Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN Ở CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU TỔNG HỢP I HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.86 KB, 30 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG
ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN Ở CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU
TỔNG HỢP I HÀ NỘI
I. CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY TRONG GIAI ĐOẠN TỚI
1. Chiến lược phát triển chung của ngành xuất nhập khẩu Việt Nam
Gia nhập WTO, xuất khẩu (XK) của Việt Nam có thêm nhiều cơ hội tăng
trưởng nhưng cũng gặp không ít khó khăn, thách thức do sự cạnh tranh cao.
Định hướng của Bộ Thương mại như thế nào và các doanh nghiệp cần phải làm
gì để đẩy mạnh XK trong thời gian tới là nội dung của diễn đàn Xúc tiến Xuất
khẩu Quốc gia, do Thời báo Kinh tế Việt Nam và Cục xúc tiến Thương mại tổ
chức, diễn ra hôm qua (5/4) tại Hà Nội.
Tham dự diễn đàn có sự góp mặt và đóng góp ý kiến của Thứ trưởng Bộ
Thương mại Lương Văn Tự và các chuyên gia kinh tế như: TS. Lê Đăng Doanh,
GS. Võ Tòng Xuân, bà Phạm Chi Lan... cùng các đại diện doanh nghiệp tham
dự VietNam Expo 2007.
1.1 Doanh nghiệp Việt Nam phải khắc phục được "bệnh giảm giá"
Hiện, mức tăng XK của Việt Nam là tương đối nhanh, có năm 19%, có
năm 23%. Năm 2006, kim ngạch đạt khoảng 40 tỷ USD, con số này đã đưa Việt
Nam lên hàng thứ 6 về XK trên tổng số 11 nước Đông Nam Á. Tuy nhiên, so
với một số nước trong khu vực như Thái Lan, Philippines… kết quả này còn
khá khiêm tốn, chưa phản ánh đúng tiềm năng và thế mạnh XK của nước ta.
Theo Thứ trưởng Bộ Thương mại Lương Văn Tự, vào WTO, XK sẽ có
nhiều thuận lợi hơn. Nếu Việt Nam vẫn giữ được mức tăng trưởng XK khoảng
20% trong các năm tới, thì đến năm 2010, 2011, nước ta sẽ đạt được kim ngạch
XK 100 tỷ USD.
Cơ sở để đưa ra mục tiêu này, Thứ trưởng phân tích, thứ nhất là môi
trường đầu tư ở Việt Nam hiện rất thuận lợi. Việc bình thường hoá quan hệ và
có được PNTR với Hoa Kỳ vừa qua, đồng nghĩa với việc Việt Nam bình thường
hoá quan hệ với tất cả quốc gia trên thế giới. Thứ hai, việc hạn chế về hạn ngạch
đã được huỷ bỏ. Thứ ba là hệ thống pháp luật của nước ta đã được cải cách
nhanh chóng, thông thoáng và được các nước đánh giá cao.


Bên cạnh đó, hiện uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế cao hơn bao
giờ hết. Về tiềm năng phát triển kinh tế của nước ta, Thứ trưởng dẫn lời đánh
giá ngài đại sứ Mỹ, cho rằng: "Ở Việt Nam, người ta (các doanh nghiệp Mỹ)
muốn làm gì đều làm được". Còn Tổng thống Mỹ Bush trong chuyến thăm
TP.HCM vừa qua đã nhận định: "Nếu tôi còn trẻ, đây là nơi tôi đến để kinh
doanh. Nếu tôi già, đây là nơi tôi đến để du lịch…".
Trước những thách thức khi vào sân chơi toàn cầu WTO, Thứ trưởng
nhắc nhở, các doanh nghiệp phải hiểu được WTO, phải nắm vững tác động của
các cam kết WTO đối với lĩnh vực hoạt động của mình. Muốn kinh doanh mặt
hàng nào, phải tính được cung, cầu của khu vực và thế giới, điều chỉnh theo giá
thế giới chứ không phải mạnh ai nấy làm.
Trong hội nhập, doanh nghiệp phải chú trọng liên kết với nhau để tạo nên
sức mạnh cạnh tranh, thiết lập và tăng cường hợp tác với các hiệp hội, các cơ
quan chức năng để đảm bảo lợi ích của mình. Đặc biệt, "bệnh giảm giá" để
giành khách hàng của doanh nghiệp phải được khắc phục.
Thứ trưởng cho rằng, các doanh nghiệp, hiệp hội phải thống nhất để giữ
giá. "Khi mới xâm nhập thị trường, nên giảm giá để giành thị phần nhưng khi
vào được rồi phải có kế hoạch, chiến lược nâng giá dần dần. Cụ thể như không
ngừng cải tiến bao bì, đưa ra các sản phẩm có chất lượng cao hơn, đa dạng
hơn… chứ không nên giành khách hàng bằng cách giảm giá".
Để hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua các rào cản thương mại, các biện pháp
kỹ thuật thường được các nước áp dụng để hạn chế hàng nước ngoài nhập khẩu
như vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường… Bộ Thương mại sẽ xây
dựng hệ thống phân tích, cảnh báo các thông tin về sự biến động giá cả và cảnh
báo đối với các mặt hàng XK của Việt Nam có kim ngạch lớn để chống lại nguy
cơ bị kiện bán phá giá.
Bên cạnh đó, Bộ cũng nghiên cứu để xây dựng hệ thống rào cản thương
mại trong nước nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của Nhà nước và doanh nghiệp
phù hợp với các định chế của WTO.
1.2 Chiến lược vừa hợp tác vừa cạnh tranh

