Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VỐN TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.02 KB, 30 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VỐN TRONG HOẠT
ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP.
1. Khái niệm và phân loại vốn.
Vốn trong hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường hiện nay
không chỉ bao gồm giá trị của tiền nói chung mà vốn ở đây còn bao gồm cả vật
chất như nhà xưởng, máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu… Nếu hiểu theo
nghĩa rộng hơn thì vốn ở đay còn có thể bao gồm cả vốn con người theo đó thì
vai trò của con người ngày càng trở lên quan trọng đặc biệt là khi chúng ta sắp
bước vào nền kinh tế tri thức một nền kinh tế phát triển thì theo đó chất xám con
người là một nguồn vốn vô cùng quan trọng và quý giá nhiều khi vốn bằng tiền
tệ cũng chưa sánh được so với nguồn vốn con người, vốn tri thức.
Nhưng trong đề tài này thì chỉ đi vào tìm hiểu phân tích về vồn theo nghĩa
hẹp là vốn tiền tệ và vật chất. Vì vậy hiểu theo nghĩa hẹp một cách đơn giản nhất
thì vốn là toàn bộ giá trị của tiền và vật chất được ứng ra ban đầu và quá trình
tiếp theo để phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Nhưng như trên đã nói thì ở đây vốn cũng có rất nhiều loại bao gồm vốn vật
chất và vốn tri thức. Hay như bên trong doanh nghiệp thì vốn cũng có bao gồm
hai loại vốn chính là vốn chủ sở hữu và vốn đi vay. Hoặc cũng có thể phân thành
vốn cố định và vốn lưu động.
Theo cách phân loại về nguồn hình thành thì bao gồm.
Vốn chủ sở hữu là lượng vốn mà chủ doanh nghiệp bỏ ra trong quá trình
hình thành doanh nghiệp và được tích luỹ dần trong quá trình hoạt động sản xuất
kinh doanh mà thuộc quyền sở hữu và sử dụng của doanh nghiệp. Vốn chủ sở
hữu này được dùng để phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Bản thân bên trong vốn chủ sở hữu cũng bao gồm nhiều loại như khấu
hao, lợi nhuận để lại, quỹ dự phòng…
Theo đó thì lợi nhuận để lại là phần còn lại của kết quả quá trình hoạt động
sản xuất kinh doanh sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh sau khi đã trừ đi chi phí
và các khoản khác như phần nộp thuế thu nhập doanh nghiệp hay là phần lợi
nhuận dùng để chia cổ tức cho các cổ đông. Phần lợi nhuận để lại này được
doanh nghiệp giữ lại dùng để tiếp tục đầu tư vào quá trính sản xuất kinh doanh


trong chu kỳ tiếp theo của quá trình sản xuất, nhằm làm tăng lượng vốn chủ sở
hữu của doanh nghiệp. Đây cũng là một phần vốn rất quan trọng của doanh
nghiệp.
Khấu hao là phần giá trị của tài sản cố định mà doanh nghiệp đã đầu tư trong
quá trình sản xuất nó là nhà xưởng máy móc, thiết bị, công cụ dụng cụ… phần
khấu hao này chính là lượng vốn mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong quá trình sản
xuất.
Còn quỹ dự phòng đây cũng chính là một phần của khoản lợi nhuận để lại
của doanh nghiệp nhưng phần vốn này không được dùng để đầu tư trực tiếp vào
quá trình sản xuất mà thay vào đó nó được dùng trong những trường hợp đặc
biệt như khi có sự sụt giá hay việc kinh doanh bị thua lỗ thì phần quỹ dự phòng
này được dùng để bù đắp những thiệt hại do thua lỗ hay do trượt giá gây ra.
