Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Hoạt động giám sát của đại biểu quốc hội, đoàn đại biểu quốc hội theo pháp luật lào và pháp luật việt nam dưới góc độ so sánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.35 MB, 109 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHAYSITH VONGSENGDEUANE

HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI, ĐOÀN
ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI THEO PHÁP LUẬT LÀO VÀ PHÁP
LUẬT VIỆT NAM DƯỚI GÓC ĐỘ SO SÁNH
Chuyên ngành

: Luật Hiến pháp và Luật hành chính

Mã số

: 8380102

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hướng nghiên cứu)

Người hướng dẫn khoa học: TS. PHẠM QUÝ TỴ

HÀ NỘI - NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ cơng


trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn theo đúng quy định.
Tơi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn
này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

PHAYSITH VONGSENGDEUANE


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CHDCND

: Cộng hòa dân chủ nhân dân

CHXHCN

: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

ĐBQH

: Đại biểu Quốc hội

HĐND

: Hội đồng nhân dân

NDCM

: Nhân dân cách mạng


NXB

: Nhà xuất bản

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

UBTVQH

: Ủy ban thường vụ Quốc hội

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

: Viện kiểm sát nhân dân tối cao


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA ĐẠI
BIỂU QUỐC HỘI VÀ ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI.................................................... 7


1.1. Những vấn đề chung về hoạt động giám sát ........................................................ 7
1.2. Vị trí, vai trị của Đại biểu Quốc hội và Đồn Đại biểu Quốc hội trong hoạt
động giám sát ............................................................................................................ 14
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động giám sát của Đại biểu Quốc hội và Đoàn
Đại biểu Quốc hội ..................................................................................................... 18
1.4. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan
của Quốc hội ............................................................................................................. 20
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ............................................................................................. 21
CHƯƠNG 2. PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
VÀ ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI CỦA LÀO VÀ VIỆT NAM DƯỚI GÓC ĐỘ SO
SÁNH ............................................................................................................................ 22

2.1. Khái quát quá trình hình thành, phát triển của pháp luật về hoạt động giám sát
của Đại biểu Quốc hội và Đoàn Đại biểu Quốc hội Lào và Việt Nam qua các giai
đoạn lịch sử ............................................................................................................... 22
2.2. Điểm tương đồng và khác biệt trong quy định pháp luật Lào và Việt Nam về
hoạt động giám sát của Đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội.................... 28
2.3. Một số vấn đề rút ra từ việc so sánh pháp luật về hoạt động giám sát của Đại
biểu Quốc hội và Đoàn Đại biểu Quốc hội của Lào và Việt Nam ............................ 56
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ............................................................................................. 67


CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VÀ
ĐỒN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI THƠNG QUA NHỮNG KINH NGHIỆM VIỆT NAM 69

3.1. Phương hướng hoàn thiện và đảm bảo áp dụng hiệu quả pháp luật Lào hoạt
động giám sát của Đại biểu Quốc hội và Đoàn Đại biểu Quốc hội........................... 69
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động giám sát của Đại biểu Quốc

hội và Đoàn Đại biểu Quốc hội ................................................................................. 72
3.3. Các giải pháp nhằm đảm bảo áp dụng hiệu quả pháp luật Lào về hoạt động giám
sát của Đại biểu Quốc hội và Đoàn Đại biểu Quốc hội ............................................ 81
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ............................................................................................. 88
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 91


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chức năng giám sát là một trong những chức năng cơ bản của Quốc hội, giám sát
là việc Quốc hội sử dụng các phương tiện và cơng cụ của mình để tìm hiểu chính sách,
pháp luật do Quốc hội ban hành được thực thi ra sao, các cơ quan Nhà nước thực hiện
như thế nào, trên cơ sở đó để bảo vệ lợi ích của đất nước, của nhân dân và thực hiện
quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước, thể hiện vai trò của cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất, bảo đảm tôn trọng và phát huy quyền dân chủ của
nhân dân. Như vậy, có thể khẳng định vai trò hoạt động giám sát của Quốc hội là vô
cùng to lớn, làm cho Quốc hội hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Theo quy định của
pháp luật, chủ thể hoạt động giám sát của Quốc hội bao gồm: Đại biểu Quốc hội
(ĐBQH); Đoàn Đại biểu Quốc hội (Đoàn ĐBQH); Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban
của Quốc hội; Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH); Quốc hội.
Thực tiễn từ khi triển khai thực hiện các quy định của pháp luật về hoạt động
giám sát của Quốc hội ở hai nước thời gian qua cho thấy, hoạt động giám sát của Quốc
hội nói chung, của ĐBQH, Đồn ĐBQH nói riêng đã đạt được những kết quả tích cực,
đã tập trung vào những vấn đề mà cử tri quan tâm, do đó góp phần ổn định chính trị,
kinh tế xã hội ngày càng phát triển. Tuy nhiên, hoạt động giám sát của Quốc hội nói
chung, của ĐBQH, Đồn ĐBQH nói riêng vẫn cịn nhiều hạn chế, tồn tại, mang tính
“hình thức”, chưa thu được những hiệu quả thiết thực, chưa đáp ứng được yêu cầu,

nguyện vọng của nhân dân. Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến những
hạn chế này là do hệ thống các quy định pháp luật của hai nước trong điều chỉnh hoạt
động giám sát tối cao của Quốc hội chưa thực sự hồn thiện, cịn bộc lộ nhiều bất cập,
hạn chế.
Năm 2015, Hiến pháp mới của nước CHDCND Lào được ban hành đã khẳng
định Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nước CHDCND Lào, Hội đồng nhân
dân (HĐND) cấp tỉnh là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Sự thay đổi này đã
làm cho các quy định về hoạt động giám sát của Quốc hội nói chung của ĐBQH, đồn
ĐBQH nói riêng theo quy định của Luật về Hoạt động giám sát Quốc hội năm 2004 đã
trở nên lỗi thời, khơng cịn phù hợp và đặt ra yêu cầu về hoàn thiện các quy định pháp
luật về hoạt động giám sát của Quốc hội của nước CHDCND Lào. Luật về Hoạt động
giám sát của Quốc hội và HĐND tỉnh (sửa đổi) năm 2016 của nước CHDCND Lào ra
đời, đáp ứng phần nào sự thay đổi trong bộ máy quyền lực nhà nước - với việc thêm
Chương về Giám sát của HĐND. Tuy nhiên, các quy định về giám sát ĐBQH, Đồn
ĐBQH thì hầu như khơng thay đổi, và vẫn bộc lộ rất nhiều hạn chế.


2

Trong khi đó, tại Việt Nam, đáp ứng yêu cầu cụ thể hóa Luật Hiến pháp 2013,
Luật Tổ chức Quốc hội 2014, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm
2015 được ban hành, với rất nhiều điểm mới về hoạt động giám sát của Quốc hội, của
các cơ quan của Quốc hội, Đoàn ĐBQH, ĐBQH với mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt
động giám sát của Quốc hội trong thời gian tới.
Nhận thức về những nét tương đồng về chế độ chính trị, điều kiện kinh tế - xã hội
của nước CHDCND Lào và nước CHXHCN Việt Nam, đặc biệt là những nét tương
đồng về vị trí, vai trị của Quốc hội, ĐBQH, Đồn ĐBQH trong bộ máy nhà nước của
hai quốc gia; cũng như nhận thức về vị trí, vai trị quan trọng của hoạt động giám sát
của ĐBQH, Đoàn ĐBQH và thực trạng quy định pháp luật về hoạt động giám sát
ĐBQH, Đoàn ĐBQH của nước CHDCND Lào, tôi quyết định chọn đề tài: “Hoạt động

