ còn 91,1 triệu
USD ). Các doanh nghiệp tiến hành nhập khẩu theo hình thức trả chậm và phải chịu
một lãi suất cao do thiếu dola , dola đã thiếu lại càng thiếu dẫn đến các cơn sốt dola
theo chu kỳ vào giai đoạn này.

Đến đầu năm 1992 Chính phủ đã có một số cải cách trong việc điều chỉnh tỷ giá
( như buộc các doanh nghiệp có dola phải gửi vào ngân hàng , bãi bỏ hình thức quy
định tỷ giá theo nhóm hàng..) làm cho giá dola bắt đầu giảm ( cuối năm 1991 tỷ giá
VND/USD có lúc lên tới 14500 đến tháng 3/1992chỉ còn 11550 VND/USD và tiếp
tục giảm cho đến cuối năm 1992.
2.2.2. Giai đoạn cố định tỷ giá 1993-1996.
Vào thời điểm cuối năm 1992 , do kết quả sự can thiệp của Ngân hàng Nhà
nước vào thị trường ngoại tệ, tỷ giá dần ổn định khiến cho lượng ngoại tệ đầu cơ
trong các doanh nghiệp được tung ra , hướng mạnh vào kinh doanh xuất nhập khẩu .
Động thời có một lượng ngoại tệ được chuyển về do người Việt Nam ở nước ngoài
gửi về cho người thân tăng lên khoảng 300-400 triệu USD làm cung ngoại tệ lớn hơn
cầu ngoại tệ và kéo theo tỷ giá VND/USD giảm mạnh. Lĩnh vực tài chính - tiền tệ bắt
đầu trở ngại. Bên cạnh đó, cùng với việc quản lý các đại lý thu đổi ngoại tệ còn lỏng
lẻo, sự chênh lệch lớn giữa TGHĐ ở thị trường chính thức và thị trường chợ đen dẫn
đến việc các đại lý lợi dụng danh nghĩa của Nhà nước để buôn bán trục lợi, các ngân
hàng không thu mua được lượng ngoại tệ đáng kể qua nguồn này. Một mặt tình trạng
này làm hạn chế khả năng kiểm soát các luồng ngoại tệ lưu hành trong nước. Mặt
khác làm gia tăng các giao dịch trên thị trường chợ đen bất hợp pháp, tâm lý đầu cơ,
găm giữ ngoại tệ tăng mạnh.
- Việc ngân hàng Nhà nước khống chế chênh lệch giữa tỷ giá mua và tỷ giá bán
là cứng nhắc. Điều này làm cho tỷ giá vận hành thoát ly hoàn toàn quan hệ cung cầu
và không khuyến khích các tổ chức tín dụng, các ngân hàng thương mại hoạt động
theo đúng quan hệ nội tại của nó và thực tế không ít các ngân hàng thương mại đã
phá rào. Cuối cùng sự vận động của tỷ giá trong giai đoạn này đã gợi nên một số
điểm cần lưu ý trong việc điều hành chính sách như sau:
* Trước tiên, những vận động của TGHĐ trong giai đoạn này cho thấy TGHĐ
của Việt Nam phá nhạy cảm trước những thay đổi của tình hình kinh tế từ bên ngoài
và yếu tố tâm lý, cán cân thương mại luôn là những yếu tố có trọng số lớn đối với sự
vận động của TGHĐ.
* Việc sử dụng các công cụ hành chính trong can thiệp vào tỷ giá là cần thiết

vào những lực cung cầu, ngoại tệ có những mất cân bằng nhưng phải đủ mạnh để yếu
tố tâm lý không có khả năng phát huy tác động xấu.
Các nghiệp vụ trên thị trường còn quá sơ sài, khi thị trường mua 2.2. Giai đoạn
từ 92 đến khi nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam á (tháng 7 năm 1997).
