Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Chống phân biệt chủng tộc trong pháp luật quốc tế và thực tiễn tại CHDCND lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (579.43 KB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

SYLAPHET THINKEOMUEANGNUEA

CHỐNG PHÂN BIỆT CHỦNG TỘC TRONG PHÁP LUẬT
QUỐC TẾ VÀ THỰC TIỄN TẠI CHDCND LÀO

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

SYLAPHET THINKEOMUEANGNUEA

CHỐNG PHÂN BIỆT CHỦNG TỘC TRONG PHÁP LUẬT
QUỐC TẾ VÀ THỰC TIỄN TẠI CHDCND LÀO

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT QUỐC TẾ
MÃ SỐ: 60 38 60

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN: TS. NGUYỄN THỊ THUẬN

HÀ NỘI - 2011




LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ biết ơn cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất
tới cô giáo TS. Nguyễn Thị Thuận về sự hướng dẫn tận tình và chu đáo của cơ
trong suốt q trình hồn thành luận văn.
Tơi cũng xin chân thành cảm ơn tồn thể các thầy cô giáo trường Đại
học Luật Hà Nội, Việt Nam đã tận tình giảng dạy, giúp đỡ tơi trong suốt q
trình tơi học tập và nghiên cứu tại Trường.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của Bộ ngoại giao nước
Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào đã tạo điều kiện thuận lợi, ủng hộ, giúp đỡ
tơi để tơi hồn thành luận văn này.
Hà Nội, ngày 18 tháng 01 năm 2011
TÁC GIẢ

SYLAPHET THINKEOMUEANGNUEA


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 4
CHƢƠNG I ...................................................................................................... 6
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỐNG PHÂN BIỆT CHỦNG TỘC 6
1.1.Khái niệm chống phân biệt chủng tộc ................................................. 6
1.1.1.Đặc điểm về chống phân biệt chủng tộc ........................................ 6
1.1.1.1.Chống phân biệt chủng tộc là một trong các hoạt động hợp
tác quốc tế .............................................................................................. 6
1.1.1.2.Chống phân biệt chủng tộc đƣợc ghi nhận trong pháp luật
của quốc gia và quốc tế ......................................................................... 9
1.1.2.Khái niệm quyền con ngƣời và chống phân biệt chủng tộc ...... 15
1.1.2.1.Định nghĩa quyền con ngƣời .................................................. 15

1.1.2.2.Định nghĩa chống phân biệt chủng tộc ................................. 19
1.1.3.Mối quan hệ giữa chống phân biệt chủng tộc và nhân quyền .. 25
1.2.Các nguyên tắc của Luật quốc tế về chống phân biệt chủng tộc .... 26
1.2.1.Ngun tắc bình đẳng và khơng phân biệt đối xử...................... 27
1.2.2.Nguyên tắc dân tộc tự quyết ......................................................... 28
1.2.3.Nguyên tắc lên án các hình thức phân biệt chủng tộc ............... 31
CHƢƠNG II .................................................................................................. 33
PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ CHỐNG PHÂN BIỆT CHỦNG TỘC ....... 33
2.1. Thực trạng phân biệt chủng tộc trên thế giới .................................. 33
2.1.1.Tại Nam phi ................................................................................... 33
2.1.2. Tại Séc Bi....................................................................................... 35
2.2.Vai trò của pháp luật quốc tế về chống phân biệt chủng tộc .......... 36
2.2.1. Vai trò của pháp luật quốc tế trong đời sống quốc tế ............... 36
2.2.2. Vai trò của pháp luật quốc tế trong đời sống quốc gia ............. 37


2.3. Một số văn bản pháp luật quốc tế về chống phân biệt chủng tộc .. 39
2.3.1 Công ƣớc về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng năm 1948 . 39
2.3.2 Công ƣớc về ngăn ngừa và trừng trị tội Apacthai năm 1973 .... 41
2.3.3 Cơng ƣớc về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ
năm 1979 ................................................................................................. 42
2.3.4 Cơng ƣớc về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc năm
1965

.................................................................................................... 45

2.3.4.1 Lịch sử ra đời Cơng ƣớc về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt
chủng tộc năm 1965 ............................................................................ 45
2.3.4.2. Nội dung cơ bản của Cơng ƣớc về xóa bỏ mọi hình thức
phân biệt chủng tộc năm 1965 ........................................................... 46