Trong tham luận Hợp tác và cạnh tranh của XK Việt Nam với thị trường
châu Á, TS. Lê Đăng Doanh đã chỉ ra rằng, cán cân thương mại của Việt Nam
với nhiều nước trong khu vực này hiện đang là âm.
Theo đó, Việt Nam không chỉ nhập siêu cao mà trong cơ cấu hàng hoá
xuất đi, chủ yếu là các nguyên vật liệu, sản phẩm thô, giá trị gia tăng thấp. Điều
này là một nghịch lý khi mà Việt Nam lại nhập khẩu các sản phẩm chế biến,
công nghiệp, trang thiết bị, máy móc có hàm lượng công nghệ, giá trị gia tăng
cao. Điều này biểu hiện rõ trong mối quan hệ xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và
Trung Quốc.
Trước sức ép cạnh tranh của các sản phẩm Việt Nam trên các thị trường
xuất khẩu ngày càng gay gắt, TS. Lê Đăng Doanh cho rằng, các doanh nghiệp
Việt Nam không thể áp dụng chiến lược cạnh tranh về giá cả được cũng như
không nên cạnh tranh theo thế đối đầu bằng bất kỳ giá nào.
Ông nói thêm, có khả năng giảm giá thì không từ chối nhưng không phải
lĩnh vực nào, trong một thời gian ngắn cũng có thể giảm giá được, bởi một số
lĩnh vực như dệt may, trong khi sản phẩm của Trung Quốc có giá rất rẻ do
nguyên vật liệu trong nước tự sản xuất được, thì Việt Nam vẫn phải nhập từ A -
Z.
Chính vì vậy, Việt Nam nên cạnh tranh ở những mặt hàng khác, có giá trị
cao hơn. Để làm được điều này, TS. Lê Đăng Doanh nêu bật: "Các doanh
nghiệp Việt Nam phải vận dụng chiến lược vừa hợp tác, vừa cạnh tranh đối với
từng mặt hàng và từng thị trường thích hợp".
Theo đó, đối với những mặt hàng không có khả năng cạnh tranh trực
diện, nên hợp tác với đối thủ cạnh tranh, chia sẻ lợi ích với họ, hợp tác với các
hãng phân phối nhằm học hỏi, tranh thủ chuyển giao công nghệ, tập trung vào
những công đoạn có năng lực cạnh tranh cao.
Đối với những mặt hàng chưa thể cạnh tranh trực diện, các doanh nghiệp
nên sản xuất các mặt hàng chiếm lĩnh thị phần khác với đối thủ cạnh tranh. Ví
dụ như sản xuất hàng dệt may chất lượng cao hơn, chiếm lĩnh mảng thị phần
khác so với đối thủ, hoặc nhằm vào thị trường khác…