Vốn đi vay là lượng vốn mà doanh nghiệp đi vay từ bên ngoài để phục vụ
cho quá trình sản xuất kinh doanh. Vì không một doanh nghiệp nào có thể hoạt
động với 100% lượng vốn tự có của mình được mà bao giờ họ cũng có những
khoản vốn đi vay để phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh. Vốn đi vay này bao
gồm rất nhiều nguồn khác nhau như vốn vay tín dụng ngân hàng là lượng vốn
mà doanh nghiệp đi vay từ các tổ chức tài chính tín dụng trong và ngoài nước và
phải chịu lãi suất đi vay. Hay vốn vay tín dụng thương mại là lượng vốn mà
doanh nghiệp vay của các đối tác kinh doanh như là mua nguyên vật liệu chịu
mà chưa thanh toán ngay cho bên đối tác mà hẹn thanh toán sau có thể là sau
mỗi chu kỳ kinh doanh hay sau khi bán được hàng… Hay là vốn vay từ phát
hành cổ phiếu đây cũng là một hình thức đi vay khác của doanh nghiệp nhưng
đây là vay một cách gián tiếp bằng cách phát hành cổ phiếu vì vậy ở đây doanh
nghiệp không chỉ vay của các tổ chức tín dụng tài chính mà còn vay của các đối
tác, quần chúng nhân dân các nhà đầu tư chứng khoán. Vì khi phát hành cổ
phiếu ra thị trường chứng khoán thì cổ phiếu đó sẽ không chỉ được nhân dân
mua, những nhà đầu tư chứng khoán mua mà nó còn có thể được các tổ chức tài
chính hay là các đối tác mua. Vốn có được từ việc phát hành trái phiếu theo đó
thì lượng vốn mà doanh nghiệp có được là thông qua việc phát hành trái phiếu

vay nợ ra thị trường vốn để thu hút vốn từ các tầng lớp dân cư. Hay là vốn có
được từ liên doanh, liên kết theo đó thì doanh nghiệp sẽ có vốn khi tiến hành
liên doanh liên kết với bên ngoài. Với hình thức liên doanh liên kết này thì vừa
có vốn để hoạt động lại vừa có thể tham gia được vào thị trường mới hay là giảm
thiểu rủi ro của doanh nghiệp khi thất bại sẽ không phải chịu tất cả thua lỗ mà có
doanh nghiệp khác cùng chia sẻ.
Phân loại theo tính chất hoạt động thì có vốn cố định và vốn lưu động.
Vốn cố định là lượng vốn ứng ra ban đầu để đầu tư vào tài sản cố định như
nhà xưởng, máy móc… nhằm phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Vốn cố định có đặc điểm là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất,
được khấu hao vào từng sản phẩm trong quá trình sản xuất.
Vốn lưu động là số tiền ứng trước để đầu tư vào tài sản lưu động, tài sản lưu
thông nhằm đảm bảo quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp diễn ra bình
thường.
2. Sự cần thiết phải huy động vốn cho các hoạt động của doanh nghiệp.
Có thể nói vốn đối với từng doanh nghiệp là rất quan trọng nó quyết định đến
sự hoạt động suôn sẻ của doanh nghiệp.Mặc dù để có thể để doanh nghiệp hoạt
động một cách suôn sẻ thì cần phải có nhiều yếu tố cùng tham gia vào trong đó
vốn là quan trọng, nó được coi như là máu đối với mỗi doanh nghiệp, vì chỉ khi
có vốn doanh nghiệp mới có thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh được.
Có vốn doanh nghiệp mới có thể thực hiện các hợp đồng, ký kết các hợp đồng
kinh doanh liên kết, có vốn thì doanh nghiệp mới có thể mua sắm trang thiết bị,
thay thế các trang thiết bị cũ, đổi mới công nghệ sản xuất, trả lương cho công
nhân… Theo đó thì vốn có vai trò quan trọng đối với các hoạt động sau.
2.1. Đối với hoạt động đầu tư của doanh nghiệp.
Hoạt động đầu tư là hoạt động rất quan trọng thông qua hoạt động đầu tư mà
doanh nghiệp có thể tăng trưởng và phát triển. Đầu tư ở đây có thể là đầu tư vào
một dự án kinh doanh mới hay là đầu tư vào mua sắm trang thiết bị mới, xây
dựng nhà xưởng… Nhưng để có thể tiến hành hoạt động đầu tư thì doanh nghiệp
cần phải có vốn. Vốn như là dòng máu mang dinh dưỡng đến nuôi cơ thể vậy.