giám sát của Đại biểu Quốc hội, Đoàn Đại biểu Quốc hội theo pháp luật Lào và
pháp luật Việt Nam dưới góc độ so sánh”, làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ luật
học, chuyên ngành Luật hiến pháp và Luật hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, vấn đề hoạt động của Quốc hội nói chung và hoạt
động giám sát của Quốc hội nói riêng đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của
nhiều cơ quan nghiên cứu khoa học, các nhà luật học, chính trị học, xã hội học trên thế
giới cũng như cả hai nước Lào và Việt Nam dưới nhiều góc độ khác nhau. Trong đó:
Trên thế giới, vấn đề giám sát của cơ quan đại diện quyền lực của nhân dân được
nghiên cứu dưới khía cạnh kiểm sốt quyền lực nhà nước, trong đó có thể kể đến các
cơng trình tiêu biểu như: Mann M. (1986), The Sources of Social Power - Cambridge
University Press; Roderick Bell, David V. Edwards, R. Harison Wagner (2000),
Political power-reader in theory and research, Cornell University Press, New York;
Alvin Toffler (2002), Thăng trầm quyền lực, NXB. Thanh niên, Hà Nội; Quốc hội Mỹ
hoạt động như thế nào (How congress works) (2003), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội;
J.J.Rousseau (2004), Bàn về khế ước xã hội, NXB. Lý luận chính trị, Hà Nội; McIntyr
(2005), Power of Institutions, Journal of Law and Commerce, Vol 25; J. Locke (2007),
Khảo luận thứ hai về chính quyền, NXB. Tri thức, Hà Nội; Quốc hội trong nhà nước
pháp quyền Cộng hịa Liên bang Đức (2008), NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội;...
Tại Việt Nam, cùng với lịch sử phát triển hơn 70 năm của Quốc hội, vấn đề giám
sát của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội đã được đẩy mạnh nghiên cứu từ những
góc độ khác nhau, dưới các hình thức phong phú, đa dạng. Trong đó có thể kể đến: (i)
Về các cơng trình là sách: Đào Trí Úc và Võ Khánh Vinh (đồng chủ biên, 2003),
Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay,
NXB. Công an nhân dân, Hà Nội; Nguyễn Sĩ Dũng (2004), Quyền giám sát của Quốc


3

hội - Nội dung và thực tiễn từ góc nhìn tham chiếu, NXB. Tư pháp, Hà Nội; Văn

phòng Quốc hội (2006), Cơ quan lập pháp và hoạt động giám sát, NXB Tư pháp; Thái
Vĩnh Thắng (2011), Tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước, Sách chuyên khảo,
NXB Tư pháp, Hà Nội; Nguyễn Đăng Dung (2011), Chức năng giám sát của Quốc hội
trong nhà nước pháp quyền, NXB. Lao động, Hà Nội; Trần Ngọc Đường (2012), Phân
công, phối hợp và kiểm soát quyền lực với việc sửa đổi Hiến pháp 1992, NXB. Chính
trị Quốc gia, Hà Nội… (ii) Về các cơng trình là đề tài cấp nhà nước: Ban Cơng tác
lập pháp của UBTVQH (2005), Quy trình và thủ tục trong hoạt động của Quốc hội,
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước, Hà Nội; Đào Trí Úc (2006), Xây dựng cơ
chế pháp lý đảm bảo sự kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy
Đảng, Nhà nước và các thiết chế tổ chức trong hệ thống chính trị, đề tài nghiên cứu
khoa học; Đào Trí Úc (2010), Xây dựng và hồn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát việc
thực hiện quyền lực chính trị, đảm bảo dân chủ và kỷ luật trong hệ thống chính trị, đề
tài nghiên cứu khoa học… (iii) Về các cơng trình là luận án, luận văn thạc sĩ: Phạm
Văn Hùng (2004), Quyền giám sát của Quốc hội đối với Tòa án nhân dân (TAND),
Viện kiểm sát nhân dân (VKSND), Luận án Tiến sĩ; Trần Tuyết Mai (2009), Cơ sở lý
luận và thực tiễn trong việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động giám sát của
Quốc hội Việt Nam, Luận án Tiến sĩ; Trương Thị Hồng Hà (2009), Hoàn thiện cơ chế
pháp lý đảm bảo chức năng giám sát của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, Luận án
tiến sĩ Luật học, Học viện chính trị quốc gia, Hà Nội; Vũ Thị Mỹ Hằng (2016), Thực
hiện chức năng giám sát quyền lực nhà nước của Quốc hội Việt Nam hiện nay, Luận án
Tiến sĩ Chính trị học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn... (iv) Về các cơng
trình là các bài viết đăng trên tạp chí, kỷ yếu hội thảo: Lê Hữu Thể (2001), “Một số
suy nghĩ về việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội”, Văn
phòng Quốc hội, Hà Nội; Bùi Ngọc Thanh (2009), “Đổi mới hoạt động giám sát tối
cao của Quốc hội”, Kỷ yếu Hội thảo “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng,
hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội”; Trần Tuyết Mai (2016), “Một số
vấn đề về hoạt động giám sát của Quốc hội”, Bản tin Thông tin Khoa học lập pháp, số
01(24)…
Tại Lào, vấn đề giám sát tối cao của Quốc hội, hoạt động giám sát của các cơ
quan của Quốc hội, Đoàn ĐBQH, ĐBQH trước hết được đề cập trong các Báo cáo

tổng kết công tác, các đề cương giới thiệu văn bản pháp luật như: Văn phòng Quốc hội
Lào (2016), Bản tổng kết công tác của Quốc hội Lào năm 2015-2016, Viêng Chăn; Vụ
Phổ biến, giáo dục pháp luật - Bộ Tư pháp (2017), Đề cương giới thiệu Quốc hội Lào,
Luật về Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND cấp tỉnh (sửa đổi) năm 2016 của
nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Viêng Chăn… Tiếp đó, hoạt động giám sát tối


4

cao của Quốc hội, hoạt động giám sát của các cơ quan của Quốc hội, Đoàn ĐBQH,
ĐBQH của Lào được nghiên cứu chủ yếu dưới hình thức các cơng trình luận văn, bài
viết đăng trên tạp chí, cụ thể như: Về luận văn: Nalan Thammatheva (2003), Bộ máy
Nhà nước CHDCND Lào theo Hiến pháp năm 1991, Luận văn Thạc sĩ luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội; Khamphanh Sophabmixay (2006), Vai trò của Quốc hội
trong việc bảo đảm thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân lao động ở nước
CHDCND Lào hiện nay, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội;
Yeexiong Xaykhuenhiatoua (2015), Tăng cường chức năng giám sát của Quốc hội
nước CHDCND Lào, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội;
Bounlong Daly (2016), Tổ chức và hoạt động của Quốc hội theo pháp luật Lào và Việt
Nam dưới góc độ so sánh, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội;
Khounxay Phommixay (2017), Hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội theo quy
định của pháp luật Lào và Việt Nam dưới góc độ so sánh, Luận văn Thạc sĩ luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội;… Về các cơng trình là các bài viết đăng trên các tạp
chí chuyên ngành: Phonesay Alounsavath (2004), “Quốc hội trong điều kiện phát
triển mới của đất nước”, Tạp chí Cộng sản, Đảng Cộng sản Việt Nam; Chanpeng
Silivan (2006), “Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Quốc hội về kiểm tra và ban
hành pháp luật và văn bản quy phạm pháp luật trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội; Souknilanh Sengphachanh (2014), “Chức
năng giám sát tối cao của Quốc hội Lào trong Dự Thảo Hiến pháp (sửa đổi) năm
2015”, Tạp chí Nghiên cứu Quốc hội, số 10/2014; Soulichan Phetmany (2015), “Hoạt

động giám sát của Quốc hội Lào trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí nghiên cứu Quốc
hội, số 02/2015…
Mặc dù các phương thức tiếp cận của các tác giả là không giống nhau nhưng nhìn
chung, các tác giả đều khẳng định về vị trí pháp lý của Quốc hội trong hệ thống tổ
chức bộ máy của nhà nước với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất được
Hiến pháp quy định với 03 chức năng cơ bản là quyết định các vấn đề quan trọng của
đất nước, lập pháp và giám sát. Trong đó, chức năng giám sát của Quốc hội là một
chức năng quan trọng nhưng trong thời gian vừa qua chưa đáp ứng được với yêu cầu
đổi mới và kiện toàn bộ máy nhà nước hiện nay. Do đó, cần thiết phải có những giải
pháp đồng bộ và kịp thời để nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội. Tuy
nhiên, nếu nghiên cứu trên phương diện quy định pháp luật hiện hành của Lào và Việt
Nam về hoạt động giám sát của ĐBQH, Đoàn ĐBQH dưới góc độ so sánh thì các cơng
trình này chưa đề cập đến. Chính vì vậy, việc nghiên cứu theo góc độ này cần phải
được thực hiện, nhất là trong thời điểm Quốc hội Lào đang xem xét sửa đổi, bổ sung
Luật về Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND cấp tỉnh (sửa đổi) năm 2016.


