Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại tòa án nhân dân và thực tiễn xét xử ở tòa án nhân dân thị xã từ sơn, tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.38 MB, 101 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HOÀNG THỊ YẾN

PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG CÁ NHÂN
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ Ở TÒA ÁN
NHÂN DÂN THỊ XÃ TỪ SƠN, TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HOÀNG THỊ YẾN

PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG CÁ NHÂN
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ Ở TÒA ÁN
NHÂN DÂN THỊ XÃ TỪ SƠN, TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Kinh tế


Mã số: 60380107

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đào Thị Hằng

HÀ NỘI - NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả luận văn “Pháp luật về giải quyết TCLĐ cá nhân tại TAND và
thực tiễn xét xử ở TAND thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh” xin cam đoan:
- Đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tác giả.
- Luận văn được thực hiện độc lập dưới sự hướng dẫn của PGS. TS. Đào Thị
Hằng
- Những thơng tin, số liệu, bản án được trích dẫn trong luận văn đầy đủ, trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng.
- Các kết luận khoa học trong luận văn chưa từng được công bố trong các luận
văn khác.

Tác giả luận văn

Hoàng Thị Yến


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLLĐ

Bộ luật Lao động

BLTTDS


Bộ luật Tố tụng dân sự

HĐLĐ

Hợp đồng lao động

NLĐ

Người lao động

NSDLĐ

Người sử dụng lao động

TAND

Toà án nhân dân

TCLĐ

Tranh chấp lao động


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO
ĐỘNG CÁ NHÂN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH
CỦA PHÁP LUẬT ....................................................................................... 6

1.1. Khái niệm, dấu hiệu của tranh chấp lao động cá nhân ................. 6
1.1.1. Khái niệm tranh chấp lao động cá nhân..................................... 6
1.1.2. Dấu hiệu của tranh chấp lao động cá nhân................................ 8
1.2. Khái niệm, đặc điểm của việc giải quyết tranh chấp lao động cá
nhân tại Tòa án nhân dân. ...................................................................... 11
1.2.1. Khái niệm của việc giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại
Tòa án ................................................................................................... 11
1.2.2. Đặc điểm của việc giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại
Tòa án. 13
1.3. Vai trò của việc giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa
án nhân dân....... ...................................................................................... 15
1.4. Nội dung điều chỉnh pháp luật đối với việc giải quyết tranh chấp
lao động cá nhân tại Tòa án nhân dân. .................................................. 17
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ....................................................................... 22
CHƢƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG CÁ NHÂN TẠI TÒA ÁN NHÂN
DÂN ............................................................................................................. 23
2.1. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án
nhân dân. .................................................................................................. 23
2.2. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân................................................ 25
2.2.1. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong giải quyết tranh chấp
lao động cá nhân theo loại tranh chấp (thẩm quyền chung)................. 26
2.2.2. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tịa án
nhân dân theo cấp tồn án .................................................................... 27
2.2.3. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân theo lãnh
thổ
................................................................................................... 30
2.2.4. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân của toà án
theo sự lựa chọn của nguyên đơn .......................................................... 31

2.3. Các chủ thể tham gia quá trình giải quyết tranh chấp lao động cá
nhân tại Tòa án nhân dân ....................................................................... 32
2.3.1. Hội đồng xét xử ......................................................................... 32
2.3.2. Các bên tranh chấp lao động cá nhân ...................................... 34


2.3.3. Tổ chức đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích các bên tranh chấp
lao động cá nhân…… ............................................................................ 34
2.3.4. Các chủ thể khác ....................................................................... 36
2.4. Thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa
án nhân dân…… ...................................................................................... 36
2.5. Trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa
án nhân dân….. ........................................................................................ 37
2.5.1. Xét xử sơ thẩm vụ án tranh chấp lao động cá nhân .................... 37
2.5.2. Xét xử phúc thẩm vụ án tranh chấp lao động cá nhân ................ 47
2.5.3. Thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật ....... 50
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ....................................................................... 55
CHƢƠNG 3
THỰC TIỄN XÉT XỬ TRANH CHẤP LAO ĐỘNG CÁ NHÂN Ở
TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TỪ SƠN, TỈNH BẮC NINH VÀ MỘT
SỐ KIẾN NGHỊ ......................................................................................... 56
3.1. Thực tiễn xét xử tranh chấp lao động cá nhân ở Tòa án nhân dân
thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh .................................................................. 56
3.1.1. Sơ lược về Tòa án nhân dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh ......... 56
3.1.2. Những kết quả đạt được ............................................................ 57
3.1.3. Những tồn tại và nguyên nhân ................................................. 60
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án nhân dân thị xã
Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh ............................................................................ 69
3.2.1. Yêu cầu đối với việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả

giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án nhân dân. ............. 69
3.2.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp lao
động cá nhân tại Tòa án nhân dân. ....................................................... 71
3.2.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp
lao động cá nhân tại Tòa án nhân dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. .. 75
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ....................................................................... 79
KẾT LUẬN .................................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong cơ chế thị trường, sức lao động được coi là hàng hóa đặc biệt
quan trọng, và vị thế yếu trong quan hệ lao động thường thuộc về phía người
lao động. Chính vì vậy, để ngăn ngừa tình trạng lạm dụng quá mức từ phía
người sử dụng lao động, Luật lao động đã có những quy định để đảm bảo
quyền và lợi ích của người lao động và tập thể lao động, đồng thời bảo vệ
quyền và lợi ích của người sử dụng lao động. Một trong các quy định đó là
các chế định về việc giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án, mà chủ yếu là
tranh chấp lao động cá nhân. Giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án là nội
dung cơ bản của pháp luật lao động, vì vậy Nhà nước Việt Nam đã nhiều lần
sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tiễn.
Năm 2012 Bộ luật Lao động được sửa đổi, bổ sung và thay thế cho Bộ
luật Lao động năm 1994 (sửa đổi, bổ sung qua các năm 2002, 2006, 2007) và
có hiệu lực thi hành từ ngày 01/05/2013. Năm 2004 Bộ luật Tố tụng dân sự
được Quốc hội thông qua đã thay thế cho Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ
án lao động đã đưa ra một diện mạo mới đối với thủ tục giải quyết các tranh
chấp lao động, đến năm 2010 Bộ luật Tố tụng dân sự được sửa đổi, bổ sung.