Hoạt động đầu tư của doanh nghiệp như là hoạt động nhằm làm tăng tiềm lực
cho doanh nghiệp, làm tăng quy mô của doanh nghiệp nhờ có hoạt động đầu tư
mà doanh nghiệp có thể lớn mạnh, có thể tham gia được vào nhiều các lĩnh vực
kinh doanh khác nhau… Nhưng quyết định đầu tư còn phụ thuộc vào vốn mà
doanh nghiệp có. Theo đó thì vốn có những vai trò sau.
Quy mô của vốn mà doanh nghiệp có và có thể huy động sẽ quyết định đến
khả năng đầu tư vào dự án kinh doanh của công ty, quyết định đến quy mô của
dự án kinh doanh hay phạm vi của dự án. Vì khi công ty muốn quyết định đầu tư
vào một hoạt động mới hay một dự án kinh doanh mới thì yêu cầu đầu tiên mà
doanh nghiệp cần cân nhắc là lượng vốn cần phải có để đầu tư vào dự án, quy
mô của vốn sẽ quyết định đến quy mô của dự án vì ta không thể đầu tư vào một
dự án lớn khi mà ta không có đủ vốn cần thiết, nếu như ta cố tình đầu tư thì
trong quá trình hoạt động sẽ liên tục xảy ra tình trạng thiếu vốn từ đó sẽ dẫn đến
tình trạng dự án sẽ không thể hoạt động suôn sẻ, ảnh hưởng đến tính khả thi của
dự án thậm chí nó còn gây thiệt hại tới doanh nghiệp. Vì vậy khi quyết định đầu
tư thì công ty bao giờ cũng cân nhắc tới yếu tố vốn. Thêm vào đó quy mô vốn
cũng ảnh hưởng tới phạm vi của dự án. Vốn càng lớn thì dự án đầu tư sẽ có
phạm vi càng rộng và ngược lại nếu mà quy mô vốn nhỏ thì phạm vi hoạt động
của dự án sẽ thu hẹp từ đó mà ảnh hưởng tới sự thành công của dự án đầu tư. Vì
khi mà dự án có quy mô lớn nó sẽ đem đến nhiều cơ hội cho doanh nghiệp có
thể thu được doanh thu và lợi nhuận lớn từ đó sẽ làm cho doanh nghiệp tăng
trưởng nhanh hơn, tiềm lực của doanh nghiệp cũng có thể được tăng lên nhưng
ngược lại khi quy mô vốn nhỏ dẫn đến quy mô dự án nhỏ không đủ bao phủ thị
trường nó sẽ hạn chế khả năng của doanh nghiệp, tạo cơ hội cho các doanh
nghiệp khác tham gia vào thị trường từ đó sẽ có sự cạnh tranh lớn đối với doanh
nghiệp. Quy mô vốn cũng sẽ quyết định đến độ dài của dự án đầu tư. Vì có
nhiều dự án đầu tư không thể chỉ có đầu tư trong một kỳ sản xuất mà nó còn có
thể được đầu tư qua nhiều kỳ kinh doanh. Vì vậy cần phải có lượng vốn lớn, dự
án càng lâu thì lượng vốn yêu cầu cần có để đầu tư càng lớn. Nói tóm lại thì quy
mô của vốn mà doanh nghiệp có và có thể huy động có vai trò quyết định đến

các dự án đầu tư. Doanh nghiệp nào có quy mô vốn càng lớn thì dự án đầu tư
càng có quy mô phạm vi lớn và ngược lại.