5

3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận về hoạt động giám
sát của ĐBQH, Đoàn ĐBQH, các quy định pháp luật hiện hành của Lào và Việt Nam
về hoạt động giám của ĐBQH, Đoàn ĐBQH.
* Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Trong khuôn khổ một luận văn, Luận văn tập trung nghiên cứu về mặt khơng
gian, thời gian chính là nội dung chính là các quy định của Hiến pháp, pháp luật hiện
hành về hoạt động giám sát của ĐBQH, Đồn ĐBQH.
4. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn có mục đích nghiên cứu từ việc hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về

hoạt động giám sát, vai trò của ĐBQH, Đoàn ĐBQH trong hoạt động giám sát của
Quốc hội để tìm hiểu, so sánh các quy định pháp luật hiện hành của Lào và Việt Nam
về hoạt động giám sát của ĐBQH, Đồn ĐBQH. Việc tìm hiểu, so sánh quy định hai
nước nhằm mục đích tìm hiểu kinh nghiệm của pháp luật Việt Nam để xây dựng
phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật của nước CHDCND Lào về hoạt
động giám sát của ĐBQH, Đồn ĐBQH nói riêng, hoạt động giám sát của Quốc hội
Lào trong thời gian tới.
5. Các câu hỏi nghiên cứu
Trên cơ sở đối tượng, phạm vi và mục tiêu nghiên cứu, các câu hỏi nghiên cứu
được xác định như sau:
(i) Hoạt động giám sát là gì, vị trí vai trị của ĐBQH, đồn ĐBQH trong hoạt
động giám sát của Quốc hội?
(ii) Quá trình hình thành, phát triển của pháp luật về hoạt động giám sát của
ĐBQH, đoàn ĐBQH Lào và Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử?
(iii) Điểm tương đồng và khác biệt trong các quy định về hoạt động giám sát của
ĐBQH, Đoàn ĐBQH theo pháp luật hiện hành của Lào và Việt Nam?
(iv) Một số vấn đề rút ra từ việc so sánh pháp luật về hoạt động giám sát của
ĐBQH và Đoàn ĐBQH của Lào và Việt Nam?
(v) Thành tựu và một số bất cập, hạn chế trong quy định pháp luật hiện hành của
nước CHDCND Lào về hoạt động giám sát của ĐBQH, Đoàn ĐBQH?
(vi) Kinh nghiệm của Việt Nam trong xây dựng, hoàn thiện các quy định pháp
luật về hoạt động giám sát của ĐBQH, Đoàn ĐBQH?
(vii) Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật của nước CHDCND Lào
về hoạt động giám sát của ĐBQH, Đoàn ĐBQH?


6

6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Cơ sở lý luận cho việc phân tích, đánh giá các vấn đề trong luận văn là quan

điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật nói chung, nhà nước và
pháp luật XHCN nói riêng, các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam cũng như
Đảng Nhân Dân cách mạng Lào (Đảng NDCM Lào) về Nhà nước, nhất là các quan
điểm về đổi mới đất nước, về phát huy dân chủ, về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, xây dựng bộ máy nhà
nước, đặc biệt là xây dựng, hoàn thiện, nâng cao vị trí, vai trị, chức năng của Quốc
hội; Tư tưởng Hồ Chí Minh về giành và giữ chính quyền, về quyền lực nhân dân.
Trên nền tảng phương pháp luận duy vật biện chứng của triết học Mác - Lênin,
luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: phương pháp phân tích, tổng hợp;
phương pháp hệ thống hóa, phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, phương pháp
lịch sử; phương pháp so sánh… để giải quyết các vấn đề đặt ra trong luận văn.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung, phát triển những vấn đề lý
luận về hoạt động giám sát của ĐBQH, Đoàn ĐBQH, cũng như đóng góp những ý
kiến có cơ sở khoa học cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hoạt động giám
sát của ĐBQH, Đoàn ĐBQH Quốc hội Lào, cũng như ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu
giảng dạy, nghiên cứu khoa học về hoạt động giám sát của ĐBQH, Đoàn ĐBQH ở các
cơ sở nghiên cứu, đào tạo có liên quan ở nước CHDCND Lào, cũng như ở Việt Nam.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn gồm có 3 chương sau:
Chương 1. Một số vấn đề lí luận về hoạt động giám sát của Đại biểu Quốc hội và
Đoàn Đại biểu Quốc hội
Chương 2. Pháp luật về hoạt động giám sát của Đại biểu Quốc hội và Đoàn Đại
biểu Quốc hội của Lào và Việt Nam dưới góc độ so sánh
Chương 3. Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
của hoạt động giám sát của Đại biểu Quốc hội và Đoàn Đại biểu Quốc hội của Lào
thông qua những kinh nghiệm Việt Nam.



7

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA ĐẠI BIỂU
QUỐC HỘI VÀ ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
1.1. Những vấn đề chung về hoạt động giám sát
1.1.1. Khái niệm hoạt động giám sát
Khái niệm “giám sát” được các nhà nghiên cứu tiếp cận dưới nhiều góc độ khác
nhau. Trong đó, từ góc độ ngơn ngữ, “giám sát” nguyên gốc là một từ Hán -Việt1,
được hiểu theo các khía cạnh chủ yếu sau: (i) “Giám sát” được hiểu là việc “theo dõi,
kiểm tra việc thực thi nhiệm vụ”2; (ii) “Giám sát” được hiểu là “một nhóm hoặc một tổ
chức để theo dõi người, việc nào đấy”3; (iii) “Giám sát” được hiểu là “sự bảo đảm cho
công việc hoặc hoạt động được thực hiện đúng theo quy định”4. Như vậy, tuy cách
diễn đạt và biểu hiện ý nghĩa của từ “giám sát” có khác nhau, nhưng các quan niệm
trên đều đề cập đến nội dung cơ bản: Việc theo dõi, xem xét, kiểm tra của chủ thể có
thẩm quyền đối với các chủ thể khác, để qua đó có được nhận định, đánh giá, kết luận
về một trong những hoạt động cụ thể của chủ thể chịu sự giám sát5. Điều đó có nghĩa
là, giám sát là việc theo dõi, xem xét, kiểm tra, đánh giá một chủ thể nào đó về một
việc làm đã thực hiện đúng hoặc thực hiện chưa đúng những điều đã quy định để từ đó
có biện pháp điều chỉnh hoặc xử lý đối với việc làm sai, nhằm đạt được những mục
đích hiệu quả xác định từ trước, bảo đảm cho các quyết định thực hiện đúng và đầy đủ.
Hoạt động giám sát nào cũng cần đến hai giai đoạn, giai đoạn theo dõi, xem xét, kiểm
tra và giai đoạn đánh giá; theo dõi, xem xét, kiểm tra làm tốt thì đánh giá sẽ đúng đắn,
chính xác, cuộc giám sát sẽ có kết quả tích cực và ngược lại.
Giám sát có những đặc trưng sau:
Thứ nhất, giám sát dùng để chỉ hoạt động theo dõi, xem xét, kiểm tra đối tượng
chịu sự giám sát, qua đó đưa ra nhận định về một việc làm nào đó đã được thực hiện
đúng hay sai so với các quy định hiện hành.
Thứ hai, để tiến hành hoạt động theo dõi, xem xét, kiểm tra thì giám sát luôn phải

gắn với một hoặc một số đối tượng cụ thể. Điều đó có nghĩa là, hoạt động giám sát
phải trả lời được câu hỏi ai (người hoặc tổ chức nào) có quyền thực hiện việc theo dõi,
xem xét, kiểm tra và đưa ra những đánh giá, nhận định về một việc làm nào đó đã
được thực hiện đúng hay sai so với các quy định hiện hành;

1

Đào Duy Anh (2008), Hán - Việt Từ điển giản yếu, NXB Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội
Hoàng Phê (chủ biên) (2003), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, tr. 108.
3
Từ điển Tiếng Nga. Nxb Moscow (2010), tr. 204
4
Từ điển Tiếng Anh. Nxb Leicester (2012), tr. 536
5
Khounxay Phommixay (2017), Hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội theo quy định của pháp luật Lào và
Việt Nam dưới góc độ so sánh, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.6.
2


8

Thứ ba, giám sát bao giờ cũng cần 2 giai đoạn: Giai đoạn theo dõi, xem xét, kiểm
tra và giai đoạn đánh giá, đưa ra kiến nghị, kết luận. Trong đó, giai đoạn thứ nhất là cơ
sở để thực hiện giai đoạn thứ hai. Nếu giai đoạn theo dõi, xem xét, kiểm tra làm tốt thì
việc đánh giá, kết luận sẽ đúng đắn, chính xác và cuộc giám sát sẽ có hiệu quả và
ngược lại.
Thứ tư, giám sát phải thể hiện được quan hệ giữa các chủ thể tham gia vào hoạt
động giám sát. Nội dung của quan hệ này biểu hiện ở những quyền và nghĩa vụ của
chủ thể giám sát và đối tượng chịu giám sát.
Thứ năm, giám sát phải được tiến hành trên những căn cứ do pháp luật quy định.

Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi vì: Nếu như thiếu những quy định này thì
chủ thể giám sát khơng có cơ sở để thực hiện quyền giám sát và tiêu chí để đưa ra
những nhận định về hoạt động của đối tượng chịu giám sát.
Thứ sáu, giám sát là hoạt động có tính mục đích. Trước hết, mục đích của giám
sát là đưa ra được những nhận định chính xác của chủ thể giám sát đối với hoạt động
của đối tượng chịu giám sát, từ đó có các biện pháp xử lý đối với những việc làm sai
trái nhằm bảo đảm cho những quy định của pháp luật được thực hiện đúng và có hiệu
quả. Như vậy, mục đích chung của giám sát nhà nước cũng như giám sát xã hội là bảo
đảm cho sự hoạt động đúng đắn, minh bạch, liên tục của các cơ quan tổ chức, cá nhân
có chức vụ quyền hạn trong bộ máy nhà nước bộ máy nhà nước, trên cơ sở tuân thủ
nghiêm chỉnh pháp luật về nghĩa vụ, chức năng và thẩm quyền của họ.
Như vậy, thuật ngữ “giám sát” nếu hiểu theo nghĩa chung thì phạm vi áp dụng
của nó rất rộng, muốn có một khái niệm cụ thể thì hoạt động giám sát phải gắn với một
chủ thể xác định chẳng hạn như giám sát của Quốc hội, giám sát của HĐND, giám sát
của nhân dân.
Nhìn từ góc độ thực thi quyền lực nhà nước thì giám sát được hiểu là sự theo dõi,
kiểm tra đối với việc thực thi quyền lực nhà nước của các cá nhân, tổ chức có thẩm
quyền theo quy định của pháp luật.
Quyền lực của Nhà nước là thống nhất. Quyền lực này xuất phát từ sự “ủy
quyền” của cử tri cả nước. Mặt khác, nhằm bảo đảm tính chuyên trách và hiệu quả của
việc thực thi quyền lực nhà nước, một yêu cầu được đặt ra là phải có sự chun mơn
hóa trong việc thực thi các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Do đó, để đáp ứng
yêu cầu trên, nguyên tắc quyền lực không phân chia trong việc thực thi quyền lực nhà
nước ở Lào và Việt Nam được ứng dụng một cách uyển chuyển tuyệt vời thành
“Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp trong việc thực hiện
quyền lực nhà nước”. Trong q trình phân cơng thực thi quyền lực nhà nước, tất sẽ


9


nảy sinh những sai sót bởi các cá nhân, tổ chức thừa ủy quyền của Quốc hội. Nhằm
chấn chỉnh và ngăn ngừa những nguy cơ như vậy, cần thiết phải có cơ chế giám sát.
Theo định nghĩa của các nhà nghiên cứu pháp luật của Pháp thì: “sự giám sát của
Quốc hội là tổ hợp các biện pháp cho phép nghị viện đưa ra nhận định về hoạt động
của Chính phủ và hạ bệ nó trong trường hợp có sự bất đồng sâu sắc với chính sách đã
thực thi”6. Cịn theo định nghĩa của các nhà nghiên cứu pháp luật của Nga thì: “sự
giám sát của Quốc hội là tổ hợp các biện pháp khác nhau do cơ quan lập pháp (đại
diện) cao nhất của chính quyền nhà nước thực hiện để theo dõi thường xuyên và kiểm
tra hoạt động của hệ thống, cũng như trừ bỏ những phát hiện từ sự kiểm tra đó và
phịng ngừa những sai phạm có thể xảy ra”7.
Theo định nghĩa tại Khoản 1 Điều 2 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và
HĐND năm 2015 của Việt Nam thì: “Giám sát là việc chủ thể giám sát theo dõi, xem
xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc
tuân theo Hiến pháp và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xử
lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý”. Trong khi
đó, Luật về Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND cấp tỉnh (sửa đổi) năm 2016
cũng như các văn bản pháp luật khác của nước CHDCND Lào khơng có quy định về
khái niệm giám sát.
Về bản chất, hoạt động giám sát của Quốc hội là việc Quốc hội thu thập các
thông tin về hoạt động của các cơ quan nhà nước hữu quan và tiến hành xem xét, đánh
giá, thu thập thơng tin thu được để từ đó có các biện pháp xử lý sau giám sát. Để tiến
hành các hoạt động này, Quốc hội sử dụng những công cụ khác nhau để đạt những
mục tiêu khác nhau. Một số công cụ để giám sát về mặt nội dung, một số công cụ giám
sát về mặt pháp lý, một số khác thì áp dụng ở mặt kinh tế. Tùy theo mục tiêu, nội
dung, đối tượng cần giám sát mà Quốc hội lựa chọn cơng cụ giám sát thích hợp (có thể
là chất vấn, điều trần, luận tội, xét báo cáo hoạt động, lập đoàn giám sát...). Kết quả
của hoạt động giám sát thể hiện quyền lực tập trung của Quốc hội, thể hiện quyết định
tập thể của Quốc hội nhằm thay đổi, sửa đổi, hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của
các cơ quan hành pháp hoặc bãi nhiệm các chức vụ trong Chính phủ, bất tín nhiệm đối
với Chính phủ8.

Trên cơ sở khái niệm giám sát, căn cứ vào quy định của Hiến pháp, Luật Tổ chức
Quốc hội và Luật hoạt động giám sát của Quốc hội thì khái niệm giám sát của ĐBQH

6

Bộ ngoại giao pháp (1996), Quyền hành pháp, quyền lập pháp và quyền tư pháp ở Pháp, tr. 96.
M.M Utiasev và A.A.Kornilaeva (2002): “Các chức năng giám sát của Nghị viện cấp khu vực; phân tích có so
sánh”, Pháp luật và chính trị, Số 1, NXB Moscow, tr. 2.
8
Nguyễn Hữu Lộc (2010), Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội, hiệu quả hoạt động giám sát
của các cơ quan của Quốc hội, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr.18.
7


10

và Đoàn ĐBQH được hiểu như sau9: Giám sát của ĐBQH và Đoàn ĐBQH là việc
ĐBQH chất vấn và tự mình giám sát hoặc cùng với Đồn ĐBQH giám sát việc thi
hành pháp luật của địa phương, giám sát văn bản quy phạm pháp luật, giám sát việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân nhằm đảm bảo cho Hiến pháp, luật, nghị
quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của UBTVQH được thực hiện nghiêm
chỉnh, thống nhất bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của tổ chức, cá nhân.
Hoạt động giám sát của ĐBQH là hoạt động thực hiện một trong ba chức năng cơ
bản của Quốc hội, đó là chức năng giám sát tồn bộ hoạt động của nhà nước. ĐBQH
tự mình giám sát hoặc tham gia hoạt động giám sát cùng Đoàn ĐBQH, tham gia hoạt
động giám sát của UBTVQH, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội tại địa
phương khi có yêu cầu. Thực hiện hoạt động giám sát ĐBQH phải đảm bảo nguyên tắc
công khai, khách quan, đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật;
khơng làm cản trở hoạt động bình thường của cá nhân, tổ chức bị giám sát. ĐBQH
chịu trách nhiệm về quyết định, yêu cầu, kiến nghị, giám sát của mình và báo cáo cử

tri địa phương về việc thực hiện nhiệm vụ giám sát.
1.1.2. Phân biệt giám sát với hoạt động thanh tra, kiểm tra trong quản lý
nhà nước
Theo Hiến pháp (sửa đổi) năm 2015 của Lào và Hiến pháp năm 2013 của Việt
Nam, để bảo đảm thực hiện một cách có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của các cơ
quan nhà nước, bảo đảm pháp chế XHCN, có thể nêu ra một số hình thức giám sát,
kiểm tra của các cơ quan nhà nước như: Giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc
hội, ĐBQH, Đoàn ĐBQH; kiểm tra, thanh tra của Chính phủ, các cơ quan của Chính
phủ và cơ quan thanh tra Chính phủ; kiểm tra, kiểm sát của VKSND các cấp; kiểm tra
của TAND thông qua hoạt động giám đốc thẩm. Ngoài ra, cơ quan nhà nước, cán bộ,
cơng chức, viên chức nhà nước cịn chịu sự kiểm tra, giám sát của công dân, các tổ chức
xã hội và đoàn thể quần chúng đối với hoạt động của mình. Tuy nhiên, khác với các hoạt
động giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm sát trên, hoạt động kiểm tra, giám sát của nhân
dân và các đoàn thể xã hội khơng mang tính quyền lực nhà nước mà nhằm thể hiện và
bảo đảm tính chất dân chủ, cơng khai trong hoạt động của bộ máy nhà nước.
Về cơ bản, giám sát, thanh tra và kiểm tra, kiểm sát trong quản lý nhà nước đều
là những hoạt động kiểm soát việc tuân thủ Hiến pháp, pháp luật của các cơ quan nhà
nước có chức năng, nhiệm vụ quyền hạn nhất định. Từ đặc thù tổ chức bộ máy của nhà
nước Lào và Việt Nam, có thể cơ bản phân biệt các hình thức giám sát, thanh tra, kiểm
tra, kiểm sát trên các khía cạnh ở thẩm quyền, đối tượng, phạm vi, nội dung, phương
thức thực hiện và hậu quả pháp lý của nó. Cụ thể:
9