2.3.4.3. Đánh giá về Cơng ƣớc xóa bỏ mọi hình thức phân biệt
chủng tộc năm 1965. ........................................................................... 50
CHƢƠNG III ................................................................................................. 53
CHỐNG PHÂN BIỆT CHỦNG TỘC TẠI CHDCND LÀO..................... 53
3.1. Pháp luật và thực tiễn về chống phân biệt chủng tộc tại CHDCND
Lào ............................................................................................................... 53
3.2.Hợp tác quốc tế của Lào trong lĩnh vực chống phân biệt
chủng tộc ..................................................................................................... 57
3.3.CHDCND Lào với việc thực hiện các quy định của Cơng ƣớc về xóa
bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965.................................... 59
3.4.Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động phòng chống tệ nạn
phân biệt chủng tộc ở CHDCND Lào ...................................................... 67
3.4.1. Phát triển kinh tế và nâng cao đời sống nhân dân .................... 68
3.4.2.

Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nhân quyền ......... 70

KẾT LUẬN .................................................................................................... 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 744


PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hiện nay nhân quyền đã trở thành một vấn đề thu hút sự chú ý rộng rãi

của dư luận thế giới, một nhân tố quan trọng trong các chương trình nghị sự
và trong các văn kiện của các hội nghị quốc tế, các tổ chức quốc tế và khu vực
cũng như toàn cầu, các diễn đàn hợp tác song phương và đa phương. Hầu hết

các quốc gia ở mọi khu vực trên thế giới, ở mọi trình độ phát triển, đều khẳng
định cam kết về nhân quyền. Các vụ vi phạm nhân quyền trắng trợn đều bị lên
án gay gắt.
Ý thức về nhân quyền và việc thực hiện nhân quyền là một quá trình
lịch sử lâu dài gắn với lịch sử phát triển của lồi người và giải phóng con
người qua các hình thái kinh tế-xã hội và các giai đoạn đấu tranh giai cấp, qua
đó quyền con người đã trở thành giá trị chung của nhân loại.
Trong Hiến chương Liên hợp quốc đã dành nhiều đoạn, nhiều mục
khẳng định mục tiêu, quy định nghĩa vụ và trách nhiệm của Liên hợp quốc
cũng như của mọi quốc gia trong việc bảo vệ và thúc đẩy tôn trọng các quyền
và quyền tự do cơ bản của con người. Hiến chương Liên hợp quốc và Tuyên
ngôn nhân quyền là hai văn kiện quốc tế quan trọng đầu tiên về nhân quyền.
Tuyên ngôn nhân quyền năm 1948 được đánh giá là một trong những thành
tựu lớn của Liên hợp Quốc, có ý nghĩa lịch sử và thực tiễn vì đã thống nhất
được những chuẩn mực chung cho tất cả các nước và dân tộc về các quyền
con người. Ngày thông qua Tuyên ngôn nhân quyền (10/12/1948) được Liên
hợp quốc lấy làm Ngày Nhân quyền và hàng năm đều kỷ niệm. Quyền con
người được pháp điển hố trong một loạt Cơng ước quốc tế về nhân quyền.
Bộ luật quốc tế về nhân quyền ra đời và đến nay phát triển gồm 24 Công ước
quốc tế về nhân quyền trong đó quan trọng nhất là 2 Công ước 1966 về các
1


quyền dân sự, chính trị và về các quyền kinh tế, văn hoá, xã hội. Lần đầu tiên
“quyền tự quyết của các dân tộc kể cả quyền của họ được tự do sử dụng của
cải và nguồn tài nguyên thiên nhiên của mình” được ghi nhận trong 2 cơng
ước nêu trên. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng cho cuộc đấu tranh vì quyền tự
quyết của các dân tộc, kể cả quyền lựa chọn con đường phát triển cho chính
họ. Q trình pháp điển hố và xây dựng các Cơng ước về nhân quyền là q
trình đấu tranh gay gắt giữa các thế lực tư bản phương Tây và các lực lượng