Ngày 25/11/2015, Bộ luật Tố tụng dân sự ra đời (có hiệu lực từ 01/7/2016)
với những quy định thay đổi tương đối toàn diện.
Như vậy cùng với sự phát triển, hoàn thiện của hệ thống pháp luật lao
động, việc giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án đã có nhiều thay đổi. Bên
cạnh đó, tình hình thực tiễn giải quyết tranh chấp lao động, đặc biệt là tranh
chấp lao động cá nhân tại Tịa án nói chung, tại Tòa án nhân dân thị xã Từ
Sơn, tỉnh Bắc Ninh nói riêng đã có nhiều thay đổi tích cực. Tuy nhiên, trong
quá trình giải quyết vẫn tồn tại những khó khăn, vướng mắc nhất định cần
được nhìn nhận, đánh giá và tháo gỡ. Vì vậy, tơi lựa chọn vấn đề “Pháp luật


2

về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án nhân dân và thực tiễn
xét xử ở Tòa án nhân dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh” làm đề tài nghiên
cứu cấp thạc sỹ với mong muốn tìm hiểu nhiều hơn quy định pháp luật và
thực tiễn thực hiện pháp luật giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa
án nhân dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Trên cơ sở đó có thể đưa ra một số
giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cá
nhân tại Tòa án nhân dân và nâng cao hiệu quả thực hiện giải quyết tranh
chấp lao động cá nhân tại Tòa án nhân dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, đã có nhiều cơng trình, bài viết khoa học về giải
quyết tranh chấp lao động tại Tòa án hoặc liên quan đến giải quyết tranh chấp
lao động tại Tịa án đã được cơng bố như:
- Sách tham khảo: Phạm Công Bảy (2006), Thủ tục giải quyết các vụ
án lao động theo Bộ luật Tố tụng dân sự, Nxb Chính trị quốc gia.
- Giáo trình: Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật lao động,
Nxb. CAND, Hà Nội, 2012; Khoa luật, Viện đại học mở Hà Nội, Giáo trình
luật lao động Việt Nam, Nxb. Giáo dục Việt Nam, 2014.

- Luận án, Luận văn: Đoàn Thị Hiền (2005), Giải quyết tranh chấp lao
động tại Toà án nhân dân theo Bộ luật Tố tụng dân sự 2004, Khoá luận tốt
nghiệp, Đại học Luật Hà Nội; Lê Thị Hường (2012), Giải quyết tranh chấp
lao động tại Tòa án theo pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học,
Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội; Phạm Thị Hồng Hạnh (2015), Pháp
luật về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án nhân dân và thực
tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, Luận văn thạc sĩ Luật
học, Đại học Luật Hà Nội
- Bài tạp chí: Nguyễn Xuân Thu (2007), Những điểm mới về tranh chấp
lao động và giải quyết tranh chấp lao động theo Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Bộ luật lao động năm 2006, Tạp chí Luật học số 7/2007; Phạm Cơng


3

Bảy (2009), Giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án nhân dân – từ pháp
luật đến thực tiễn và một số kiến nghị, Tạp chí Luật học số 9/2009; Nguyễn
Hữu Chí (2015), Bình luận các quy định về giải quyết tranh chấp lao động tại
Toà án nhân dân trong Bộ luật Tố tụng dân sự, Tạp chí Luật học số 12/2015
Các cơng trình nghiên cứu này thường chỉ tiếp cận việc giải quyết tranh
chấp lao động cá nhân hoặc giải quyết tranh chấp lao động ở góc độ chung,
chưa nghiên cứu một cách cụ thể gắn với tình hình giải quyết tranh chấp lao
động từ cơ sở, ví dụ việc giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án nhân dân
Thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, đặc biệt khi Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
ra đời và mới có hiệu lực, các cơng trình nghiên cứu quy định của Bộ luật còn
hạn chế. Qua khảo sát tình hình nghiên cứu trên đây có thể nhận thấy đề tài
mà tác giả lựa chọn là một vấn đề mới và khơng trùng lặp với bất kỳ cơng
trình nghiên cứu khoa học khác đã được công bố.
3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của Luận văn
Luận văn nghiên cứu các quy phạm pháp luật về giải quyết tranh chấp

lao động cá nhân tại Tòa án nhân dân theo Bộ luật lao động năm 2012, Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015 và thực tiễn áp dụng thủ tục giải quyết các
tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án nhân dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh
trong giai đoạn gần đây về thực tiễn thực hiện tại Tòa án nhân dân thị xã Từ
Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Bộ luật Tố tụng dân sự có hiệu lực từ ngày 01/7/2016
nhưng do thủ tục giải quyết tranh chấp lao động theo Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015 về cơ bản cũng có nhiều nội dung giữ nguyên như Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) nên Luận văn xin được đề cập
thực tiễn giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án nhân dân thị xã Từ
Sơn, tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn từ năm 2013 đến nửa đầu năm 2017.
4. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích của đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về giải
quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án. Đồng thời nghiên cứu quy định


4

của pháp luật Việt Nam hiện hành về tìm hiểu về giải quyết tranh chấp lao
động cá nhân tại Tòa án. Thông qua quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành và thực tiễn thực hiện pháp luật về vấn đề này tại Tòa án nhân dân thị xã
Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, chỉ ra những bất cập, đề xuất những kiến nghị, giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả của việc giải quyết
tranh chấp lao động cá nhân tại Tịa án.
Để đạt được mục đích nêu trên, Luận văn phải thực hiện những nhiệm
vụ chủ yếu sau đây:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân
tại Tòa án, nghiên cứu theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về
vấn đề này.
- Đánh giá tình hình thực hiện pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cá
nhân tại Tòa án nhân dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, chỉ ra những vấn đề

còn hạn chế, thiếu sót, chưa phù hợp.
- Trên cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn giải quyết tranh
chấp lao động cá nhân tại Tòa án nhân dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng của
chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể gồm: phương pháp logic, phân tích, tổng
hợp, thống kê, lịch sử, so sánh…
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn
Với mục đích nghiên cứu đã đề ra, Luận văn đã có những đóng góp
mới sau đây:
- Luận văn góp phần làm hồn thiện hơn những vấn đề lý luận về tranh
chấp lao động cá nhân và giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Toà án.