Bùi Mạnh Khoa (2014), Hoạt động giám sát của Đại biểu Quốc hội và Đoàn Đại biểu Quốc hội ở Việt Nam hiện nay
– Qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.13.


11

1.2.2.1. Phân biệt hoạt động giám sát của Quốc hội với thanh tra, kiểm tra của

cơ quan thanh tra
Thanh tra, kiểm tra của cơ quan thanh tra là một chức năng quan trọng của cơ
quan quản lý nhà nước, là phương thức bảo đảm pháp chế, tăng cường kỷ luật trong
quản lý nhà nước, thực hiện quyền dân chủ XHCN. Nhiệm vụ và quyền hạn của Thanh
tra nhà nước được quy định tại Điều 3 Luật Thanh tra nhà nước (sửa đổi) năm 2017,
cũng như Điều 2, Điều 3 của Luật Thanh tra sửa đổi 2010. Theo đó cơ quan thanh tra
nhà nước tiến hành thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ
quan, tổ chức, cá nhân thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan quản lý nhà nước cùng
cấp. Ban thanh tra nhân dân giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật, việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo, việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở của cơ quan, tổ chức, cá
nhân có trách nhiệm ở xã, phường, thị trấn, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh
nghiệp nhà nước. Hoạt động thanh tra nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi
vi phạm pháp luật; phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để
kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục; phát huy nhân
tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước; bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Từ khái niệm về hoạt động giám sát của Quốc hội, cũng như các quy định trên về
hoạt động thanh tra, kiểm tra, có thể rút ra một số kết luận sau:
- Về chủ thể: Theo quy định tại Hiến pháp 2015 và Điều 3 Luật Thanh tra nhà
nước (sửa đổi) năm 2017 của Lào, Hiến pháp năm 2013 và Điều 14 của Luật thanh tra
sửa đổi năm 2010 của Việt Nam, quyền thanh tra thuộc về cơ quan hành chính (tức
Thanh tra Chính phủ) hoặc trực thuộc cơ quan hành chính (Thanh tra bộ, Thanh tra cấp
tỉnh, Thanh tra sở, Thanh tra cấp huyện). Đây là hoạt động tự kiểm tra, giám sát của cơ
quan quản lý nhà nước đối với việc thi hành Hiến pháp, pháp luật trong q trình điều
hành của Chính phủ. Trong khi đó, chủ thể có quyền, trách nhiệm thực hiện hoạt động
giám sát của Quốc hội bao gồm: Quốc hội thực hiện hoạt động giám sát tối cao,
UBTVQH, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn ĐBQH và ĐBQH (đối
với Việt Nam) thực hiện hoạt động giám sát. Đây là các cơ quan, tổ chức, cá nhân
thuộc nhánh quyền lập pháp. Như vậy, chủ thể có quyền, trách nhiệm thanh tra, kiểm
tra là cơ quan hành chính nhà nước hoặc trực thuộc cơ quan hành chính.

- Về mặt đối tượng: Cả Luật Thanh tra nhà nước (sửa đổi) năm 2017 của Lào và
Luật Thanh tra năm 2010 của Việt Nam đều khơng có quy định về đối tượng của thanh
tra, kiểm tra nhưng từ quy định tại Mục I, Chương II của Luật Thanh tra năm 2010, có
thể hiểu đối tượng của cơng tác thanh tra, kiểm tra là: là cơ quan, tổ chức, cá nhân
thường là những cơ quan, tổ chức, cá nhân của khu vực hành chính. Trong khi đó, đối


12

tượng chịu sự giám sát của Quốc hội, cơ quan của Quốc hội thường rất rộng, bao gồm
cơ quan tổ, chức, cá nhân có quyền lập pháp; cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền hành
pháp; cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tư pháp.
- Về phương thức thực hiện và hậu quả pháp lý: Phương thức thực hiện được tiến
hành theo các quy định của Luật Thanh tra nhà nước (sửa đổi) năm 2017 của Lào và
Luật Thanh tra của Việt Nam, chủ yếu là thông qua việc thành lập các đồn thanh tra.
Kết quả của cơng tác thanh tra là xử lý các vi phạm pháp luật (chủ yếu là xử lý vi
phạm hành chính) trong hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước, nếu có dấu hiệu
vi phạm pháp luật hình sự thì chuyển cho cơ quan điều tra để xem xét, giải quyết theo
thẩm quyền mà khơng tự mình giải quyết. Trong khi đó, phương thức thực hiện hoạt
động giám sát của Quốc hội rất đa dạng từ xem xét báo cao, kiểm tra việc ban hành
văn bản quy phạm pháp luật, chất vấn, các đoàn đi giám sát ở địa phương, lấy phiếu
tín nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm, xem xét báo cáo của UBTVQH,… Hậu quả pháp lý
của hoạt động giám sát của Quốc hội rất đa dạng từ yêu cầu đối tượng chịu sự giám sát
phải thực hiện đúng các quy định của Hiến pháp, pháp luật; Bãi bỏ một phần hoặc toàn
bộ văn bản quy phạm pháp luật do đối tượng bị giám sát ban hành; miễn nhiệm, bãi
nhiệm những người do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn…
1.2.2.2. Phân biệt hoạt động giám sát của Quốc hội với hoạt động kiểm tra của
Tòa án nhân dân tối cao
Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) có thẩm quyền giám đốc việc xét xử của
Tòa án các cấp, bao gồm cả Tòa án quân sự. Điều này được quy định trong Hiến pháp,

Luật Tổ chức TAND của hai nước quy định. Bản chất của thủ tục giám đốc xét xử là
việc TANDTC kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp của hoạt động xét xử. Do vậy, có thể
phân biệt hoạt động kiểm tra trong thủ tục giám đốc xét xử của TANDTC với hoạt
động giám sát của Quốc hội như sau:
- Về mặt chủ thể: Theo quy định tại Hiến pháp năm 2013 và Điều 2 Luật tổ chức
TAND thì TANDTC là cơ quan xét xử cao nhất của Nhà nước CHXHCN Việt Nam,
TANDTC có thẩm quyền giám đốc việc xét xử của các TAND địa phương và Toà án
quân sự các cấp. Như vậy, TANDTC là chủ thể của hoạt động xem xét, kiểm tra tính
hợp hiến, hợp pháp trong hoạt động xét xử của ngành Toà án.
- Về đối tượng chịu sự giám đốc: Căn cứ vào Hiến pháp năm 2013, đối tượng
chịu sự giám đốc của TANDTC là hoạt động xét xử của TAND các cấp, các Toà án
quân sự. Đối tượng chịu sự giám sát của của Quốc hội bao gồm các cơ quan lập pháp,
cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp.
- Về phương thức thực hiện: TANDTC thực hiện việc kiểm tra hoạt động xét xử
trong thủ tục giám đốc hoạt động xét xử được quy định trong pháp luật về tố tụng (thủ