tiến bộ. Về cơ bản, phần lớn các công ước về nhân quyền đã ghi nhận được
những nội dung tích cực, tiến bộ.
Lào là nước đang phát triển, có nhiều bộ tộc cùng chung sống, Đảng và
Nhà nước đặc biệt quan tâm và đề ra các chính sách đối xử bình đẳng giữa
các dân tộc nhằm củng cố và phát huy truyền thống đoàn kết giữa các dân tộc,
xóa bỏ các hình thức phân biệt chủng tộc để cùng nhau xây dựng và phát triển
đất nước. Cho đến nay, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào (CHDCND Lào) đã
tham gia nhiều điều ước quốc tế về nhân quyền, trong đó có Cơng ước về
quyền chính trị dân sự và Cơng ước về quyền kinh tế văn hố xã hội năm
1966 và Cơng ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965.
Các quy định của những văn bản này được Nhà nước Lào cụ thể hóa trong
các văn bản pháp luật như: Hiến pháp, Bộ luật hình sự, ... Tuy nhiên, vấn đề
nhân quyền vẫn còn là một lĩnh vực mới, ở Lào hiện nay vẫn chưa có một
khái niệm thống nhất về nhân quyền, vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau dẫn
đến việc thực hiện chưa được thống nhất. Mặc dù Lào đã trở thành thành viên
của Cơng ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc của tổ chức Liên hợp
quốc từ năm 1974, nhưng mức độ quan tâm nghiên cứu ở Lào đối với vấn đề
này còn rất hạn chế. Cụ thể, một số nghiên cứu ở Lào được triển khai chủ yếu
là để phục vụ công tác xây dựng các Báo cáo kiểm điểm định kỳ của quốc gia
theo quy định của một số công ước quốc tế về nhân quyền (đến nay mới chỉ

2


có 03 bản Báo cáo quốc gia về tình hình thực hiện cơng ước xố bỏ các hình
thức phân biệt chủng tộc của Lào năm 2004; Báo cáo về việc thực hiện Cơng
ước về xóa bỏ phân biệt đối xử với Phụ nữ của Lào năm 2003...). Đây thực
chất là các hoạt động chức năng được thực hiện bởi các cơ quan có thẩm
quyền của Lào. Dưới góc độ luật học vẫn chưa có cơng trình khoa học nào
nghiên cứu một cách có hệ thống vấn đề xóa bỏ mọi hình thức phân biệt

chủng tộc và thực tiễn tại CHDCND Lào. Chính vì thế, tác giả mạnh dạn chọn
đề tài: “Chống phân biệt chủng tộc trong pháp luật quốc tế và thực tiễn tại
CHDCND Lào” làm luận văn tốt nghiệp với mong muốn đóng góp một phần
nhỏ bé vào việc thực hiện các quy định của Công ước này tại Lào.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, nghiên cứu vấn đề

chống phân biệt chủng tộc khơng phải là vấn đề hồn tồn mới. Tại Việt Nam
đã có nhiều báo cáo, cơng trình khoa học nghiên cứu về vấn đề này ở các cấp
độ khác nhau như “Việt Nam và việc thực hiện pháp luật chống phân biệt
chủng tộc” (tại trang web www.mofa.gov.vn); Sách trắng của Bộ ngoại giao
Việt Nam về “Thành tựu bảo vệ và phát triển quyền con người” năm 2005;
Báo cáo quốc gia về tình hình thực hiện Cơng ước xố bỏ các hình thức phân
biệt chủng tộc của Việt Nam năm 2001; Báo cáo về việc thực hiện Công ước
chống phân biệt đối xử với phụ nữ của Việt Nam năm 2005; Sách phục vụ
nghiên cứu, giảng dạy về Luật quốc tế về quyền con người (Viện nghiên cứu
quyền con người, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (HCM), năm
2005)...Trong các cơng trình nói trên ở Việt nam, vấn đề chống phân biệt
chủng tộc thường được đề cập trong tổng thể các hoạt động, trong đường lối,
chính sách rất nhất quán của nhà nước Việt nam về bảo vệ các quyền cơ bản
của côn người trong đó có quyền được đối xử bình đẳng, quyền khơng bị
phân biệt vì lý do giới tính, màu da, tơn giáo hay nguồn gốc dân tộc.

3


Phạm vi nghiên cứu đề tài


3.

Phạm vi nghiên cứu của luận văn là một số vấn đề lý luận về chống phân
biệt chủng tộc; các quy định của pháp luật quốc tế và của CHDCND Lào về
chống phân biệt chủng tộc; thực tiễn thi hành các quy định này tại CHDCND
Lào.
Trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu
làm rõ một số vấn đề cơ bản nhất về chống phân biệt chủng tộc như khái niệm
về chống phân biệt chủng tộc; các quy định cơ bản nhất của Cơng ước về xóa
bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc của Liên hợp quốc năm 1965; các quy
định của pháp luật Lào về vấn đề này; việc thực hiện các quy định về chống
phân biệt chủng tộc tại Lào. Những vấn đề khác liên quan đến đề tài này tác
giả sẽ tiếp tục nghiên cứu sau khi có điều kiện.
Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài

4.