Trước những tồn tại của việc”thả nổi” mất kiểm soát tỷ giá, chính phủ đã thay
đổi cơ chế điều hành tỷ giá với những nội dung cụ thể sau:
- Quy định biên độ giao động của tỷ giá với tỷ giá chính thức được công bố bởi
Ngân hàng nhà nước (công bố tỷ giá chính thức mỗi ngày và xác định rõ biên độ giao
động); Tăng cường sức mạnh của các biện pháp hành chính mà cụ thể là buộc các
đơn vị kinh tế (trước hết là đơn vị kinh tế quốc doanh) có ngoại tệ phải bán cho Ngân
hàng theo tỷ giá nhất định.
- Bãi bỏ hoàn toàn hình thức quy định tỷ giá nhóm hàng trong thanh toán ngoại
thương giữa ngân sách với các đơn vị kinh tế tham gia vào hoạt động ngoại thương.
Thay vào đó là việc áp dụng tỷ giá chính thức do Ngân hàng nhà nước công bố.
Để hạn chế tác động của các yếu tố phi kinh tế, một mặt chính phủ đã tăng
cường công tác thông tin, cho công khai hoámột cách nhanh chóng và chính xác chỉ
số kinh tế quan trọng như tỷ giá chính thức, tỷ giá thị trường, chỉ số giá, sự biến động
giá vàng… Nhờ vậy hạn chế được hoạt động đầu cơ, giải tâm lý hoang mang.
Mặt khác, chính phủ cũng thông quan nhiều hình thức, tốc độ, mức can thiệp để
thể hiện rõ quyết tâm cải cách triệt để nền kinh tế nói chung và áp dập tắt nguy cơ
bùng nổ trở lại lạm phát nói riêng.
Mặt khác, chính phủ cũng cho thấy có sự chú trong tăng cường thực lực kinh tế
cho hoạt động can thiệp vào tỷ giá bằng cách gia tăng mạnh mẽ dự trữ ngoại tệ, lập
quỹ ổn giá. theo số liệu báo cáo thường niên của Ngân hàng nhà nước cho thấy, chính
phủ thường dành một tỷ trọng khá lớn trong tổng lượng tiền cung ứng thêm cho nền
kinh tế để tăng tài sản có ngoại tệ. Những biện pháp can thiệp trên đã phần nào xoá đi
tâm lý gặm giữ ngoại tệ, góp phần làm giảm Dola và tỷ giá được ổn định trong những
năm tiếp theo.
- Đẩy mạnh hoạt động của trung tâm giao dịch ngoại tệ ( trung tâm giao dịch
ngoại tệ tại trực tiếp Hồ Chí Minh được mở cửa từ tháng 8 năm 1991 ) để cho các

đơn vị kinh tế và các tổ chức tín dụng trao đổi , mua bán ngoại tệ với nhau theo giá
tự thoả thuận, tạo ra môi trường điều kiện để cung cầu thực sự gặp nhau . Sau đó, tiến
dần tới việc thành lập thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng tháng 9 năm 1994.
Tính đến cuối năm 1992, đầu năm 1993, những biện pháp can thiệp đã đem lại
một kết quả như mong đợi, nạn đầu cơ ngoại tệ về cơ bản đã được giải toả, những
đồng ngoại tệ đã được hướng mạnh và hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Tình
hình cung - cầu ngoại tệ đã được cải thiện với cùng kỳ trong những năm trước đó,
Dola có xu hướng giảm giá. Mức tỷ giá trên thị trường chợ đen chỉ giao động trong
phạm vi từ 10200 đến 10400 đồng Việt Nam ăn 1 Đôla Mỹ. Thậm chí có lúc tỷ giá
tụt xuống ở mức 1USD = 9750VND. Mặc dù có nhiều ý kiến cho rằng tình hình này
phần lớn là nhờ vào lượng kiều hối vào nhiều (ước tính trong tháng 1 năm 1993, nhân
dịp tết nguyên đán, có trên 60.000 việt kiều về thăm quê đã đem theo một lượng
ngoại tệ khoảng 400 triệu Dola Mỹ). Dĩ nhiên không thể phủ nhận đóng góp của
lượng kiều hối này vào việc làm ra tăng cung ngoại tệ trên thị trường. Trên thực tế
cho thấy, lượng kiều hối này tăng giảm hoàn toàn không ổn định qua các năm và chỉ
tập trung vào những thời gian ngắn nhất định trong năm, trong khi tình hình cung -
cầu ngoại tệ và TGHĐ luôn được ổn định trong suốt thời gian dài từ năm 1993 đến
đầu năm 1997.