5

- Luận văn đã phân tích thực trạng pháp luật giải quyết tranh chấp lao
động cá nhân tại Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, trong mối tương quan so
sánh với Bộ luật Tố tụng dân sự trước đó.
- Luận văn đánh giá được thực tiễn thi hành pháp luật giải quyết tranh
chấp lao động cá nhân tại Tòa án nhân dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh trong
thời gian qua trên cơ sở đó chỉ ra được những tồn tại và nguyên nhân của tồn
tại đó.
- Luận văn đưa ra được một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật,
đồng thời đưa ra được một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết
tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án nhân dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc
Ninh.
Với những vấn đề nêu trên, tác giả của Luận văn hy vọng đóng góp một

phần nhỏ bé vào việc hoàn thiện pháp luật và tổ chức vận hành có hiệu quả
việc giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án nhằm đảm bảo quyền,
lợi ích của các bên trong mối quan hệ pháp luật lao động, đảm bảo lợi ích Nhà
nước và xã hội, thực hiện tốt mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
7. Cơ cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp lao động cá
nhân tại Tòa án nhân dân và sự điều chỉnh của pháp luật
Chương 2: Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về giải quyết
tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án nhân dân
Chương 3: Thực tiễn xét xử tranh chấp lao động cá nhân ở Tòa án nhân
dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh và một số kiến nghị


6

Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO
ĐỘNG CÁ NHÂN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH
CỦA PHÁP LUẬT
1.1.

Khái niệm, dấu hiệu của tranh chấp lao động cá nhân

1.1.1. Khái niệm tranh chấp lao động cá nhân
Theo giải thích của Từ điển Tiếng Việt thì tranh chấp nói chung được
hiểu là việc “giành nhau một cách giằng co cái không rõ thuộc về bên nào”1.
Sở dĩ xảy ra tranh chấp là do mẫu thuẫn về lợi ích giữa các bên tranh chấp.
Trong quan hệ lao động cũng vậy, khó tránh khỏi sự mâu thuẫn về lợi

ích giữa NLĐ và NSDLĐ. Ngày nay, khi nền kinh tế thị trường càng phát
triển, trình độ hiểu biết pháp luật, đặc biệt là pháp luật lao động của các bên
càng được nâng cao thì các TCLĐ càng diễn ra phổ biến. Khi tham gia quan
hệ mua bán sức lao động, cả NLĐ và NSDLĐ đều đặt ra mục đích của mình
và cố gắng để đạt được mục đích đó một cách tối đa. NLĐ ln có xu hướng
đòi hỏi tiền lương và các quyền lợi ở mức cao nhất có thể, trong khi đó
NSDLĐ lại có xu hướng cắt giảm chi phí, trong đó có tiền lương và các điều
kiện lao động khác ở mức thấp nhất có thể. Khi việc thương lượng giữa hai
bên khơng đạt được kết quả thì những mâu thuẫn, xung đột giữa hai bên sẽ
bùng nổ thành các TCLĐ.
Hiện nay tuy vấn đề TCLĐ và giải quyết TCLĐ đều được đặt ra trong
pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới, nhưng tuỳ theo đặc điểm kinh tế,
chính trị, xã hội của mỗi quốc gia mà khái niệm TCLĐ được hiểu khác nhau.
Theo Đạo luật Quan hệ lao động quốc gia của Mỹ, tại Mục 2 [§152],
TCLĐ được hiểu là: “Bất kỳ xung đột nào liên quan tới những điều khoản,
giai đoạn hay điều kiện việc làm, hay liên quan tới việc lập hội hay đại diện
1

Trung tâm Từ điển học (1996), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr.989.


7

của những cá nhân trong thương lượng, điều chỉnh, duy trì, thay đổi, hay tìm
cách thu xếp các điều khoản hay điều kiện việc làm, không biệt các bên tranh
chấp đứng về phía NSDLĐ hay NLĐ”2. Đây là một định nghĩa có tính bao
qt cao. Định nghĩa này cũng đã được tiếp thu trong pháp luật của nhiều
nước.
Pháp luật Malaysia tại Mục 2 Luật quan hệ lao động năm 1967 định
nghĩa: “TCLĐ là bất kỳ một sự tranh chấp nào giữa NSDLĐ với NLĐ có liên

quan đến việc làm hay không, hoặc các điều khoản của việc làm hoặc các
điều kiện việc làm của bất cứ NLĐ nào”3.
Ở Việt Nam, khái niệm “TCLĐ” chính thức được sử dụng trong Thơng
tư liên ngành số 02/TT – LN ngày 02/10/1985 của Toà án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động và Tổng cục dạy
nghề về việc hướng dẫn thực hiện thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân về
một số việc tranh chấp trong lao động.
Đến thời kỳ đổi mới, thuật ngữ TCLĐ mới được sử dụng rộng rãi trong
các văn bản pháp luật. Điều 27 Pháp lệnh HĐLĐ năm 1990 quy định: “bất
đồng nảy sinh giữa hai bên về việc thực hiện HĐLĐ được coi là TCLĐ và
được giải quyết theo trình tự giải quyết TCLĐ”. Đây là quy định đầu tiên giải
thích khái niệm TCLĐ. Tuy nhiên, phải đến khi BLLĐ ra đời năm 1994, Việt
Nam mới có một định nghĩa chính thức về TCLĐ. Khoản 1 Điều 157 BLLĐ
năm 1994 quy định: “TCLĐ là những tranh chấp về quyền, lợi ích liên quan
đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các điều kiện lao động khác, về thực
hiện HĐLĐ, thoả ước lao động tập thể và trong quá trình học nghề”.
2