Về phía Nhà nước, để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, ông Doanh
cũng nhấn mạnh, phải đầu tư nâng cao nguồn nhân lực, đẩy mạnh cải cách hành
chính, áp dụng thương mại điện tử, chống tham nhũng, sách nhiễu đối với
doanh nghiệp…
2. Xu hướng xuất nhập khẩu và xu hướng thị trường
Việc xuất khẩu trong quý “hậu WTO” đầu tiên của nước ta, tuy có chậm
lại so với cùng kỳ năm 2006, nhưng cũng không đến mức quá tệ. Còn nhập
khẩu tuy đã tăng đột biến, nhưng cũng không tới mức đáng lo ngại.Thế nhưng,
có nhiều khả năng hai diễn biến này là những dấu hiệu cho thấy một xu thế biến
động mới cần đặc biệt quan tâm.
Trước hết, các số liệu thống kê 3 tháng vừa qua cho thấy, với kim ngạch
gần 10,5 tỉ USD, xuất khẩu tăng 17,9%, vẫn cao hơn so với mục tiêu phấn đấu
tăng 17,4% của cả năm nay.
“Thủ phạm” duy nhất gây ra tình trạng suy giảm tốc độ xuất khẩu chính
là sự “đảo chiều” trong xuất khẩu dầu thô. Xuất khẩu mặt hàng chủ lực này đã
giảm gần 2% trong quý I vừa qua, còn xuất khẩu các mặt hàng khác lại mạnh
lên rất nhiều: khu vực kinh tế trong nước vốn “lép vế” trong hoạt động xuất
khẩu đã vọt lên tăng đột biến gần 24% (cùng kỳ 2006 chỉ tăng 14%). Những
mặt hàng khác của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng vẫn tăng
ngoạn mục gần 32% như cùng kỳ 2006.
Đó là những dấu hiệu hết sức đáng mừng, cho thấy hoạt động xuất khẩu
không còn phải quá phụ thuộc vào nguồn tài nguyên thiên nhiên dầu mỏ nữa,
cũng như sự bừng tỉnh của những khu vực kinh tế khác.
Ở đầu vào của nền kinh tế, cho dù tốc độ tăng 33,6% trong quý I vừa qua
là đột biến, nhưng cũng chưa đến mức đáng lo ngại, bởi ba lẽ:
-Thứ nhất, tỉ trọng nhập khẩu của khu vực kinh tế trong nước cũng chỉ là
64%, tăng không đáng kể so với những năm gần đây.
-Thứ hai, điều đặc biệt quan trọng: nhập khẩu tăng đột biến là nhằm gia
tăng đầu tư và đẩy mạnh xuất khẩu.
Chẳng hạn, để gia tăng đầu tư, kim ngạch nhập khẩu riêng nhóm hàng

máy móc, thiết bị và phụ tùng trong quý I vừa qua đã tăng gần 900 triệu USD
( 66%), sắt thép tăng 345 triệu USD (69%) v.v… Còn để đẩy mạnh xuất khẩu,
rõ ràng nhất là việc nhập khẩu chỉ riêng vải, sợi và bông tăng 216 triệu USD
(bình quân tăng gần 30%), nhóm hàng gỗ và nguyên, phụ liệu gỗ tăng 69 triệu
USD (tăng 48,5%).
-Thứ ba, tuy nhập khẩu tăng đột biến, nhưng do xuất khẩu vẫn tăng khả
quan, cho nên so sánh kim ngạch nhập siêu với kim ngạch nhập khẩu thì vẫn có
thể thở phào nhẹ nhõm. Là vì chỉ riêng khoản gia tăng nhập khẩu bốn nhóm
hàng nói trên đã lớn hơn kim ngạch nhập siêu tới gần 16% (1,5 tỉ USD).
Đặc biệt, khi phân tích kỹ lưỡng, các số liệu thống kê xuất nhập khẩu quý
I vừa qua còn “mách bảo” một xu thế diễn biến khác. Đó là tổng kim ngạch
nhập khẩu toàn bộ 21 mặt hàng chủ lực trong quý I vừa qua chỉ tăng 28%, còn
nhóm hàng “linh tinh” (chiếm gần 26%) mới thực sự tăng bùng nổ. Con số đó là
hơn 51%. Con số đáng kinh ngạc này phải chăng là hệ quả của việc cắt giảm
thuế suất nhập khẩu hơn 3.000 mặt hàng khi vào WTO, khiến chúng rẻ hơn, và
do vậy, đã ồ ạt đổ vào thị trường trong nước? Nếu vậy, có phải đây cũng là dấu
hiệu báo trước xu thế tăng nhập khẩu sẽ còn tiếp tục mạnh lên trong những năm
tới?
Một loạt vấn đề cần được đặt ra để tìm những lời giải thỏa đáng nhất.
Chẳng hạn làm thế nào để bảo vệ sản xuất trong nước khi hàng rào thuế quan
đã, đang và sẽ còn được cắt giảm? Làm thế nào đẩy mạnh xuất khẩu hơn nữa để
bù vào khoản thị trường trong nước bị buộc phải nhường cho hàng nhập khẩu?
Làm thế nào để giảm nhập khẩu từng bước và tiến tới xuất siêu vào cuối thập kỷ
này như chiến lược xuất nhập khẩu đã đề ra v.v.
3. Chiến lược phát triển của công ty
3.1 Mục tiêu cơ bản chiến lược của Công ty:
Chuyển hình thức sở hữu 100% vốn Nhà nước thành hình thức đa sở hữu
trong đó có sở hữu của các cổ đông là đông đảo cán bộ công nhân viên trong
Công ty và các nhà đầu tư có tiềm năng khác nhằm tạo ra sự thay đổi căn bản về
phương thức quản lý kết hợp với cơ chế năng động trong việc huy động vốn để