Mức tỷ giá trên thị trường chính thức cũng không có sự chênh lệnh nhiều so với
tỷ giá trên thị trường chợ đen, là minh chứng cho thấy, mặc dù có sự can thiệp mạnh
trở lại của nhà nước, nhưng tỷ giá vấn được xác định tương đối phù hợp với quy luật
của thị trường. Điều này có thể được chứng minh bằng thực tế là tỷ giá của các Ngân
hàng và tỷ giá trên thị trường chợ đen biến động tương đối sát gần nhau.
Một minh chứng nữa là tính từ năm 1993 đến 1996, tình hình giá cả đồng Dola
Mỹ trên thị trường tiền tệ quốc tế thường xuyên có sự biến động mạnh so với hàng
loạt các đồng tiền chủ chốt khác như: Yên Nhật. Mác Đức, NDT của Trung Quốc …
Trong khi đó, đồng Dollar Mỹ lại có sự ổn định trên thị trường Việt Nam, điều này
cho thấy biện pháp can thiệp của chính phủ mà đặc biệt là Ngân hàng nhà nước thật
sự phát huy tác dụng một cách mạnh mẽ. Trong bối cảnh nến kinh tế thế giới và thị
trường tiền tệ quốc tế đầy biến động mà nền kinh tế xã hội Việt Nam lại đạt được sự

ổn định và tăng trưởng cao, điều này đã thể hiện tính hợp lý về cơ bản của các tỷ số
kinh tế vĩ mô và tất yếu là có biến số TGHĐ.Tuy nhiên, khi đánh giá về mối quan hệ
giữa TGHĐ và ngoại thương của Việt Nam từ cuối năm 1992 đến đầu năm 1997, tất
cả các công trình nghiên cứu trong những năm gần đây và cũng theo nhận định chung
của các nhà kinh tế thì đây là giai đoạn tăng giá mạnh của đồng tiền Việt Nam. Các
kết luận thường cho rằng: Chính điều này là nguyên nhân gây ra tình trạng thâm hụt
lớn trong ngoại thương của Việt Nam. Ví dụ: Nếu ước tính một cách tương đối và lấy
gốc là năm 1992 thì đầu năm 1997, chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam đã tăng 36.8%
trong khi ở Mỹ là 16,5% thì theo thuyết ngang giá sức mua, nếu tỷ giá chính thức vào
đầu năm 1993, là 1 USD = 10500VND thì đầu năm 1997 tỷ giá phải là 1USD =
103000(1+ 16,5%) = 12095VND. Trong khi đó, tỷ giá chính thức trên thị trường Việt
Nam thực tế chỉ khoảng 1USD = 1100VND. Như vậy theo ngang giá sức mua, đồng
Việt Nam đã tăng giá thực tế xấp xỉ 9%. và số liệu thực tế cho thấy nếu xét về giá trị
tuyệt đối bằng tiền tệ thì thâm hụt trong cán cân thương mại của Việt Nam đã có sự
tăng liên tục qua các năm (1993 là 547, 1994 là 1170, 1995 là 2345, 1996 là 3150
triệu Dollar Mỹ). Nếu so sánh mức thâm hụt này với tổng kim ngạch xuất khẩu thì
con số cũng có chiều hướng tăng lên (năm 1993 là 8,4% năm 1994 là 12,8% năm
1995 là 18,4% và năm 1996 là 17,7%)
Bên cạnh đó sự thâm hụt trong cán cân thương mại của Việt Nam phải đặc biệt
nghiêm trọng trong 3 năm liên tiếp 1994,1995, 1996, có thể nói phần lớn là do tác
động trực tiếp của việc Trung Quốc phá giá mạnh của đồng NDT vào đầu năm 1994.