Trung tâm hỗ trợ phát triển quan hệ lao động (2012), 100 thuật ngữ thông dụng nhất về quan hệ lao động

được quốc tế sử dụng, Nxb. Lao động – Xã hội, Hà Nội, Tr.54.
3

Trần Ngọc Thích (2008), Giải quyết TCLĐ theo pháp luật Singapore và Malaysia – Bài học kinh nghiệm và

khả năng vận dụng vào điều kiện thực tiễn ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật TP Hồ Chí
Minh, Tr.34


8


Định nghĩa trên đã được sửa đổi theo Luật sửa đổi, bổ sung năm 2006.
Theo Khoản 1 Điều 157 BLLĐ đã được sửa đổi, bổ sung: “TCLĐ là những
tranh chấp về quyền và lợi ích phát sinh trong quan hệ lao động giữa NLĐ,
tập thể lao động với NSDLĐ”.
Kế thừa khái niệm TCLĐ trong Luật sửa đổi, bổ sung BLLĐ năm
2006, Khoản 7 Điều 3 BLLĐ năm 2012 quy định “TCLĐ là tranh chấp về
quyền, nghĩa vụ và lợi ích phát sinh giữa các bên trong quan hệ lao động”.
TCLĐ bao gồm TCLĐ cá nhân giữa NLĐ với NSDLĐ và TCLĐ tập thể giữa
tập thể lao động với NSDLĐ. Theo đó TCLĐ cá nhân có thể được hiểu là
“tranh chấp phát sinh giữa NLĐ với NSDLĐ”. Tuy nhiên, nếu hiểu như vậy
thì khái niệm TCLĐ cá nhân cịn khá đơn giản, thậm chí là khơng bao hàm
hết được mọi trường hợp cần được coi là TCLĐ cá nhân. Đặc biệt, việc xác
định TCLĐ nào thuộc TCLĐ cá nhân là rất quan trọng. Nhưng để làm được
điều đó, cần phân biệt TCLĐ cá nhân với TCLĐ tập thể và không thể chỉ dựa
vào dấu hiệu chủ thể tham gia tranh chấp vì trên thực tế cũng như trong nhiều
cơng trình nghiên cứu khoa học, để phân biệt hai loại tranh chấp này cần căn
cứ vào những đặc điểm khác như nội dung tranh chấp, mục đích các bên trong
tranh chấp và lĩnh vực thường phát sinh. Bởi vì có những tranh chấp phát sinh
từ quan hệ không được xác định là quan hệ lao động, mà thuần túy là các
quan hệ xã hội liên quan đến quan hệ lao động như quan hệ học nghề, quan hệ
đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài, quan hệ về bảo hiểm xã hội. Chính vì
vậy, TCLĐ cá nhân cần được hiểu như sau: TCLĐ cá nhân là những tranh
chấp về quyền, nghĩa vụ và lợi ích phát sinh giữa NLĐ và NSDLĐ về các vấn
đề trong quan hệ lao động hoặc quan hệ có liên quan đến quan hệ lao động.
1.1.2. Dấu hiệu của tranh chấp lao động cá nhân
Hiện nay pháp luật lao động quy định cơ chế giải quyết TCLĐ thành
hai cơ chế, đó là cơ chế giải quyết TCLĐ cá nhân và cơ chế giải quyết TCLĐ
tập thể, vì thế việc xác định TCLĐ thuộc loại nào là rất quan trọng.



9

Do tính chất đặc biệt của quan hệ lao động mà các TCLĐ cũng có đặc
điểm riêng giúp phân biệt nó với các tranh chấp khác. TCLĐ cá nhân vừa
mang những đặc điểm của một TCLĐ nói chung lại vừa có những đặc điểm
khác biệt so với TCLĐ tập thể. Cụ thể:
Thứ nhất, về chủ thể:
Một bên chủ thể của TCLĐ cá nhân là cá nhân NLĐ hoặc là một nhóm
NLĐ
TCLĐ cá nhân thường là tranh chấp giữa cá nhân NLĐ với NSDLĐ.
Tuy nhiên, trong một số trường hợpTCLĐ cá nhân không chỉ là tranh chấp
giữa một NLĐ cụ thể với NSDLĐ mà cịn có thể phát sinh giữa một nhóm
NLĐ với NSDLĐ. Ở nước ta, chưa có quy định cụ thể, rõ ràng để xác định số
lượng của nhóm người trong TCLĐ cá nhân để phân biệt với tập thể NLĐ.
Trong một số trường hợp, mặc dù chỉ có sự xuất hiện của một NLĐ đại diện
cho tập thể lao động nhưng cũng không thể căn cứ vào sự tham gia của một
NLĐ đó để khẳng định đây là TCLĐ cá nhân và ngược lại, khi một vụ TCLĐ
xảy ra, có nhiều NLĐ tham gia thì khơng thể căn cứ vào số lượng người tham
gia đó để kết luận đây là TCLĐ tập thể. Số lượng người tham gia chỉ là một
trong các dấu hiệu cơ bản, nó chỉ có ý nghĩa khi phù hợp với mục đích của
người tham gia vụTCLĐ đó. Nếu trong một vụ TCLĐ có đông NLĐ tham gia
mà mỗi người chỉ quan tâm đến quyền lợi của bản thân mình thì đó là TCLĐ
cá nhân còn nếu tất cả mọi người tham gia vụ tranh chấp đó đều quan tâm đến
lợi ích chung thì đó là TCLĐ tập thể. Do đó, để phân biệt nhóm người tham
gia TCLĐ cá nhân hay TCLĐ tập thể cần dựa vào mục đích của họ là địi
quyền lợi chung cho tập thể NLĐ hay đòi quyền lợi riêng cho bản thân họ.
Việc xác định đúng loại TCLĐ có ý nghĩa quan trọng giúp cho việc giải quyết
TCLĐ được đúng thẩm quyền và các trình tự, thủ tục luật định.
Thứ hai, về nội dung:



10

Nội dung của TCLĐ cá nhân là những tranh chấp liên quan đến quyền,
nghĩa vụ, lợi ích của một cá nhân NLĐ hoặc một nhóm NLĐ về các vấn đề
của quan hệ lao động hoặc quan hệ có liên quan đến quan hệ lao động.
Khi các bên tham gia quan hệ lao động có nghĩa là họ đã xác lập quyền,
nghĩa vụ của mình trong quan hệ đó, nghĩa vụ của người này là điều kiện để
đảm bảo quyền của người kia và ngược lại. Trong quá trình thực hiện quan hệ
lao động, có nhiều lý do để các bên không thực hiện đúng và đầy đủ các
quyền và nghĩa vụ đã được thống nhất từ ban đầu, từ đó dẫn đến tranh chấp
giữa hai bên. TCLĐ cá nhân thường phát sinh trong việc áp dụng các quy
định của pháp luật vào từng quan hệ lao động cụ thể, nghĩa là tranh chấp về
những vấn đề mà pháp luật quy định cho các bên được hưởng hay phải thực
hiện hoặc những vấn đề mà các bên thỏa thuận từ trước trong HĐLĐ như việc
làm, tiền lương, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi…hoặc các vấn đề phát
sinh từ các quan hệ liên quan đến QHLĐ như hợp đồng đào tạo nghề, bảo
hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bồi thường thiệt hại... Do
đó, TCLĐ cá nhân thường phát sinh trong trường hợp có sự vi phạm pháp
luật.
Nội dung TCLĐ cá nhân thường liên quan tới HĐLĐ vì mục đích của
NLĐ khi tham gia tranh chấp đều vì mục đích của riêng họ. Cịn TCLĐ tập
thể thường liên quan đến thỏa ước lao động tập thể. Nội dung của TCLĐ tập
thể là những vấn đề liên quan đến quyền, lợi ích của tập thể lao động hoặc có
thể phát sinh từ những vấn đề mà các bên đã thỏa thuận, pháp luật đã quy
định trước đó, cũng có thể phát sinh từ những vấn đề mà pháp luật khơng quy
định, tức là TCLĐ tập thể có thể phát sinh ngay cả khi khơng có sự vi phạm
pháp luật.
Thứ ba, về tính chất:

TCLĐ cá nhân khơng có tính tổ chức, quy mơ, phức tạp như TCLĐ tập
thể mà mang tính chất đơn lẻ, cá nhân.


11

NLĐ tham gia tranh chấp đòi hỏi quyền lợi riêng cho cá nhân mình và
giữa những cá nhân NLĐ thường khơng có sự liên kết, gắn bó, thống nhất ý
chí với nhau. Từ đó thấy được TCLĐ cá nhân khơng mang tính tổ chức.
TCLĐ cá nhân là tranh chấp chỉ phát sinh giữa một NLĐ và NSDLĐ về
những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ và lợi ích của một cá nhân NLĐ.
Sự ảnh hưởng của nó đến hoạt động sản xuất, kinh doanh chỉ ở mức độ hạn
chế nên thường được xem là ít nghiêm trọng.
Thứ tư, về sự tham gia của tổ chức cơng đồn:
Trong TCLĐ cá nhân, tổ chức cơng đồn (nếu có) tham gia với tư cách
là người đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho NLĐ.
Trong TCLĐ cá nhân, Cơng đồn (nếu có) chỉ tham gia với tư cách là
người đại diện và bảo vệ quyền lợi cho NLĐ, đề nghị NSDLĐ xem xét những
u cầu của NLĐ. Cơng đồn khơng tham gia với tư cách là một bên tranh
chấp, trực tiếp yêu cầu NSDLĐ giải quyết quyền lợi cho tập thể lao động như
trong TCLĐ tập thể. Như vậy, đối với TCLĐ cá nhân thì Cơng đồn chỉ tham
gia với tư cách người đại diện để đề nghị NSDLĐ xem xét các yêu cầu của
NLĐ.
Ngoài tư cách đại diện cho thành viên, tổ chức đại diện có quyền tham
gia trong suốt quá trình giải quyết tranh chấp để bảo vệ quyền lợi hợp pháp
cho các bên là thành viên của tổ chức mình4.
1.2.

Khái niệm, đặc điểm của việc giải quyết tranh chấp lao động cá nhân
tại Tòa án nhân dân.


1.2.1. Khái niệm của việc giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án.
Khi TCLĐ xảy ra, các bên có thể sử dụng nhiều phương thức giải quyết
TCLĐ khác nhau như thương lượng, hoà giải, trọng tài và giải quyết tại

4

Chử Thị Xuyên (2013), Những điểm mới về TCLĐ và đình cơng trong BLLĐ năm 2012, Luận văn Thạc sỹ

luật học, Đại học Luật Hà Nội.


12

TAND. Nếu như thương lượng là phương thức giải quyết TCLĐ chỉ do hai
bên tranh chấp tự tiến hành thì hoà giải, trọng tài và giải quyết tranh chấp tại
TAND là phương thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia của chủ thể thứ
ba. Tuy cùng có sự tham gia của chủ thể thứ ba trong quá trình giải quyết
nhưng phương thức giải quyết tại TAND có nhiều điểm khác biệt. Q trình
giải quyết TCLĐ cá nhân có thể trải qua nhiều giai đoạn khác nhau nhưng
trong đó việc giải quyết tại Tịa án là giai đoạn có tầm quan trọng đặc biệt.
Việc giải quyết TCLĐ cá nhân tại Tịa án nhìn chung được tiến hành khi các
biện pháp có tính mềm dẻo và linh hoạt hơn ở các giai đoạn trước đã được sử
dụng nhưng không đạt kết quả.
TAND là một cơ quan nằm trong hệ thống các cơ quan tư pháp, mang
quyền lực nhà nước và nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Theo Hiến pháp 2013 và Luật Tổ chức TAND 2014, thì TAND là cơ quan xét
xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.
Như vậy, TAND là cơ quan xét xử để giải quyết các tranh chấp nói chung và
TCLĐ nói riêng.