có điều kiện đầu tư đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô và năng lực sản xuất
kinh doanh, góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh
của Công ty.
Nâng cao và phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, gắn
chặt giữa trách nhiệm trong công việc và quyền lợi của người lao động và các
cổ đông, tạo động lực thúc đẩy tăng năng suất lao động, đổi mới hình thức quản
lý, điều hành sản xuất kinh doanh nhằm mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động
của doanh nghiệp, xây dựng và phát triển doanh nghiệp góp phần phát triển kinh
tế quốc gia, ổn định việc làm và cải thiện đời sống người lao động.
Tăng cường sự giám sát của các nhà đầu tư đối với doanh nghiệp, bảo
đảm hài hoà giữa lợi ích của Nhà nước, nhà đầu tư và người lao động trong
doanh nghiệp.
3.2 Dự báo môi trường kinh doanh và các giải pháp thực hiện:
Dự báo môi trường kinh doanh: Năm 2006 sẽ là năm khởi đầu kỳ kế
hoạch 5 năm mới và cũng là thời kỳ đất nước ta tham gia sâu và rộng hơn vào
hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế - Đây vừa là thuận lợi vừa là thách thức với
doanh nghiệp trong đó thách thức về cạnh tranh và chuẩn hoá mọi mặt hoạt
động theo các tiêu chuẩn phù hợp với mặt bằng được thừa nhận rộng rãi trong
môi trường kinh doanh quốc tế... là những sức ép rất lớn. Công ty sẽ có thuận
lợi hơn do tính linh động cao của mô hình công ty cổ phần nhưng lại có khó
khăn vì thu hẹp quy mô vốn, người lao động chưa quen với hình thức hoạt động
và quản trị mới có thể sẽ mang theo cách suy nghĩ và làm việc cũ không phù
hợp nhất là thời kỳ đầu sau cổ phần, do vậy sẽ ảnh hưởng đến kết quả hoạt động
chung của công ty. Bên cạnh đó, Công ty CP cũng có rất nhiều công việc phải
làm để đưa hoạt động của doanh nghiệp vào nền nếp, trong đó công việc trước
mắt là xây dựng hệ thống các quy chế quản lý nội bộ bao gồm quy chế tài chính,
quy chế phân phối, quy chế sử dụng và đào tạo cán bộ...
 Các giải pháp và nhóm giải pháp thực hiện kế hoạch sản xuất kinh
doanh:
+ Cơ cấu lại các lĩnh vực hoạt động chính theo hướng đẩy mạnh tỷ trọng