Luận văn được viết trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin về Nhà
nước và pháp luật; đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân
dân cách mạng Lào về vấn đề dân tộc. Những luận điểm chính của luận văn
căn cứ vào quan điểm của Đảng, các đạo luật và các điều ước quốc tế mà Lào
ký kết hoặc tham gia. Trong quá trình nghiên cứu đề tài tác giả cũng sử dụng
một số phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống như: tổng hợp, phân
tích…
5.

Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là hoàn thiện pháp luật và nâng cao

hiệu quả thực hiện các quy định về chống phân biệt chủng tộc tại CHDCND

Lào.
Từ mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu được xác định trên các khía cạnh
sau:
- Làm rõ khái niệm về chống phân biệt chủng tộc;
4


- Phân tích nội dung cơ bản của Cơng ước về xóa bỏ mọi hình thức phân
biệt chủng tộc;
- Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật Lào về chống phân biệt
chủng tộc và việc thực hiện tại Lào;
- Đưa ra được một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả của hoạt động
phịng chống, tiến tới xố bỏ tình trạng phân biệt chủng tộc tại Lào
6.

Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu có tính hệ thống những vấn đề liên

quan đến việc chống phân biệt chủng tộc. Trong luận văn có những điểm mới
sau đây:
- Phân tích có hệ thống các quy định của pháp luật quốc tế liên quan đến
chống phân biệt chủng tộc.
- Đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật Lào về chống phân biệt
chủng tộc và thực tiễn thực hiện.
- Đề xuất được những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện nhằm tăng
cường hiệu quả của hoạt động phịng chống, tiến tới xố bỏ tình trạng phân
biệt chủng tộc tại Lào.
7.

Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội

dung của luận văn được kết cấu bởi 3 chương:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về chống phân biệt chủng tộc.
Chƣơng 2: Pháp luật quốc tế về chống phân biệt chủng tộc.
Chƣơng 3: Chống phân biệt chủng tộc tại CHDCND Lào.

5


CHƢƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỐNG PHÂN BIỆT CHỦNG TỘC
1.1.

Khái niệm chống phân biệt chủng tộc
1.1.1. Đặc điểm về chống phân biệt chủng tộc
1.1.1.1.

Chống phân biệt chủng tộc là một trong các hoạt động
hợp tác quốc tế

Với sự phát triển của các nước trên thế giới, hợp tác quốc tế là một
trong những yếu tố rất quan trọng góp phần ổn định và phát triển kinh tế,
chính trị, văn hóa và xã hội của các nước. Thực hiện không tốt hay không
quan tâm không đúng mức đến yếu tố này sẽ ảnh hưởng to đến quốc gia trên
nhiều phương diện. Vì vậy, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực chống phân biệt
chủng tộc là một trong những yếu tố rất quan trọng không thể thiếu được
trong việc bảo vệ và tôn trọng các quyền cơ bản của con người.
Việc thừa nhận phẩm giá vốn có và các quyền bình đẳng bất di bất dịch
của tất cả các thành viên trong gia đình nhân loại là nền tảng của tự do, cơng

lý và hịa bình trên thế giới. Sự coi thường và xâm phạm các quyền con người
dẫn đến những hành vi man rợ xúc phạm tới lương tâm nhân loại, và việc tạo
lập một thế giới trong đó con người sẽ được hưởng tự do ngơn luận, tự do tín
ngưỡng, thốt khỏi đói nghèo đã được tun bố như là khát vọng cao cả nhất
của người dân.
Hiện nay, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nhân quyền nói chung và hợp
tác chống phân biệt chủng tộc nói riêng diễn ra rất đa dạng về cả phạm vi và
hình thức.
Thứ nhất: hợp tác song phương
Hợp tác quốc tế song phương giữa các nước trong khu vực và ngoài
khu vực được thực hiện trong nhiều lĩnh vực như an ninh, chính trị, kinh tế,

6


văn hóa và xã hội tùy thuộc vào mức độ thiết lập quan hệ ngoại giao cũng như
nhu cầu của các nước. Một trong những hình thức phổ biến trong hợp tác
song phương là thỏa thuận thiết lập ủy ban hợp tác trong từng lĩnh vực giữa
hai nước. Trong nhân quyền cũng vậy, các nước thường cùng nhau thiết lập
Ủy ban hợp tác về nhân quyền giữa hai nước, ví dụ: Lào đã thiết lập Ủy ban
hợp tác giữa Lào với Úc về nhân quyền, Ủy ban hợp tác quốc tế về nhân
quyền giữa Việt Nam và Úc, Ủy ban làm việc khơng chính thức giữa Lào với
Áo, … Những nước này sẽ thỏa thuận với nhau về chương trình hành động
theo từng kỳ hạn theo quỹ viện trợ không hoàn lại như tài trợ cho cuộc semina
về nhân quyền, dịch một số văn kiện quốc tế cơ bản về nhân quyền, xây dựng
chương trình tuyên truyền cho người dân được hiểu biết về quyền và lợi ích
cơ bản của mình, tài trợ cho một số đồn của nhà nước làm việc liên quan đến
công tác nhân quyền được đi nước ngoài để học tập kinh nghiệm của nước
khác về công tác thực hiện nhân quyền hay tham gia các hội nghị quốc tế, tài
trợ cho việc xây dựng cơ sở giáo dục và một số cơ sở hạ tầng khác…, trong