Tiềm lực vốn mà doanh nghiệp có sẽ quyết định đến khả năng đầu tư của
doanh nghiệp như để có thể tham gia vào một lĩnh vực kinh doanh mới hay là
mở rộng thị trường hoạt động hiện có thì cần có vốn để có thể tiến hành các hoạt
động xúc tiến thị trường. Để có thể tham gia vào lĩnh vực kinh doanh mới thì
doanh nghiệp cần phải tiến hành nhiều công việc như là mua sắm trang thiết bị,
tuyển dụng nhân công hay là tiến hành khảo sát thị trường nhưng để có thể làm
được những việc đó thì doanh nghiệp cần có vốn để mua sắm máy móc thiết bị
hay thuê nhân công… Đấy là trường hợp doanh nghiệp muốn tự mình tham gia
thị trường mới. Hoặc doanh nghiệp có thể tiến hành liên doanh liên kết với các
doanh nghiệp khác để cùng tham gia vào thị trường mới, nhưng cho dù là doanh
nghiệp liên doanh này hiện đang hoạt động ở thị trường mà doanh nghiệp muốn
xâm nhập hay là doanh nghiệp ở thị trường khác thì khi tiến hành liên doanh liên
kết thì doanh nghiệp cũng cần phải có vốn đối ứng để tham gia vào liên doanh,
vì nếu không có vốn đối ứng chúng ta sẽ không thể tiến hành liên doanh được,
quy mô vốn góp của mỗi bên sẽ quyết định đến vai trò của doanh nghiệp trong
liên doanh này, doanh nghiệp có quy mô vốn càng lớn thì càng có vai trò quyết
định, vai trò lớn. Vì vậy mà tiềm lực vốn của doanh nghiệp sẽ quyết định đến
khả năng tham gia vào lĩnh vực kinh doanh mới của doanh nghiệp. Thêm vào đó
thì khi doanh nghiệp hoạt động trong bất cứ lĩnh vực nào thì luôn muốn mở rộng
thị trường hoạt động của mình vì khi thị trường càng được mở rộng thì quy mô
của doanh nghiệp càng lớn lên, sức mạnh của doanh nghiệp càng được củng
cố… nhưng để có thể mở rộng thị trường, tăng doanh thu và lợi nhuận thì doanh
nghiệp cần phải có đầu tư vào hoạt động xúc tiến thị trường, đầu tư trang thiết bị
máy móc, nghiên cứu để có thể nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành
và chi phí sản xuất để có thể cạnh tranh. Vì vậy nếu có tiềm lực vốn lớn doanh
nghiệp sẽ có thể có ưu thế trong cạnh tranh trên thị trường nhờ có vốn mà doanh
nghiệp có thể đi trước đầu tư vào công nghệ mới để chiếm lĩnh thị trường, mở
rộng thị trường.

Nói chung thì với hoạt động đầu tư của doanh nghiệp cho dù đó là đầu tư vào
dự án kinh doanh hay là đầu tư để tham gia lĩnh vực kinh doanh mới, hoặc mở
rộng thị trường thì yếu tố vốn là rất quan trọng nó quyết định đến sự thành bại
của hoạt động đầu tư.
2.2. Đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì vốn cũng có vai
trò quyết định đến, vì hoạt động sản xuất kinh doanh muốn được diễn ra thì cần
phải có máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, công nhân… Vì vậy cần có vốn để
đầu tư vào những nhân tố sản xuất đó. Đồng thời vốn cũng có vai trò quyết định
hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Vòng quay của vốn sẽ quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của công
ty nếu vòng chu chuyển vốn càng ngắn thì điều đó chứng tỏ hoạt động sản xuất
kinh doanh của công ty có hiệu quả vì vòng quay của vốn ở đây chính là nói lên
vòng quay của sản phẩm khi mà vốn được thu hồi càng nhanh chứng tỏ rằng sản
phẩm được sản xuất ra không bị tồn kho mà được tiêu thụ trên thị trường nhờ đó
mà vốn không bị ứ đọng mà luôn được luân chuyển nhờ đó sẽ tạo ra được nhiều
doanh thu và lợi nhuận cho doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp nhưng ngược lại khi mà vòng quay của vốn chậm
thì nó sẽ phần nào nói lên thực trạng hoạt động của doanh nghiệp, nó sẽ nói lên
những khó khăn trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp khi mà
sản phẩm sản xuất ra bị tồn kho không tiêu thụ được. Nhưng vòng quay của vốn
dài hay ngắn cũng tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố như lĩnh vực sản xuất kinh doanh
và đặc tính của sản phẩm. Vì có nhiều lĩnh vực hoạt động mà cần có đầu tư lớn
mà vốn thu hồi có thể kéo dài qua nhiều chu kỳ kinh doanh như ngành xây
dựng… thì cần phải đầu tư nhiều mà quá trình xây dựng lại diễn ra dài ngày lên
vòng quay vốn của ngành sẽ dài hơn nhưng cũng có những ngành mà trong một
chu kỳ sản xuất thì vốn được chu chuyển nhiều lần đặc biệt trong những ngành
công nghiệp chế biến lương thực thực phẩm nên trong những ngành này vốn có
vòng quay càng ngắn thì hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty càng cao.