Số liệu thực tế cho thấy, ngay sau cuộc phá giá kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc
(chính ngạch) tăng lên rất nhanh. Nếu như trong năm 1992 kim ngạch nhập khẩu từ
Trung Quốc là 31,8% USD, chiếm 1,3% tổng kim ngạch xuất khẩu thì trong các năm
1994, 1995, 1996, con số này lần lượt là 144,2% triệu USD chiến 2,7%, 793,9 triệu
USD chiếm 10,5% và 926,5% triệu USD chiếm 8,8%. Thực tế đó cũng đã chỉ ra rằng
sụe điều hành chính sách TGHĐ và chính sách ngoại thương của Việt Nam trong giai
đoạn từ cuối năm 1993 đến đầu năm 1997 đôi khi quá thụ động. Sự phá giá mạnh của
đồng NDT vào cuối năm 1993 là một sự kiện không có tác động trực tiếp đến ngoại
thương của Việt Nam nói riêng và nền kinh tế nói chung. Nhưng có thể thấy rằng

trong suốt những năm 1993 đến 1995, hoàn toàn không có bất kỳ một điều chỉnh nào
trong chính sách tỷ giá hối đoái nhằm phản ánh hay đối phó tình hình này (điều này
phản ánh tính tự chủ trong chính sách tiền tệ nói chung và trong đó có chính sách tỷ
giá hối đoái nói riêng là chưa cao). Tỷ giá tính chế trực tiếp giữa NDT của Trung
Quốc và Việt Nam cũng như hoạt động buôn bán tiểu ngạch ở các tỉnh biên giới phía
bắc hầu như vẫn được "thả nổi".
2.2.3. Giai đoạn từ tháng 7 /1997 đến ngày 26/2/1999
Ngày 2/7/1997 Thái lan phải "thả nổi" TGHĐ kết thúc gần 14 năm duy trì một
chế độ cố định và cũng là ngày đánh dấu làm nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính Đông
nam á với một ảnh hưởng rộng khắp trên phạm vi toàn thế giới. Việt nam cũng không
thể tránh khỏi cuộc khủng hoảng. Theo đánh giá chung của các nhà nghiên cứu cũng
như của các cơ quan thì cuộc khủng hoảng này hoàn toàn có ảnh hưởng ít nhiều đối
với nền kinh tế Việt Nam. Xét thêm góc độ vĩ mô, sự tác động của cuộc khủng hoảng
tài chính Đông nam á đối với nền kinh tế Việt Nam tạo nên một cơn sốc rộng khắp
thể hiện trên một số mặt sau:
Thứ nhất, đối với lĩnh vực tài chính Ngân hàng
- Tạo sức ép giảm giá đồng Việt Nam trên thị trường ngoại tệ
- Tác động xấu đến hoạt động giao dịch ngoại tệ
- Tăng gánh nặng nợ cho các doanh nghiệp
- Gây sức ép đối với lãi suất đồng tiền Việt Nam và đe doạ sự mất ổn định
của hệ thống Ngân hàng.
-Tác động đến xuất khẩu: tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam sang khu vực
châu á - Thái Bình Dương chiếm khoảng 70% tổng kim ngạch, riêng các nước
ASIAN chiếm 23% tổng kim ngạch trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng nên cuộc
khủng hoảng tất yếu sẽ làm giảm xuất khẩu của Việt Nam.
- Tác động đến nhập khẩu: Sự mất giá của đồng tiền trong khu vực đã kích
thích gia tăng nhập khẩu, trước hết là nhập khẩu tiểu ngạch từ Thái lan và hàng trung
chuyển từ Campuchia, Lào và Việt Nam. Thực tế cho thấy, đến cuối năm 1997, hàng
loạt các báo đi đều lên tiếng về tình trạng nhập lậu hàng gia tăng mạnh ở các tỉnh
biên giới tây nam.