kinh doanh dịch vụ: Ngay từ năm 2006, xúc tiến các thủ tục triển khai xây dựng
để cuối năm có thể đưa vào sử dụng khu nhà xưởng Liên Phương (Thường Tín -
Hà Tây); Đồng thời lập các phương án về chuyển đổi mục đích sử dụng các quỹ
đất của công ty đang thuê như : Khu kho Tân Bình (Tp. HCM), khu đất kho T-
ương Mai (HN)... để phát triển đầu tư kinh doanh/cho thuê nhà ở, văn phòng
làm việc và phát triển dịch vụ tại các địa điểm này. Nghiên cứu khả năng đầu
tư nâng cấp một phần diện tích kho tại Đoạn Xá (HP) thành kho chuyên dụng
cho thuê để nâng doanh thu và hiệu quả sử dụng tài sản tại CN HP; Phát triển
mạng lưới kho để vừa phục vụ kinh doanh nông sản, thương mại và cho thuê
kho tại khu vực đồng bằng Nam Bộ.
+ Giữ vững sự phát triển ổn định kinh doanh thương mại trong đó lấy
hoạt động XNK làm trọng tâm: Nâng cao khả năng kinh doanh hướng theo tiêu
chuẩn chuyên nghiệp đối với một số mặt hàng XNK Công ty có kinh nghiệm
kinh doanh và có tiềm năng phát triển trên thị trường trong và ngoài nước. Xây
dựng một số mặt hàng, nhóm mặt hàng chính có kim ngạch XNK đạt trên 1
triệu USD/mặt hàng như xuất khẩu cà phê, tiêu, lạc và nông sản khác, hàng
GCMM,... nhập khẩu hoá chất, thép và nguyên vật liệu phục vụ xây dựng, phư-
ơng tiện vận tải,... nghiên cứu đẩy mạnh kinh doanh một số mặt hàng khác như
xuất khẩu cồn, nông sản đã qua chế biến, thủ công mỹ nghệ, nhập khẩu và phân
phối hoá dược phục vụ sản xuất nông nghiệp...; Thường xuyên quan tâm xây
dựng thị trường và mạng lưới bạn hàng/ mạng lưới tiêu thụ trong đó có từ 3-4
bạn hàng chủ chốt phù hợp với tính chất kinh doanh mặt hàng cụ thể; Nghiên
cứu lập phương án đầu tư và tự tổ chức quản lý hoặc liên doanh, liên kết chế
biến nông sản để XK nhằm ổn định một phần nguồn cung cấp... Hướng tới có
sản phẩm lưu thông trên thị trường với thương hiệu riêng.
+ Nghiên cứu, vận dụng các hình thức, phương thức kinh doanh, huy
động vốn năng động phù hợp với pháp luật và đảm bảo hài hoà quyền và trách
nhiệm của các bên tham gia. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại và xúc
tiến đầu tư có trọng điểm theo các định hướng phát triển kinh doanh, mặt hàng
và thị trường phù hợp với mục tiêu sản xuất kinh doanh của Công ty, chú trọng

phát triển cả thị trường trong và ngoài nước.
+ Tích cực tìm kiếm đối tác liên doanh, liên kết để phát triển thêm lĩnh
vực hoạt động và mặt hàng kinh doanh mới. Nghiên cứu đầu tư, nâng cấp và đổi
mới công nghệ của xí nghiệp may để sản xuất có hiệu quả bằng hoặc tương đư-
ơng các hoạt động khác.
+ Cơ cấu lại bộ máy tổ chức và nâng cao chất lượng đội ngũ người lao
động theo các tiêu chuẩn phù hợp với yêu cầu thị trường và chuyên môn thuộc
lĩnh vực kinh doanh của công ty. Quy chế hoá và công khai các quy định về
trách nhiệm cá nhân và chính sách đãi ngộ người lao động theo hướng khuyến
khích thích đáng người lao động có năng suất và đóng góp tích cực vào hiệu quả
hoạt động chung, phấn đấu thực hiện trả lương theo công việc căn cứ theo mặt
bằng thị trường.
+ Xây dựng và đổi mới hệ thống các quy định quản lý nội bộ phù hợp với
pháp luật và hình thức sở hữu, quản trị, quản lý mới - nhất là các cơ chế cho các
chi nhánh, xí nghiệp trực thuộc để mỗi đơn vị có điều kiện chủ động trong việc
khai thác các cơ hội và tiềm năng của địa phương. Thực hiện chính sách tiết
kiệm chi phí và các biện pháp nâng cao năng suất lao động để tăng khả năng
cạnh tranh của công ty trên thị trường.
Kế hoạch sản xuất kinh doanh các năm 2006-2008
Các chỉ tiêu Đ/ vị Năm 2006 Năm 2007
%
tăn
g
Năm 2008
%
tăng
trư-
I. Tổng doanh thu 1.000 600.000.000
650.000.00
0