Nhưng nói chung dù trong ngành nào thì nếu có vòng chu chuyển vốn càng ngắn

thì càng có hiệu quả.
Quy mô của vốn cũng sẽ quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Vì
nếu có quy mô vốn lớn, tiềm lực vốn mạnh thì doanh nghiệp càng có nhiều điều
kiện để trang bị máy móc thiết bị hiện đại vào sản xuất nhờ đó mà có thể nâng
cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất hạ giá thành sản phẩm nhờ đó sẽ
tạo được ưu thế cạnh tranh trên thị trường cho doanh nghiệp trước các doanh
nghiệp khác. Nhờ có vốn mà doanh nghiệp cũng có thể tiến hành các hoạt động
xúc tiến thị trường, quảng bá sản phẩm rộng rãi hơn trên thị trường… Vì khi mà
có sản phẩm chất lượng tốt và giá cả hấp dẫn rồi thì vẫn chưa đủ mà thêm vào
đó thì khâu xúc tiến thị trường là rất quan trọng nó quyết định đến sự thành công
của sản phẩm nó sẽ góp phần làm cho mọi người biết về sản phẩm để có thể mua
sản phẩm. Nhưng để làm được những việc như tăng chất lượng sản phẩm, giảm
giá thành, xúc tiến thị trường thì cần phải có vốn.
Nhìn chung thì vai trò của vốn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh là rất
quan trọng ngoài yếu tố con người ra thì vốn là rất quan trọng nó quyết định đến
hiệu quả hoạt động hoạt động sản xuất kinh doanh, nói lên sự hiệu quả trong
hoạt động của doanh nghiệp.
2.3. Đối với việc tăng tài sản của doanh nghiệp.
Tài sản của doanh nghiệp cũng chính là lượng vốn mà doanh nghiệp có, ở
đây tài sản chính là biểu hiện về mặt vật chất của vốn. Số lượng tài sản mà
doanh nghiệp có cũng nói lên được tiềm lực của doanh nghiệp, nói lên quy mô
của doanh nghiệp và trình độ năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì
vậy mà việc tăng tài sản của doanh nghiệp luôn được doanh nghiệp tiến hành
qua các kỳ sản xuất kinh doanh, nó được tiến hành thường xuyên liên tục trong
mỗi doanh nghiệp. Nhưng việc tăng tài sản của mỗi doanh nghiệp cũng cần phải
có vốn vì tài sản ở đây là trang thiết bị máy móc nhà xưởng… đều cần có vốn.
Nguồn vốn sẽ quyết định đến khả năng mua sắm tài sản mới của công ty.
Việc mua sắm tài sản mới sẽ góp phần làm tăng tài sản của công ty nhưng để có
thể mua được tài sản mới thì công ty cần có được một lượng vốn nhất định.
Doanh nghiệp một khi muốn mua sắm thêm tài sản mới để nâng cao năng lực

sản xuất kinh doanh của công ty, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường thì
điều đầu tiên là phải cân nhắc tới số lượng vốn mà doanh nghiệp hiện có và có
thể huy động để mua sắm, việc mua sắm tài sản mới này cũng như là một dự án
đầu tư vậy do vậy mà yếu tố vốn có vai trò quyết định đến việc đầu tư mua sắm
tài sản mới.