13

tục tố tụng). Trong khi đó, phương thức thực hiện hoạt động giám sát của Quốc hội
được thực hiện theo pháp luật về hoạt động giám sát của Quốc hội.
- Về hậu quả pháp lý: Khi phát hiện có sai phạm pháp luật trong hoạt động xét
xử, TANDTC có quyền sửa đổi hoặc huỷ bỏ bản án của TAND cấp dưới, Tòa án quân
sự các cấp (ra các quyết định kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm).
Trong khi đó hậu quả pháp lý của hoạt động giám sát của Quốc hội đa dạng hơn nhiều
như đã phân tích ở trên.
1.2.2.3. Phân biệt hoạt động giám sát của Quốc hội với hoạt động kiểm sát của
Viện kiểm sát nhân dân các cấp
Hiến pháp và Luật Tổ chức VKSND của hai nước đều ghi nhận VKSND các cấp
có thẩm quyền kiểm sát các hoạt động tư pháp, nhằm bảo đảm cho pháp luật được thực

hiện nghiêm chỉnh và thống nhất. Do đó, có thể phân biệt hoạt động giám sát của Quốc
hội với hoạt động kiểm sát của VKSND các cấp như sau:
- Về mặt chủ thể: Theo quy định tại Hiến pháp năm 2013, Điều 2 của Luật tổ
chức VKSND, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC) có thẩm quyền kiểm sát
các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh
và thống nhất. Quyền giám sát của Quốc hội thuộc về Quốc hội với quyền giám sát tối
cao và các cơ quan của Quốc hội có quyền giám sát.
- Về đối tượng chịu sự giám sát: Đối tượng chịu sự giám sát của VKSNDTC là
hoạt động của các cơ quan tư pháp bao gồm các cơ quan: Điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án và các cơ quan thực hiện các hoạt động bổ trợ tư pháp theo pháp luật tố tụng.
Đây là mối quan hệ về trình tự tố tụng trong hoạt động giữa các cơ quan tư pháp.
Trong khi đó đối tượng của hoạt động giám của Quốc hội rất rộng bao gồm cơ quan, tổ
chức cá nhân chịu sự giám sát trọng việc tuân theo Hiến pháp, luật, nghị quyết của
Quốc hội.
- Về phương thức thực hiện: Viện kiểm sát nhân tối cao khi tiến hành hoạt động
kiểm sát hoạt động của các cơ quan tư pháp phải tuân thủ các quy định của Luật tổ
chức VKSND và các quy định của pháp luật tố tụng có liên quan. Trong khi đó,
phương thức thực hiện hoạt động giám sát của Quốc hội rất đa dạng và phong phú như
đã phân tích ở trên.
- Về hậu quả pháp lý: Khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật trong hoạt
động của các đối tượng nêu trên, VKSNDTC có quyền ra kháng nghị đối với cơ quan,
tổ chức, cá nhân có vi phạm hoặc khởi tố về hình sự (nếu có dấu hiệu tội phạm). Trong
khi đó, hậu quả pháp lý của hoạt động giám sát của Quốc hội rất đa dạng như đã phân
tích ở trên.


14

Như vậy, các hoạt động giám sát, kiểm sát, kiểm tra, thanh tra đều là những hoạt
động kiểm sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật của các cơ quan nhà nước. Sự khác

nhau của hoạt động giám sát, kiểm tra giữa các cơ quan chính là ở thẩm quyền, đối
tượng, phạm vi, nội dung, phương thức thực hiện và hậu quả pháp lý của nó. Để hiểu
đúng chức năng giám sát của Quốc hội cần phải thống nhất về mặt quan điểm là hoạt
động giám sát khác với các hoạt kiểm tra, kiểm tra...
1.2. Vị trí, vai trị của Đại biểu Quốc hội và Đoàn Đại biểu Quốc hội trong
hoạt động giám sát
1.2.1. Vị trí, vai trị của Đại biểu Quốc hội
Quốc hội nước CHDCND Lào và Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam ra đời
trong cuộc cách mạng giành độc lập dân tộc. Ngay từ ngày đầu tiên của Quốc hội Việt
Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Các đại biểu trong Quốc hội này không
phải đại diện cho đảng phái nào mà là đại biểu của tồn thể quốc dân Việt Nam. Đó là
một sự đồn kết tỏ ra rằng lực lượng của toàn dân Việt Nam đã kết thành một khối10;
Quốc hội là tiêu biểu ý chí thống nhất của dân tộc ta, một ý chí sắt đá khơng gì lay
chuyển nổi11. Quan điểm này mang tính nguyên tắc, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt q trình
tổ chức và hoạt động khơng chỉ của Quốc Hội Việt Nam mà còn của Quốc hội Lào.
Trên cơ sở các yếu tố đó, khái niệm ĐBQH được pháp luật quy định cụ thể tại
Điều 43 Luật Tổ chức Quốc Hội Lào sửa đổi năm 2006: “ĐBQH là đại diện cho ý chí
và nguyện vọng của nhân dân, khơng chỉ đại diện cho nhân dân ở đơn vị bầu cử ra
mình mà cịn đại diện cho nhân dân cả nước; là người thay mặt cho nhân dân thực
hiện quyền lực nhà nước của Quốc hội”, Điều 21 Luật Tổ chức Quốc hội 2014:
“ĐBQH là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân ở đơn vị bầu cử ra
mình và của Nhân dân cả nước; là người thay mặt Nhân dân thực hiện quyền lực nhà
nước trong Quốc hội”. Như vậy, ĐBQH là người được nhân dân bầu ra theo ngun
tắc phổ thơng, bình đẳng trực tiếp, bỏ phiếu kín. Khác với Nghị sĩ Quốc hội của các
nước tư sản, các ĐBQH của Lào và Việt Nam phải gắn liền với cử tri và đơn vị bầu cử
đã bầu ra họ. Qua bầu cử nhân dân ủy nhiệm quyền lực của mình, để ĐBQH thay mặt
nhân dân quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Là thành viên của cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất, ĐBQH có những thẩm quyền đặc biệt mà các cá nhân
khác trong bộ máy nhà nước khơng có. Đó là quyền gắn với quyền lực của Quốc hội.
ĐBQH là những công dân ưu tú ở các lĩnh vực hoạt động của nhà nước và xã hội

được nhân dân cả nước tín nhiệm bầu ra. Đó là những đại biểu chính thức của nhân

10
11

Hồ Chí Minh (1995) Tồn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.4, 189.
Hồ Chí Minh (1995) Tồn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.7, 497.


15

dân. Các ĐBQH theo tinh thần của Lênin là những người: “Tự mình cơng tác, tự mình
áp dụng những pháp luật ấy, tự mình chịu trách nhiệm trước cử tri của mình”12.
ĐBQH có địa vị pháp lý đặc biệt được quy định trong Hiến pháp (sửa đổi) năm
2015 của Lào, Luật Tổ chức Quốc hội Lào năm 2006, Hiến pháp năm 2013 của Việt
Nam, Luật Tổ chức Quốc hội Việt Nam năm 2014, Quy chế hoạt động của ĐBQH,
bao gồm các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và hình thức hoạt động của ĐBQH.
Người đó là người đại diện của nhân dân đồng thời là đại biểu cấu thành cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất. ĐBQH là cầu nối quan trọng giữa chính quyền nhà nước
với nhân dân. ĐBQH vừa chịu trách nhiệm trước cử tri vừa chịu trách nhiệm trước cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất. ĐBQH là người đại diện cho ý chí và nguyện vọng
của quần chúng nhân dân, không chỉ đại diện cho dân ở đơn vị bầu cử ra mình mà cịn
đại diện cho nhân dân cả nước; là người thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà
nước trong xã hội. Vì vậy, trong khi làm nhiệm vụ, ĐBQH phải xuất phát từ lợi ích
chung của cả nước đồng thời cũng quan tâm thích đáng đến lợi ích của địa phương đã
bầu ra mình, phải căn cứ vào pháp luật của nhà nước và những quy định của Chính
quyền địa phương.
Địa vị pháp lý của ĐBQH có mối quan hệ logic và biện chứng chặt chẽ với
quyền lực nhà nước, quyền lực Quốc hội. Do có vị trí đặc biệt đó, ĐBQH có vai trị rất
quan trọng trong xã hội.