8,3 700.000.000 7,69
Doanh thu KD
chính
1.000 592.000.000
596.500.00
0
0,8 600.000.000 0,59
Doanh thu SX, GC 1.000 3.000.000 3.500.000
16,
7
4.000.000 14,3
Doanh thu dịch vụ 1.000 5.000.000 50.000.000 96.000.000 92,0
II. Kim ngạch
XNK
USD 53.000.000 57.000.000 3,6 60.000.000 5,3
1. Xuất khẩu USD 35.000.000
36.000.00
0
2,9 38.000.000 5,6
Nông sản (cafe
lạc..)
USD 24.000.000
27.000.00
0
3,8 27.500.000 1,9
Lâm sản (quế,
hồi...)
USD 3.300.000
3.300.00
0

3.700.000 12,1
Gia công may mặc USD 4.000.000
4.000.00
0
4.500.000 12,5
Hàng hoá khác USD 1.700.000
1.700.00
0
2.300.000 35,3
2. Nhập khẩu USD 18.000.000 21.000.000 5,0 22.000.000 4,8
Ô tô, xe máy, phụ
tùng
USD 4.500.000 5.900.000 7,3 6.000.000 1,7
VLXD, hoá chất USD 4.000.000 4.300.000 7,5 4.500.000 4,7
Hàng GCMM USD 3.000.000 3.000.000 3.500.000 16,7
Hàng hoá khác USD 6.500.000 7.800.000 4,0 8.000.000 2,6
Dự kiến Kế hoạch tài chính các năm 2006-2008
Đơn vị : 1.000 đồng
ST
T
Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008
I Vốn điều lệ 70.000.000 70.000.000 70.000.000
II Doanh thu 600.000.000 650.000.000 700.000.000
1 Doanh thu KD chính 592.000.000 596.500.000 600.000.000
2 Doanh thu SX, GC 3.000.000 3.500.000 4.000.000
3 Doanh thu dịch vụ 5.000.000 50.000.000 96.000.000
III Chi phí 593.020.000 641.900.000 690.062.500
1 Giá vốn bán hàng 577.630.000 625.850.000 673.412.500
2 Chi phí bán hàng 10.750.000 11..350.000 11..950.000
2.1 Tiền lương 6.000.000 6.500.000 7.000.000

2.2
Bảo hiểm ,Ytế, Công đoàn
phí
750.000 800.000 800.000
2.3 Xúc tiến thương mại 900.000 950.000 950.000
2.4 Khấu hao TSCĐ 2.250.000 2.250.000 2.250.000
2.5 Chi phí khác 850.000 850.000 950.000
3 Chi phí quản lý DN 4.640.000 4..700.000 4.700.000
3.1 Nhân viên quản lý 3.400.000 3.400.000 3.400.000
3.2 Bảo hiểm 70.000 80.000 80.000
3.3 Đồ dùng văn phòng 70.000 70.000 70.000
3.4 Chi phí điện, nước 250.000 250.000 250.000
3.5 Chi phí khác 850.000 900.000 900.000
IV Lợi nhuận trước thuế 6.980.000 8.100.000 9.937.500
V Thuế thu nhập DN (%) 0 0 14
VI Lợi nhuận sau thuế 6.980.000 8.100.000 8.546.250
VII
Lợi nhuận sau thuế / VĐL
(%)
9,97 11,57 12,21
VIII Lợi nhuận trích lập các quỹ 980.000 1.350.000 1.250.000
T/ đó: Quỹ dự trữ bắt buộc
(5%)
349.000 405.000 428.000
IX Lợi nhuận còn lại chia cổ tức 6.000.000 6.750.000 7.500.000
X Tỷ lệ trả cổ tức (%) 8,57 9,64 9,8%
XI Số lao động bình quân 380 400 400
XII
Thu nhập b/q đầu ngư-
ời/tháng