Việc mua sắm tài sản để thay thế các tài sản cũ hỏng không thể dùng được
nữa cũng thường được diễn ra trong mỗi doanh nghiệp điều này cũng làm ảnh
hưởng tới nguồn vốn của doanh nghiệp vì việc mua sắm tài sản để thay thế này
cũng cần có vốn để tiến hành.
Nói tóm lại dù hoạt động nào trong doanh nghiệp thì cũng cần có vốn để hoạt
động, vốn như là dòng máu trong cơ thể để cho công ty có thể hoạt động được
suôn sẻ. Vốn có vai trò quan trọng quyết định đến mọi hoạt động trong doanh
nghiệp từ hoạt động đầu tư mua sắm tài sản mới hay là đầu tư vào một lĩnh vực
kinh doanh mới cũng như các hoạt động thường xuyên là hoạt động sản xuất
kinh doanh.
3. Những nhân tố ảnh hưởng tới khả năng huy động vốn của doanh nghiệp.
Việc huy động vốn trong doanh nghiệp cũng có những khó khăn, thuận lợi
nhất định. Tuỳ thuộc vào từng thời điểm mà việc huy động vốn trong doanh
nghiệp có thể được tiến hành thuận lợi hay không. Có rất nhiều nguyên nhân ảnh
hưởng tới khả năng huy động vốn cho doanh nghiệp. Đó là những nhân tố sau.
3.1. Quy mô của doanh nghiệp.
Quy mô của doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn tới khả năng huy động vốn
của doanh nghiệp vì thứ nhất nếu quy mô của doanh nghiệp lớn thì khả năng huy
động vốn của doanh nghiệp sẽ dễ dàng hơn so với doanh nghiệp có quy mô nhỏ
vì khi doanh nghiệp có quy mô lớn điều đo đồng nghĩa với việc doanh nghiệp
làm ăn với quy mô lớn doanh thu hàng năm sẽ lớn từ đó dẫn đến việc lợi nhuận
để lại sẽ lớn làm cho lượng vốn tíchluỹ qua các năm sẽ lớn hơn trái lại khi mà
quy mô doanh nghiệp nhỏ thì ta không thể mong chờ có được một mức doanh
thu và lợi nhuận cao để có được tích luỹ vốn lớn đưa vào đầu tư được. Từ đó mà
khả năng huy động vốn từ nguồn lợi nhuận để lại của những doanh nghiệp lớn

luon có ưu thế so với các doanh nghiệp nhỏ khác. Mặt khác là doanh nghiệp có
quy mô lớn điều đó cũng đồng nghĩa với việc giá trị tài sản mà doanh nghiệp có
sẽ lớn hơn so với các công ty vừa và nhỏ đây là một thuận lợi lớn cho các công
ty lớn khi đi vay tín dụng ngân hàng vì khi đi vay tín dụng ngân hàng thì bao giờ
ngân hàng cũng căn cứ vào giá trị tài sản mà công ty có để cho vay vốn, ta
không thể vay vốn với số lượng lớn khi mà phần giá trị tài sản của công ty nhỏ
bé. Vì vậy mỗi khi đi vay tín dụng ngân hàng các công ty lớn với giá trị tài sản
lớn của mình có thể đem ra thế chấp để vay được số lượng vốn lớn cần thiết để
cung cấp vốn cho những hoạt động đầu tư của mình nhưng trái lại với các công
ty vừa và nhỏ thì việc vay tín dụng ngân hàng một khối lượng vốn lớn là không
dễ dàng khi mà giá trị tài sản mà công ty có chưa nhiều nên chưa thể tạo được
lòng tin đối với ngân hàng để cho vay. Một điểm mạnh nữa của những doanh
nghiệp có quy mô lớn là doanh nghiệp có quy mô vốn lớn thì thường hoạt động
trong nhiều lĩnh vực, hoạt động lâu trên thị trường nên có được lòng tin của
khách hàng và các đối tác nên họ có thể tiến hành vay tín dụng thương mại từ
các đối tác cũng trở lên dễ dàng. Họ có thể thoả thuận với bên đối tác kể cả bên
cung cấp và bên phân phối cho vay những khoản vay tín dụng thương mại một