Giải quyết TCLĐ cá nhân là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền tiến hành các cơng việc được quy định theo trình tự, thủ tục luật định
để xác định quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân NLĐ, NSDLĐ đang có
tranh chấp, trên cơ sở đơn yêu cầu của họ. Giải quyết TCLĐ cá nhân tại Tòa
án là hoạt động giải quyết TCLĐ do Tòa án là cơ quan tài phán mang quyền
lực nhà nước tiến hành với những trình tự, thủ tục nhất định, phán quyết được
thi hành bằng cưỡng chế nhà nước nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp
của các đương sự. Hiện nay, trong pháp luật lao động chưa có một khái niệm
chính thức về giải quyết TCLĐ tại TAND nói chung và giải quyết TCLĐ cá
nhân tại TAND nói riêng. Tuy nhiên, từ những phân tích trên chúng ta có thể
hiểu giải quyết TCLĐ cá nhân tại TAND như sau: “Giải quyết TCLĐ cá nhân
tại Tòa án là hoạt động giải quyết các TCLĐ cá nhân bằng một bản án, quyết


13

định do Tịa án tiến hành theo những trình tự, thủ tục nhất định và được đảm
bảo thi hành bằng biện pháp cưỡng chế nhà nước”.
1.2.2. Đặc điểm của việc giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án.
Việc giải quyết TCLĐ cá nhân tại Tòa án mang những đặc trưng cơ bản
như sau:
Thứ nhất, việc giải quyết TCLĐ tại Tòa án là phương thức giải quyết
được thực hiện bởi Tòa án với tư cách là cơ quan tài phán mang tính quyền
lực nhà nước đặc biệt và được tiến hành theo trình tự, thủ tục tố tụng chặt
chẽ.
TAND là một cơ quan nằm trong hệ thống các cơ quan tư pháp. TAND
mang quyền lực nhà nước và nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam để giải quyết các tranh chấp nói chung và TCLĐ nói riêng. Ở từng giai
đoạn giải quyết vụ án của Tịa án, mọi trình tự đều được quy định cụ thể và
chặt chẽ. Bất kỳ một hành vi nào không tuân thủ trình tự tố tụng đã được pháp

luật quy định đều là vi phạm thủ tục tố tụng và đều dẫn đến hậu quả bản án
hoặc quyết định của Tịa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự
phúc thẩm, giám đốc thẩm hay tái thẩm. Mặc dù thủ tục giải quyết TCLĐ
thơng qua hồ giải hay trọng tài cũng bao gồm những trình tự nhất định
nhưng thủ tục giải quyết TCLĐ tại TAND phức tạp và chặt chẽ hơn. Ở từng
giai đoạn giải quyết vụ án tại Tồ án, mọi trình tự đều được quy định cụ thể
và chặt chẽ. Mặc dù, những quy định của pháp luật làm giảm tính linh hoạt và
quyền tự quyết định của các bên trong việc giải quyết tranh chấp nhưng nó
đóng vai trị quan trọng bảo đảm cho Tồ án ra những phán quyết đúng pháp
luật, công bằng. Các cán bộ, cơng chức tại Tồ án là những người có phẩm
chất đạo đức tốt, có trình độ chun mơn nghiệp vụ, có kinh nghiệm xét xử và
độc lập với các bên tranh chấp, do vậy, việc giải quyết TCLĐ tại TAND hồn
tồn mang tính khách quan.


14

Thứ hai, giải quyết TCLĐ cá nhân tại Tòa án là hoạt động giải quyết
cuối cùng sau khi tranh chấp đã được giải quyết ở các giai đoạn khác mà
không đạt kết quả (trừ một số trường hợp nhất định).
Xuất phát từ bản chất của quan hệ lao động là quan hệ mua bán sức lao
động dựa trên sự tự do thoả thuận nên khi xảy ra TCLĐ, hai bên tranh chấp có
thể gặp nhau để bàn bạc, thương lượng trực tiếp hoặc giải quyết TCLĐ thơng
qua hồ giải. Trong trường hợp hai bên không tự thương lượng hoặc một bên
từ chối thương lượng hay khơng hồ giải được, khơng chấp nhận phương án
hồ giải thì họ có quyền khởi kiện yêu cầu TAND giải quyết. Hay nói cách
khác, việc giải quyết TCLĐ tại Tòa án được tiến hành khi các biện pháp có
tính chất mềm dẻo, ơn hịa và linh hoạt hơn như thỏa thuận, thương lượng ở
các giai đoạn trước đó đã được sử dụng nhưng khơng đạt kết quả. Đối với đa
số các TCLĐ cá nhân thì trước khi khởi kiện ra Tòa án thủ tụng thương

lượng, hòa giải là điều kiện cần thiết để thụ lý vụ án lao động tại Tịa án. Chỉ
khi khơng đạt được kết quả ở các giai đoạn này, TCLĐ cá nhân mới được đưa
ra giải quyết ở Tòa án. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, do tính
chất phức tạp, nghiêm trọng của các TCLĐ cá nhân và để nhanh chóng bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của chủ thể bị xâm phạm, các bên có thể khởi kiện thẳng
ra Tòa án yêu cầu giải quyết TCLĐ dù chưa qua thủ tục thương lượng, hòa
giải. Như vậy, giải quyết TCLĐ tại Tòa án là giai đoạn cuối cùng trong trình
tự thủ tục giải quyết TCLĐ.
Thứ ba, các phán quyết của Tòa án về vụ TCLĐ cá nhân được đảm bảo
thi hành bằng các biện pháp cưỡng chế Nhà nước.
Các bản án, quyết định của Tồ án trong q trình giải quyết TCLĐ cá
nhân khi có hiệu lực pháp luật đều được bảo đảm thi hành bằng sức mạnh
cưỡng chế của Nhà nước. Việc thi hành bản án, quyết định của Toà án do các
cơ quan thi hành án thực hiện. Quyền lợi, nghĩa vụ của các bên sau khi tranh
chấp được giải quyết sẽ được bảo đảm thực hiện một cách triệt để.