2.061 2.062 2.166
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN Ở CÔNG TY
XUẤY NHẬP KHẨU TỔNG HỢP I HÀ NỘI
1. Nâng cao nguồn hàng xuất khẩu và nâng cao năng lực cạnh tranh cho
nguồn hàng xuất khẩu
1.1 Đầu tư đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu
Công ty cần mạnh dạn đầu tư nghiên cứu thị trường xuất khẩu kết hợp
sản xuất các mặt hàng truyền thống nhằm tăng lượng sản phẩm kinh doanh
trong nước và tăng khả năng cạnh tranh về sản phẩm xuất khẩu trên thị
trường. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu mặt hàng mới phải tuân thủ
các bước như thăm dò thị trường, lên tiêu chuẩn, sản xuất kinh doanh thử,
định giá, tránh tình trạng đầu tư nghiên cứu thời gian dài, chi phí lớn, thị
trường không có nhu cầu, vừa hao tốn tiền của, vừa lãng phí thời gian.
Đa dạng hoá sản phẩm là một biện pháp mà bất kỳ một doanh nghiệp
nào cũng phải nghĩ tới khi tìm cách tăng khả năng cạnh tranh của mình.
Công ty cần nghiên cứu thị trường, khách hàng cạnh tranh để đưa ra một loại
sản phẩm phù hợp. Do vậy, việc nghiên cứu sản phẩm mới cũng như việc đa
dạng hoá sản phẩm là một điều kiện cần thiết để Công ty có thể mở rộng thị
trường.
Ở nước ta hiện nay, điều kiện tiêu dùng hàng sản xuất trong nước
cũng đang được nâng cao với các sản phẩm có chất lượng tốt và giá cả cạnh
tranh. Công ty cần nắm bắt được những yêu cầu của thị trường, nhanh chóng
đưa ra sản phẩm phù hợp với thị hiếu của thị trường mà vẫn đảm bảo về chất
lượng và giá cả cạnh tranh. Tuy nhiên, việc đa dạng hoá phải kết hợp với
chuyên môn hoá khi thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, cần xác định cho mình
một cơ cấu sản phẩm tối ưu, trong phương án nhập đầu vào phải lựa chọn
sản phẩm riêng của mình để tạo thế độc quyền, với những loại sản phẩm mà
lượng tiêu thụ ít thì Công ty vẫn phải tiếp tục duy trì nhập để phục vụ nhu
cầu thị trường, nhằm giữ chân khách hàng đặc biệt là khách hàng truyền
thống, song vẫn cần xem xét quy mô, cơ cấu của nó một cách hợp lý.

Thực hiện đa dạng hoá sản phẩm là một trong những biện pháp hữu
hiệu để mở rộng thị trường, tăng sức cạnh tranh của Công ty trước các đối
thủ cạnh tranh, song để có thể đa dạng hoá một cách hiệu quả thì Công ty
cần phải tăng cường các phương tiện kỹ thuật, các hoạt động thu thập, xử lý
thông tin thị trường, mở rộng quan hệ hợp tác với các đối thủ trong kinh
doanh.
1.2 Nâng cao năng lực cạnh tranh cho nguồn hàng xuất khẩu bằng cách:giảm
chi phí,hạ giá thành sản ph ẩm,lấy giá cả làm lợi thế cạnh tranh
Giảm chi phí - hạ giá thành sản phẩm là cả một giai đoạn, nghiên cứu
tổng hợp của Công ty từ việc ký kết hợp đồng nhập khẩu, tiếp nhận vật tư và
hàng hoá nhập khẩu, bảo quản vật tư và hàng hoá nhập khẩu, lựa chọn bạn
hàng đối tác làm ăn sao cho sản phẩm với giá thành không đắt nhưng vẫn
đảm bảo chất lượng hàng hoá và vật tư nhập khẩu.
Việc ký kết hợp đồng nhập khẩu là vấn đề quan trọng, thận trọng và
khôn khéo sẽ tránh được các sơ suất về các chỉ tiêu, tiêu chuẩn về chất
lượng, đảm bảo lô hàng phải đạt tiêu chuẩn do đó người tham gia ký kết hợp
đồng kinh doanh phải là người có kiến thức tổng hợp về mọi mặt, có hiểu
biết sâu sắc, nắm vững nghiệp vụ ngoại thương, hiểu biết về các mặt hàng
vật tư và hàng hoá XNK của Công ty, có các kiến thức về văn hoá xã hội và
kinh nghiệm thực tế.
Vấn đề tiếp nhận hàng hoá: Công ty phải kiểm tra hàng hoá về số
lượng, chất lượng, cần phải cử người theo giám sát, áp tải hàng hoá về kho
của mình, đảm bảo số lượng, chất lượng hàng hoá.
Lựa chọn bạn hàng, đối tác làm ăn để có được phụ tùng vật tư và hàng
hoá phù hợp với nhu cầu kinh doanh của Công ty. Do vậy, khi lựa chọn bạn
hàng cho mình Công ty cần nghiên cứu tình hình hoạt động kinh doanh của
đối tác, chất lượng sản phẩm và khả năng cung cấp hàng cho mình, các đối
tác có trình độ kỹ thuật cao thường có những sản phẩm tốt, Công ty nên chú

×