Thứ hai , đối với lĩnh vực đầu tư:
Do tỷ giá tăng, lãi suất tăng, thị trường hàng hoá diễn biến phức tạp cùng với
dự đoán không tốt trong tương lai tất yếu sẽ là các doanh nghiệp hạn chế đầu tư và
Ngân hàng cũng rất dè dặt khi cho vay. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã có xu
hướng giảm ngay từ trước khi nổ ra cuộc khủng hoảng, sau khi cuộc khủng hoảng,
nhiều dự án đầu tư dở dang bị đình lại, nhiều phương án đầu tư mới tạm hoãn và điều
này cũng thật rễ hiểu khi mà các quốc gia bị khủng hoảng nặng nề lại là những quốc
gia đang dẫn đầu danh sách những quốc gia đầu tư nhiều nhất vào Việt Nam.
Thứ ba, đối với thu chi ngân sách nhà nước.
Gánh nặng nợ nần và chi phí nguyên liệu tăng lên cùng với sụt giảm của thị
trường tiêu dùng lẫn thị trường xuất khẩu đã làm nhiều doanh nghiệp bị thua lỗ từ đó
sẽ ảnh hưởng xấu đến nguồn thu ngân sách. Bên cạnh đó, sự xa sụt của nền kinh tế
tất yếu đòi hỏi phải ra tăng một số khoản chi. Báo cáo của Ngân hàng nhà nước về
hoạt động tiền tệ, tín dụng Ngân hàng trong 6 tháng đầu năm 1998 đã chỉ rõ " Thu
ngân sách 6 tháng thực hiện đạt 30% so với kế hoạch năm. Chi ngân sách khó khăn
hơn mức bội thu bội chi có xu hướng gia tăng".
Thứ tư , Tăng trưởng kinh tế dự trữ quốc gia và nợ nước ngoài.
Khủng hoảng khu vực đã gián tiếp ảnh hưởng đến cán cân vãng lai, đến đầu tư
của nước ngoài.Từ đó, gây ra khó khăn cho sự phát triển kinh tế nói chung (tốc độ
tăng trưởng 5,8% trong năm 1998 là mức tăng trưởng thấp nhất kể từ năm 1989). Nề
kinh tế khó khăn sẽ tác động suy giảm đến tổng cầu, giảm thu nhập và tiêu dùng của
cư dân. thị trường suy yếu một phần sẽ tác động ngay lập tức đến các Ngân hàng
thương mại. Dự trữ quốc gia tất yếu sẽ phải chịu sức ép suy giảm một phần do nguồn
cung ngoại tệ giảm bớt, một phần do đáp ứng nhu cầu ngoại tệ thiết yếu cho nền kinh
tế và hỗ trợ cho đồng Việt Nam vào những lúc cao điểm. Trong bối cảnh đó, chính
sách TGHĐ của Việt Nam về cơ bản không có gì khác so với giai đoạn từ năm 1993
đến khi nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính Đông nam á. Nhưng là giai đoạn với những
điều chỉnh nhỏ, liên tục trong chính sách TGHĐ, nói chung và công tác quản lý ngoại
hối nói riêng nhằm hạn chế những tác động của cuộc khủng hoảng. Nếu trong giai
đoạn từ cuối năm 1992 đến tháng 7 năm 1997 chỉ có một lần duy nhất điều chỉnh

biên độ giao dịch từ 1% đến 5% vào ngày 27/2/2997 thì từ tháng 7/ 1997 đến đầu
năm 1999 có nhiều lần thay đổi với các mốc chính như sau:
Ngày 13/10/1997 thống đốc Ngân hàng nhà nước quyết định mở rộng biên độ
giao dịch nên mức 10%. Ngày 16/2/1998 Ngân hàng nhà nước quyết định nấng tỷ giá

×