Vị trí pháp lý của ĐBQH được bắt đầu sau khi Quốc hội xác nhận tư cách ĐBQH
ở phiên họp đầu tiên của phiên họp thứ nhất mỗi khóa Quốc hội. Nhiệm kỳ ĐBQH
được tính từ kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa đó đến kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa
sau. Theo đó, ĐBQH mang đặc điểm:
- ĐBQH là người đại diện của nhân dân. Họ có trách nhiệm phải thường xuyên
gần gũi với cử tri để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng và những yêu cầu của cử tri đối với
nhà nước.
- Là người thay mặt nhân dân thực hiện thẩm quyền Quốc hội, ĐBQH là thành
viên của Bộ máy Nhà nước.
Trên cơ sở quy định về địa vị pháp lý, ĐBQH thực hiện giám sát thơng qua các
hình thức sau:
- Hoạt động chất vấn của ĐBQH: Hoạt động chất vấn của ĐBQH có vai trị vơ
cùng quan trọng trong việc phát huy tính dân chủ của Quốc hội, hoạt động chất vấn
còn là cầu nối quan trọng giữa Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan nhà nước với nhân
dân, thể hiện bằng các ý kiến của cử tri cả nước.

12

Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình luật Hiến pháp Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.


16

- Hoạt động giám sát văn bản quy phạm pháp luật: Pháp luật là yếu tố của kiến
trúc thượng tầng, có ý nghĩa lớn đối với vai trị quản lý nhà nước. Ở nước CHDCND
Lào và nước CHXHCN Việt Nam, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp.
Các văn bản của Chính phủ và cơ quan khác trong bộ máy nhà nước không được trái
với văn bản luật. Chức năng giám sát của Quốc hội thông qua hoạt động giám sát của
ĐBQH. Qua hoạt động giám sát, ĐBQH thể hiện vai trị của mình trong việc phát hiện
và loại bỏ các văn bản quy phạm không đúng pháp luật nhằm đảm bảo pháp luật được

đồng bộ, thống nhất và tồn diện. Do đó Luật Hoạt động giám sát của Quốc Hội cả hai
nước đã quy định về ĐBQH giám sát văn bản quy phạm pháp luật:
- Hoạt động giám sát thi hành pháp luật ở địa phương: Trong công cuộc đổi mới
tại Lào và Việt Nam hiện nay, vấn đề tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước bằng
pháp luật là một trong những yêu cầu cấp bách. Do đó đi đơi với việc hồn thiện hệ
thơng pháp luật, nhà nước Lào và Việt Nam luôn chú trọng đưa pháp luật vào đời
sống. Với tính chất là cơ quan đại diện cao nhất, cơ quan quyền lực cao nhất, Quốc hội
thực hiện chức năng giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước
trong đó có hoạt động giám sát việc thực hiện pháp luật. Để thực hiện quyền giám sát
tối cao của mình, Quốc hội thơng qua ĐBQH nhằm phát hiện xử lý các hành vi vi
phạm pháp luật trong thực hiện pháp luật. Đây cũng là một trong những hoạt động
giám sát chủ yếu của ĐBQH khi thực hiện nhiệm vụ của mình tại địa phương được ghi
nhận tại Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2004 của Lào và Luật hoạt động
giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015 của Việt Nam.
- Hoạt động giám sát đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân:
ĐBQH do nhân dân trực tiếp bầu ra, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân
nên khi quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân bị xâm hại thì ĐBQH có trách nhiệm
u cầu các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền xem xét giải quyết, giám sát việc giải
quyết của người có thẩm quyền. Với tính chất là người đại diện của nhân dân, ĐBQH
là cầu nối giữa nhân dân với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hoạt động hiệu quả
của ĐBQH đóng vai trị to lớn trong việc tạo ra cơ chế giám sát từ phía cơ quan quyền
lực nhà nước đối với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo.
1.2.2. Vị trí, vai trị của Đoàn Đại biểu Quốc hội
Các ĐBQH được bầu trong một tỉnh hoặc thành phố trực thuộc trung ương hợp
thành Đồn ĐBQH. Đồn ĐBQH có đại biểu hoạt động chun trách. Có thể nói vị trí,
vai trị của Đồn ĐBQH có ý nghĩa vơ cùng quan trọng, trên cơ sở các quy định của
pháp luật tác giả xin đưa ra một số nội dung chính như sau:
Thứ nhất, tổ chức hoạt động cho ĐBQH: Tổ chức hoạt động cho ĐBQH trong và
ngoài kỳ họp là nhiệm vụ quan trọng của Đồn ĐBQH, bởi ĐBQH hầu hết là khơng



17

chuyên trách, công tác và sinh sống tại địa phương nên trong kỳ họp, Đoàn ĐBQH là
cầu nối để ĐBQH liên hệ với đoàn Chủ tịch kỳ họp và nơi tổ chức thảo luận về những
vấn đề liên quan đến nội dung của kỳ họp. Thực tiễn cho thấy hình thức thảo luận của
ĐBQH tại tổ là quan trọng nhất và không thể thay thế được, là bước chuẩn bị hết sức
cần thiết cho ĐBQH thảo luận và biểu quyết những vấn đề tại phiên họp toàn thể, việc
ĐBQH thảo luận tại tổ là một trong những yêu cầu bắt buộc đối với ĐBQH. Việc bảo
đảm cho ĐBQH hoạt động hiệu quả trong kỳ họp thuộc trách nhiệm của nhiều cơ quan
nhà nước có thẩm quyền, nhưng việc tổ chức cho ĐBQH trao đổi, thảo luận trước khi
đi đến quyết định những vấn đề thuộc nhiệm vụ quyền hạn của Quốc hội là nhiệm vụ
mà không một cơ quan, tổ chức nào có thể thay thế được đó là Đồn ĐBQH, Đoàn
ĐBQH tổ chức cho đại biểu hoạt động nhưng không làm thay và làm hạn chế quyền
của đại biểu. Ngồi kỳ họp đại biểu thơng qua Đồn để giữ mối liên hệ với Chủ tịch
Quốc hội, UBTVQH và liên hệ qua lại với cử tri.
Tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của Đoàn, bao gồm: Tham gia công
tác xây dựng pháp luật, pháp lệnh; tiếp dân theo dõi, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo của công dân; tổ chức tiếp xúc cử tri trước và sau kỳ họp, tham gia công tác
giám sát.
Thứ hai, qua xem xét thực tiễn tại địa phương, Đoàn ĐBQH nhận thấy những
vấn đề bức xúc cần phải được tháo gỡ kịp thời hay chấn chỉnh, khắc phục ngay những
hạn chế, yếu kém thì Đồn tự thành lập đồn giám sát để tổ chức cho các ĐBQH tiến
hành giám sát nhằm giải quyết những khó khăn, bất cập trong việc thực hiện nhiệm vụ
được giao của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền.
Thứ ba, phối hợp với các cơ quan của Quốc hội như Hội đồng dân tộc và các Ủy
ban của Quốc hội để triển khai hoạt động giám sát tại địa phương trên cơ sở Chương
trình giám sát giám sát của Quốc hội, UBTVQH nhằm cùng với Quốc hội thực hiện tốt
các yêu cầu đặt ra.
Hoạt động của Đoàn ĐBQH diễn ra trên rất nhiều lĩnh vực khác nhau, tuy nhiên

việc Đoàn ĐBQH tổ chức cho ĐBQH giám sát tại địa phương có ý nghĩa vơ cùng quan
trọng. Thực tiễn cho thấy, để một cuộc giám sát đạt hiệu quả đòi hỏi phải đảm bảo rất
nhiều yếu tố, như Đoàn ĐBQH phải lựa chọn những ĐBQH có chun mơn sâu trong
lĩnh vực giám sát, sắp xếp, bố trí thời gian hợp lý cho các ĐBQH hay chỉ đạo Văn
phịng cử cán bộ có chun mơn, tiếp cận công việc tốt và chuẩn bị phương tiện các
trang thiết bị phục vụ cho hoạt động giám sát... thì cuộc giám sát mới đạt kết quả, vì
vậy Đồn ĐBQH có vai trị vơ cùng quan trọng đối với hoạt động giám sát của ĐBQH
nói riêng và đối với hoạt động giám sát của Quốc hội nói chung.