15

Khác với phương thức hoà giải, đây là một trong những đặc điểm thể
hiện rõ ưu thế của phương thức giải quyết TCLĐ tại Tồ án. Khơng có một
biện pháp cụ thể nào được Nhà nước áp dụng để buộc các bên phải thực hiện
biên bản hoà giải thành, mà hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện của các
bên. Điều này dẫn đến các quyền lợi và nghĩa vụ của các bên trong tranh chấp
không được giải quyết triệt để. Chính vì vậy, sự bảo đảm thi hành phán quyết
của Tòa án bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước được coi là một ưu điểm, tạo
ra sự khác biệt trong cơ chế thi hành phán quyết của các loại cơ quan tài phán.
1.3.

Vai trò của việc giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án

nhân dân
Khi TCLĐ nói chung và TCLĐ cá nhân nói riêng xảy ra, chắc chắn sẽ

khiến cho mối quan hệ giữa NLĐ và NSDLĐ bị tổn hại nghiêm trọng, ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống vật chất và tinh thần của các bên. Do vậy khi
những tranh chấp này được đem ra giải quyết thành công bằng phương thức
giải quyết tranh chấp nào đi chăng nữa đều sẽ có tác dụng tích cực đối với các
bên, với Nhà nước và xã hội. Riêng đối với phương thức giải quyết TCLĐ cá
nhân tại TAND có một số vai trị quan trọng đối với các bên tranh chấp, với
Nhà nước và xã hội:
Thứ nhất, việc giải quyết TCLĐ cá nhân tại Tòa án tuân theo trình tự,
thủ tục chặt chẽ theo luật định cùng với cơ chế xét xử nhiều cấp cho phép xem
xét lại phán quyết của Tòa án một cách chắc chắn trước khi thi hành.
Trước hết, về cơ cấu tổ chức, Tòa án là cơ quan tư pháp nhân danh Nhà
nước thực hiện quyền tài phán, được tổ chức chặt chẽ theo ngành dọc với hệ
thống Tòa án cấp huyện đến Tòa án cấp tỉnh, Tòa án cấp cao và Tòa án tối
cao. Trong cơ cấu, tổ chức của hệ thống Tòa án theo Luật tổ chức TAND năm
2014, TAND cấp tỉnh, thành phố và TAND cấp cao có Tịa lao động là tòa
chuyên trách trực tiếp giải quyết các vụ án lao động (TAND cấp huyện cũng


16

có thể có Tịa lao động tùy theo u cầu thực tế xét xử). Về trình tự thủ tục,
việc giải quyết TCLĐ cá nhân tại Tòa án phải tuân theo trình tự, thủ tục chặt
chẽ theo luật định, việc vi phạm thủ tục tố tụng sẽ dẫn đến bản án, quyết định
của Tịa án có thể bị hủy. Ngồi ra đương sự có thể kháng cáo, u cầu Tịa
án xét xử lại, nếu thấy phán quyết của Tịa án khơng thỏa đáng. Với cơ chế
nhiều cấp xét xử, pháp luật cho phép đương sự thực hiện quyền kháng cáo đối
với những bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của cấp xét xử sơ

thẩm. Ngay cả khi bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, đương sự vẫn
có quyền khiếu nại, người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định của
Tịa án theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Có thể nói, trình tự xét xử
nhiều cấp cho phép xem xét lại phán quyết của Tòa án một cách chắc chắn
trước khi thi hành.
Thứ hai, những phán quyết của Tòa án trong quá trình giải quyết
TCLĐ cá nhân được đảm bảo thi hành bằng biện pháp cưỡng chế của Nhà
nước nên quyền, lợi ích và nghĩa vụ của các bên theo phán quyết được đảm
bảo thực hiện một cách triệt để.
Quyền, lợi ích và nghĩa vụ của các chủ thể theo phán quyết của Tòa án
đều được đảm bảo thi hành bằng biện pháp cưỡng chế của Nhà nước. Điều
này góp phần củng cố niềm tin của các chủ thể vào pháp luật và hoạt động
của các cơ quan nhà nước, tạo niềm tin cho nhân dân vào pháp chế xã hội chủ
nghĩa, pháp luật là thượng tôn và pháp luật phải được thực thi.
Cuối cùng, thông qua giải quyết TCLĐ cá nhân tại TAND sẽ góp phần
hồn thiện pháp luật lao động nói chung và pháp luật về giải quyết TCLĐ nói
riêng.
Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến TCLĐ là sự nhận thức
không đầy đủ về các quy định của pháp luật hoặc cố ý làm trái các quy định
của pháp luật lao động. Hơn nữa do hệ thống pháp luật hiện hành về lao động
cũng có quy định chưa rõ ràng, chồng chéo và thiếu tính chặt chẽ nên thông


17

qua việc giải quyết TCLĐ cá nhân cũng như việc tổng kết, đánh giá quá trình
giải quyết TCLĐ của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, mà trực tiếp là
các cơ quan làm luật và thực thi luật sẽ thấy rõ những thiếu sót, bất cập và
chồng chéo trong các quy định của pháp luật lao động hiện hành, từ đó có
hướng khắc phục những tồn tại bất cập đối với các quy định này.

1.4.

Nội dung điều chỉnh pháp luật đối với việc giải quyết tranh chấp lao
động cá nhân tại Tòa án nhân dân.
Tòa án là một thiết chế đặc biệt có chức năng giải quyết tranh chấp và

là công cụ để thực hiện quyền tư pháp mang tính quyền lực Nhà nước. Việc
giải quyết TCLĐ tại Tịa án ở từng quốc gia được quy định khác nhau, phụ
thuộc vào sự tác động của cơ sở kinh tế - xã hội và cơ sở pháp lý mang đặc
thù riêng của mỗi quốc gia đó. Nhìn chung, pháp luật các quốc gia đều quy
định các nội dung cơ bản về giải quyết TCLĐ cá nhân tại Tòa án như: nguyên
tắc giải quyết, thẩm quyền của Tòa án, chủ thể, thời hiệu yêu cầu giải quyết
và trình tự, thủ tục giải quyết.
Nguyên tắc giải quyết TCLĐ được hiểu là những tư tưởng chỉ đạo việc
giải quyết TCLĐ mà tất cả các chủ thể tham gia vào quá trình giải quyết
TCLĐ đều phải tuân thủ, kể cả các bên tranh chấp5. Mặc dù mỗi quốc gia
khác nhau với quan điểm lập pháp, thể chế chính trị và sự chi phối của các
điều kiện kinh tế xã hội khác nhau sẽ xây dựng những nguyên tắc giải quyết
tranh chấp lao động cá nhân tại TAND phù hợp. Tuy nhiên, các quốc gia đều
xác định các nguyên tắc cơ bản trong việc giải quyết tranh chấp lao động cá
nhân như nguyên tắc tôn trọng quyết định và tự định đoạt của các bên;
nguyên tắc thương lượng, hịa giải; ngun tắc bình đẳng trước pháp luật…Ví
dụ như các nguyên tắc chung về giải quyết tranh chấp lao động quy định tại
đạo luật về Quan hệ lao động của Thái Lan (Labor Relations Act B.E. 2518
5