cách dễ dàng hơn điều đó sẽ tạo lợi thế cho họ trong việc huy động vốn. Một
doanh nghiệp có quy mô vốn lớn cũng có thuận lợi hơn các công ty vừa và nhỏ
khác trong việc vay vốn từ kênh huy động vốn phát hành cổ phiếu hay trái phiếu
vì muốn phát hành cổ phiếu hay trái phiếu ra thị trường thì điều đầu tiên cần
phải đáp ứng được là quy mô vốn của doanh nghiệp phải đủ lớn để có thể phát
hành trái phiếu nhằm đảm bảo khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Khi mà doanh
nghiệp có quy mô lớn thì cũng đảm bảo lòng tin đối với những nhà đâầutư khi
mà các công ty lớn định phát hành trái phiếu, rõ ràng khi phải lựa chọn giữa hai
loại trái phiếu thứ nhất là của một công ty vừa và nhỏ và một bên là của một
công ty lớn thì chúng ta thường có xu hướng chọn trái phiếu của doanh nghiệp
có quy mô lớn tất nhiên sự lựa chọn này còn phụ thuộc vào các yếu tố khác như
là uy tín của doanh nghiệp, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, lĩnh vực hoạt
động của doanh nghiệp… Với doanh nghiệp có quy mô vốn lớn thì nguồn quỹ

dự phòng mà công ty có chắc chắn cũng sẽ lớn điều đó thuận lợi cho doanh
nghiệp khi muốn huy động vốn từ nguồn này khi mà doanh nghiệp thiếu vốn họ
có thể tạm thời dùng nguồn vốn của quỹ dự phòng này để bù đắp vào chỗ thiếu
và đến cuối kỳ sẽ hoàn trả vào.
3.2. Lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực mà có tỷ suất lợi nhuận cao, thị
trường lớn và ổn định thì khả năng huy động vốn cũng sẽ cao hơn. Đúng vậy khi
mà hai doanh nghiệp có cùng quy mô thì yếu tố lĩnh vực hoạt động sẽ quyết định
đến khả năng huy động vốn của doanh nghiệp rõ ràng là công ty nào đang hoạt
động trong những ngành mà có lợi nhuận cao, những ngành hấp dẫn thì sẽ thu
hút được rất nhiều nhà đầu tư quan tâm từ đó mà dẫn đến khả năng huy động
vốn cũng sẽ cao hơn còn trái lại doanh nghiệp doanh nghiệp nào hoạt động trong
lĩnh vực mà lợi nhuận thấp, chi phí cao thì việc thu hút vốn, thu hút các nhà đầu
tư thường là khó khăn hơn. Thêm vào đó thì việc hoạt động trong những lĩnh
vực kinh doanh mới là một ưu thế lớn cho các doanh nghiệp khi thu hút đầu tư,
vì khi một ngành mới xuất hiện chưa có nhiều nhà đầu tư tham gia vào nên thị
trường còn rất lớn do vậy mà doanh nghiệp sẽ dễ dàng chiếmlĩnh thị trường từ
đó mà có được doanh thu và lợi nhuận lớn, dễ dàng huy động vốn từ nội bộ. Đến
khi các công ty khác bắt đầu quan tâm vào lĩnh vực mới này thì doanh nghiệp đã
nắm chắc được thị trường từ đó tạo được ưu thế trước các doanh nghiệp khác
trong cạnh tranh, dễ dàng thu hút các nhà đầu tư đầu tư vào doanh nghiệp hay
tiến hành liên doanh góp vốn với doanh nghiệp… lĩnh vực hoạt động ở đây cũng
liên quan đến thị trường hoạt động và những nhà cung ứng đối tác cho doanh
nghiệp. Rõ ràng khi mà một lĩnh vực hoạt động có thị trường rộng lớn, tiềm
năng thì khả năng thu hút vốn đầu tư vào đó là cao hơn rất nhiều khi mà ta hoạt
động trong một ngành mà thị trường nhỏ hẹp không thu hút được sự quan tâm
của những nhà đầu tư nên khả năng thu hút vốn đầu tư rất hạn chế. Còn việc các
nhà cung ứng đối tác cũng quan trọng vì nó quyết định đến các khoản vay tín
dụng thương mại của doanh nghiệp.