18

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động giám sát của Đại biểu Quốc hội và
Đoàn Đại biểu Quốc hội
1.3.1. Cơ cấu và chất lượng của Đại biểu Quốc hội
Trên nguyên tắc, việc bầu cử ĐBQH luôn cân nhắc đến yếu tố cơ cấu. Theo đó,
trong các cuộc bầu cử phải bảo đảm tỉ lệ các đại biểu kiêm nhiệm và đại biểu chuyên
trách. Đại biểu chuyên trách hiểu một cách đơn giản là các đại biểu chỉ thực hiện nhiệm
vụ ĐBQH mà không kiêm nhiệm các chức danh quản lý nhà nước khác. Như vậy, cơ
cấu đại biểu hiểu một cách đơn giản nhất chính là tỉ trọng của đại biểu chuyên trách
trong tương quan với các đại biểu kiêm nhiệm trong Quốc hội hoặc trong Đồn ĐBQH.
Nhìn từ góc độ quỹ thời gian để thực hiện cơng việc, đại biểu chuyên trách có
nhiều thời gian để thực hiện nhiệm vụ hơn so với các đại biểu kiêm nhiệm. Như vậy rõ
ràng là cơ cấu đại biểu chuyên trách và kiêm nhiệm trong một Đoàn đại biểu sẽ có ảnh
hướng lớn đến chất lượng thực hiện các chức năng của Đồn ĐBQH nói chung và
chức năng giám sát nói riêng.
Mặt khác, như trên đã trình bày hoạt động giám sát cho dù được tiến hành thông
qua hoạt động trực tiếp của Đại biểu hay Đồn ĐBQH thì về bản chất đều có sự tham
gia của ĐBQH. Sự am tường các kiến thức, kĩ năng của đại biểu trong lĩnh vực đang
tiến hành giám sát sẽ là nhân tố quyết định chất lượng của việc giám sát. Nói cách

khác, chất lượng đại biểu được coi là nhân tố then chốt trong việc thực hiện chức năng
giám sát.
1.3.2. Các điều kiện hỗ trợ cho hoạt động giám sát
Hoạt động giám sát của Đại biểu và Đoàn ĐBQH trải dài trên tất cả các lĩnh vực
của hoạt động quản lý nhà nước. Nhằm bảo đảm nguyên tắc quyền lực nhà nước là
thống nhất, nhưng có sự phân cơng và phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện
nhà nước, Quốc hội, cơ quan đại diện cho quyền lực tối cao phải có quyền giám sát
hoạt động “thừa ủy quyền” của các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước.
Với phạm vi giám sát rộng lớn, để bảo đảm cho hoạt động này có hiệu quả cần
phải có sự hỗ trợ của các phương tiện kĩ thuật và cả những chuyên gia trong các lĩnh
vực giám sát.
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật cùng với sự chun
mơn hóa cao, trong các lĩnh vực mang tính đặc thù về kĩ thuật, muốn giám sát được các
hoạt động này, tìm ra những điểm phù hợp hay bất cập, một yêu cầu mang tính tiên
quyết là đại biểu phải có cái nhìn tổng quan và một sự am hiểu nhất định về lĩnh vực mà
mình đang tiến hành hoạt động giám sát. Chính điều này đã đặt ra một thách thực lớn
cho ĐBQH. Vì về nguyên tắc, các đại biểu cho dù luôn cố gắng trong việc học hỏi các


19

kiến thức mới, thì với phạm vi giám sát rộng như trên đã phân tích, thì việc đáp ứng
được u cầu về mặt kiến thức là rất khó khăn, nếu khơng nói là khơng thể.
Do đó, biện pháp hữu hiệu để giải quyết vấn đề chính là tham vấn chuyên gia
hoặc tiếp nhận sự hỗ trợ của chuyên gia trong các lĩnh vực ngành nghề đang tiến hành
hoạt động giám sát. Kết lại, sự hỗ trợ của các phương tiện kĩ thuật cùng với sự tham
gia của các chuyên gia là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt
động giám sát.
1.3.3. Sự phối hợp của các cơ quan, đơn vị bị giám sát
Như trên đã phân tích, trong thời gian qua vẫn tồn tại một nhận thức sai lầm ở

một vài cơ quan đơn vị bị giám sát khi cho rằng các cơ quan giám sát (như ĐBQH và
Đồn ĐBQH) là những cơ quan mang tính “thù nghịch” và đối kháng. Cũng vì lẽ đó
mà trong quá trình đại biểu thực hiện hoạt động giám sát đã bị ảnh hưởng khơng ít khi
mà các cơ quan, đơn vị bị giám sát ln tìm cách che giấu hoặc có các hành vi mang
tính bất hợp tác.
Việc che giấu, không hợp tác của cơ quan, đơn vị bị giám sát rõ ràng là một nhân
tố ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động giám sát và cả chất lượng giám sát của đại
biểu. Hiện tượng này đang đi ngược lại nguyên tắc phân công và phối hợp giữa các cơ
quan trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước.
Bằng việc che giấu, giả mạo, làm sai các tài liệu, hồ sơ hoặc thực hiện các hành
vi mang tính cản trở khác, đại biểu phải mất nhiều thời gian, công sức hơn trong việc
thực hiện chức năng giám sát. Cần phải nhận thức rõ, bản chất của việc thực hiện chức
năng giám sát không phải là để nhằm quy kết, truy cứu trách nhiệm của các cơ quan,
đơn vị bị giám sát mà mục đích cao cả và lớn nhất của chức năng giám sát chính là
ngăn ngừa và kịp thời phát hiện sớm các sai phạm (nếu có) để có những biện pháp
ngăn ngừa, khắc phục các hậu quả thích hợp.
1.3.4. Sự phối hợp liên ngành của các các cơ quan hữu quan
Quá trình thực hiện chức năng giám sát, đơi khi có những lĩnh vực giao thoa
nhiều lĩnh vực khác nhau. Do vậy, việc tham gia, phối hợp giữa các cơ quan, ban
ngành giúp cho việc giám sát được tiến hành một cách dễ dàng, thuận lợi, bởi ĐBQH
và Đồn ĐBQH khơng thể hiểu hết các lĩnh vực được giám sát, vì vậy việc phối hợp
giữa các cơ quan chuyên môn sẽ cung cấp thông tin hay phát hiện những vấn đề bất
cập trong quá trình thực hiện chức năng giám sát, qua đó giúp cho ĐBQH và Đoàn
ĐBQH nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của ĐBQH và Đoàn ĐBQH.


20

1.4. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ
quan của Quốc hội

Việc xác định các tiêu chí để đánh giá hiệu quả của hoạt động giám sát của Quốc
hội, các cơ quan của Quốc hội cần được xem xét dưới những góc độ thích hợp. Trong
đó, dựa vào việc nghiên cứu các quy định của pháp luật và hoạt động thực tiễn của
Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, có thể đưa ra một số tiêu chí sau:
Thứ nhất, theo chức năng, thẩm quyền: hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc
hội, các cơ quan của Quốc hội được xác định dựa trên việc thực hiện chức năng, thẩm
quyền theo luật định. Theo quy định của Hiến pháp, Quốc hội là cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất, Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt
động của nhà nước. Do đó, việc đánh giá hiệu quả hoạt động giám sát cần đánh giá ở 2
phương diện: Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất (thực hiện các quyền
lực lập pháp, giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước) và Quốc hội có
quyền giám sát tối cao (đánh giá hoạt động của các chủ thể thuộc phạm vi giám sát,
phương thức, hậu quả giám sát tối cao).
Thứ hai, theo đối tượng chịu sự giám sát: hiệu quả hoạt động của Quốc hội, các
cơ quan của Quốc hội được đánh giá dựa trên hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ
quan của Quốc hội trong việc theo dõi, đánh giá hoạt động của các đối tượng chịu sự
giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị
quyết của UBTVQH.
Thứ ba, theo góc độ hoạt động: hiệu quả giám sát của hoạt động này được đánh
giá thông qua những hoạt động cụ thể như: xem xét các báo cáo công tác, xem xét văn
bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến pháp, pháp luật; chất vấn; điều
trần.... Các đánh giá từ góc độ này cho phép đánh giá hiệu quả của từng phương thức
giám sát một cách cụ thể.
Việc đánh giá hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc
hội trong thời gian qua ngày càng được đẩy mạnh và được coi như tiêu chí để xác định
thực quyền của Quốc hội. Tuy nhiên, việc đánh giá một cách đầy đủ và chính xác hiệu
quả hoạt động giám sát này là một việc khó vì đây là hoạt động chính trị ở tầm vĩ mơ,
khó định lượng. Tuy nhiên, từ thực tiễn hoạt động của Quốc hội, có thể khái qt một số
tiêu chí để đánh giá hiệu quả giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội như sau:
- Việc đạt được các yêu cầu đề ra: Mục đích của hoạt động giám sát là việc mà

các chủ thể khi tiến hành giám sát hướng tới và mong muốn đạt được. Sau giám sát,
việc so sánh đối chiếu kết quả đạt được sau khi tiến hành giám sát và mục đích đặt ra
trước khi tiến hành giám sát sẽ cho thấy hiệu quả của việc thực hiện quyền giám sát
của Quốc hội.


×