Trường Đại học Luật Hà Nội (2015),Giáo trình Luật Lao động Việt Nam, Hà Nội, Tr.369-370.


18


(1975)) hoặc pháp luật về lao động của Philipines (Book five: Labor
Relations - Labor Codes of the Philippines)
Thẩm quyền là thuật ngữ dùng để chỉ phạm vi, giới hạn chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của cá nhân hoặc cơ quan nhà nước trong việc thực thi
quyền lực nhà nước được pháp luật quy định. Thẩm quyền không chỉ thể hiện
được sự khác biệt giữa các cơ quan nhà nước với nhau mà cịn là thuộc tính
tất yếu của cơ quan quyền lực nhà nước. Thẩm quyền của Tòa án được hiểu là
toàn bộ những quyền do pháp luật quy định, theo đó Tịa án được tiến hành
xem xét, giải quyết những vụ việc cụ thể theo quy định của pháp luật. Theo
Điều 3 Luật tổ chức và hoạt động của Tòa án lao động Thái Lan năm 1979
(The Labor court and Labor court procedure BE 2522), các bên tranh chấp
khởi kiện ra trụ sở Tòa án lao động nơi làm việc của người lao động. Tuy
nhiên, cũng theo điều luật này, ngun đơn có thể khởi kiện tại Tịa án lao
động nơi mình cư trú hoặc nơi cư trú của bị đơn nếu họ chứng minh được với
Tòa án điều đó thực sự là thuận lợi đối với họ. Theo Quy tắc tố tụng của Ủy
ban quốc gia về quan hệ lao động của Philipines (NLRC, hay còn gọi là Tòa
án lao động – LC năm 1999), nguyên đơn hoặc người có yêu cầu đến chi
nhánh vùng thuộc nơi làm việc của người lao động để yêu cầu giải quyết.
Về chủ thể giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại TAND, pháp luật
các nước cũng có những quy định khác nhau về các chủ thể này. Việc giải
quyết tranh chấp lao động tại Tòa án Thái Lan, Philipines hay Cộng hịa Liên
bang Đức có sự tham gia của người lao động và đại diện người sử dụng lao
động. Trong q trình này khơng có sự tham gia của cơ quan công tố hoặc cơ
quan kiểm sát. Đặc biệt, ở Cộng hòa Liên bang Đức thành phần Hội đồng xét
xử vụ án lao động cịn có Thẩm phán danh dự (là những người đại diện cho
giới lao động và giới sử dụng lao động). Việc giải quyết tranh chấp lao động
ở ba nước này đều có sự tham gia của bộ phận trợ giúp pháp lý (bộ phận pháp
chế giúp đỡ người khởi kiện hồn thiện hồ sơ tại Tịa án). Do người lao động



19

khơng có khả năng th luật sư hay nhờ người tư vấn, do hiểu biết pháp luật
của họ không cao nên nhờ có sự trợ giúp của bộ phận pháp chế trong việc tổ
chức hồn thiện hồ sơ, q trình giải quyết tranh chấp lao động được tiến
hành một cách thuận lợi.
Thời hiệu yêu cầu giải quyết TCLĐ được hiểu là khoảng thời gian hiệu
lực do pháp luật quy định mà trong khoảng thời gian đó các bên tranh chấp
được quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức cá nhân có thẩm quyền giải quyết
TCLĐ. Việc xác định chính xác thời điểm bắt đầu tính thời hiệu rất quan
trọng, bởi từ đó xác định được chính xác thời điểm hết thời hiệu yêu cầu giải
quyết tranh chấp, xác định được người u cầu cịn quyền u cầu hay khơng
và cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động, có
thụ lý đơn yêu cầu để giải quyết hay không. Tùy thuộc vào cơ sở lý luận và
thực tiễn nhất định, tác động của các quy định đối với xã hội, người dân và
công tác xét xử của Tòa án ở mỗi quốc gia mà các quy định về thời hiệu nói
chung và thời hiệu khởi kiện vụ án lao động nói riêng ở mỗi quốc gia này lại
được xác lập khác nhau. Nhìn chung, pháp luật các nước đều coi thời hiệu
khởi kiện là khoảng thời gian để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp cho người khởi kiện và người khởi kiện sẽ mất quyền khởi kiện nếu
không khởi kiện trong thời hạn đó. Chẳng hạn, pháp luật Trung Quốc quy
định thời hạn tính thời hiệu trong tố tụng TCLĐ là 15 ngày từ ngày nhận được
phán quyết của Trọng tài lao động6.
Về các bước tiến hành giải quyết TCLĐ tại Tồ án có sự tương đồng
tương đối trong pháp luật lao động của các quốc gia. Trình tự giải quyết tranh
chấp lao động cá nhân được đa số pháp luật các nước quy định theo các bước:
khởi kiện vụ án lao động, thụ lý vụ án lao động, hòa giải vụ án lao động,
phiên tòa xét xử, kháng cáo, kháng nghị (nếu có)
6


Wang Zhenqi – Ministry of Labour and Social Security, PRC (2003), “Labour Disputes Settlement System

in China: Past and Perspective”, Viện phát triển kinh tế Nhật Bản (IDE-JETRO), Tr.74


×