3.3. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Khi mà doanh nghiệp đang hoạt động tốt, hiệu quả sản xuất kinh doanh cao
thì khả năng huy động vốn của doanh nghiệp sẽ thuận lợi hơn rất nhiều đối với
những doanh nghiệp làm ăn đình đốn. Khi mà doanh nghiệp hoạt động sản xuất
kinh doanh đạt hiệu quả điều đó đồng nghĩa với việc vòng quay của vốn được
rút ngắn, vốn không bị ứ đọng làm cho vốn liên tục được đầu tư tiếp tục làm
tăng giá trị đồng vốn, hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng đồng nghĩa với việc
doanh thu và lợi nhuân của công ty sẽ lớn làm cho phần lợi nhuận để lại của
công ty lớn thì sẽ tạo được nhiều tích luỹ hơn cho doanh nghiệp, tao lên số
lượng vốn chủ sở hữu được gia tăng. Hiệu quả sản xuất kinh doanh càng cao thì
uy tín của doanh nghiệp càng lớn càng thu hút được nhiều nhà đầu tư quan tâm,
chú ý từ đó sẽ dễ dàng hơn khi mà kêu gọi các nhà đầu tư vào doanh nghiệp, khi
mà hiệu quả sản xuất kinh doanh cao thì việc đi vay tín dụng ngân hàng và vay
tín dụng thương mại cũng trở lên dễ dàng hơn vì khi sản xuất kinh doanh đạt
hiệu quả cao tạo được lòng tin đối với những nhà cho vay từ đó mà dễ dàng huy
động vốn vào để đầu tư vào những dự án kinh doanh của mình. Còn trái lại khi
mà sản xuất kinh doanh không đạt hiệu quả, vốn bị ứ đọng không lưu thông
được thì doanh nghiệp khó có khả năng huy động vốn lớn vì không thu hút được
sự quan tâm của những nhà đầu tư, không tạo được niềm tin về khả năng thanh
toán tới những nhà cho vay do vậy mà khó khăn hơn khi đi vay.
3.4. Uy tín của doanh nghiệp.
Uy tín của doanh nghiệp cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới khả
năng huy động vốn của doanh nghiệp. Rõ ràng khi mà doanh nghiệp có được uy
tín trên thị trường tạo được niềm tin đối với khách hàng và đối tác, các nhà đầu
tư thì doanh nghiệp sẽ dễ dàng hơn khi thu hút đầu tư thu hút vốn. Uy tín của
doanh nghiệp nhiều khi còn quan trọng hơn cả hiệu quả sản xuất kinh doanh hay
quy mô của doanh nghiệp trong việc thu hút vốn đầu tư vì hiệu quả hoạt động
sản xuất kinh doanh là sự biểu hiện tại những thời điểm nhất định, không doanh
nghiệp nào là có thể hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao trong suốt
thời gian dài cả, nhưng uy tín của doanh nghiệp thì khác nó được xây dựng qua
nhiều giai đoạn, phải được tạo dựng rất lâu vì vậy mà uy tín của doanh nghiệp sẽ

góp phần quan trọng giúp doanh nghiệp huy động vốn. Khi mà doanh nghiệp có
uy tín lớn thì việc phát hành trái phiếu hay cổ phiếu ra thị trường tài chính thì sẽ
được sự quan tâm nhiều hơn của các nhà đầu tư trước những doanh nghiệp khác
chưa có uy tín, hay uy tín còn chưa nhiều. Uy tín của doanh nghiệp như là một

×