một năm hay sáu tháng sẽ trao đổi đoàn hợp tác để đánh giá kết quả hoạt động
của ủy ban đó, nếu thực hiện chưa đủ hay khơng thực hiện, trong nước cịn có
sự vi phạm nhất là vấn đề phân biệt chủng tộc hoặc dân tộc trong nước hoặc
hệ thống pháp luật của nước đó chưa phù hợp hay khơng phù hợp thì họ sẽ
u cầu hay áp dụng biện pháp ép buộc như sẽ cắt không viện trợ hay tài trợ
cho nước không thực hiện hay thực hiện chưa đủ. Ngược lại nếu thực hiện tốt
thì sẽ tạo lịng tin và uy tín cho các nước khác trong việc xây dựng quan hệ
hợp tác với mình.
Thứ hai: hợp tác đa phương
Nhiều nước trên thế giới hay trong một khu vực đã cùng nhau xây dựng
các thiết chế quốc tế nhằm ngăn chặn các hành vi xâm phạm đến quyền con
người. Ví dụ các nước đã thành lập các ủy ban về nhân quyền như Ủy ban

7


nhân quyền của Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), Ủy ban nhân
quyền thuộc Hội đồng châu Âu, Ủy ban nhân quyền của châu Phi,… Ở phạm
vi toàn cầu có Hội đồng nhân quyền của Liên hợp quốc trong đó có Uỷ ban
xố bỏ phân biệt chủng tộc. Ngồi ra, các nước đã thỏa thuận và ký kết các
điều ước quốc tế về nhân quyền về chống phân biệt chủng tộc.
Phân biệt chủng tộc là sự vi phạm các quyền của con người, đe dọa mối
quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc, sự hợp tác giữa các quốc gia và nền hịa
bình, an ninh quốc tế, do đó, mỗi quốc gia cần thực hiện các biện pháp hiệu
quả để ngăn ngừa và xóa bỏ mọi hành vi phân biệt chủng tộc.
Hợp tác quốc tế về chống vi phạm nhân quyền trong đó có chống phân
biệt chủng tộc của các nước trên thế giới là một biện pháp rất hiệu quả. Nếu
thực hiện tốt công tác hợp tác quốc tế này sẽ hạn chế đáng kể sự phân biệt
giữa các chủng tộc trên thế giới.
Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực chống phân biệt chủng tộc là hoạt động

rất cần được quan tâm. Phân biệt chủng tộc liên quan đến nhiều vấn đề như
chủng tộc, phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, tù nhân, người tị nạn,… có tác
động lớn và ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn hóa và
xã hội, ảnh hưởng đến sự ổn định và phát triển của quốc gia. Do nhận thức
được sự tác hại và ảnh hưởng đó cho nên các quốc gia đã thông qua những
biện pháp khẩn cấp và hiệu quả đặc biệt trong lĩnh vực giảng dạy, giáo dục,
văn hố và thơng tin, ban hành pháp luật quốc gia và ký kết điều ước quốc tế
trong đó có Cơng ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965,
nhằm chống lại các định kiến có thể dẫn tới phân biệt chủng tộc và để khuyến
khích sự hiểu biết, khoan dung và tình hữu nghị giữa các quốc gia và các
nhóm chủng tộc, sắc tộc, cũng như để tuyên truyền các mục tiêu và ngun
tắc của Hiến chương Liên hợp quốc, Tun ngơn tồn thế giới về quyền con
người, Tuyên bố của Liên hợp quốc về loại trừ tất cả các hình thức phân biệt

8


chủng tộc, cũng như của Cơng ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng
tộc. Để kiểm tra giám sát hoạt động phân biệt chủng tộc, Liên hợp quốc đã
thành lập Ủy ban xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc gồm 18 chuyên
gia có đạo đức tốt và được công nhận là công bằng, vô tư, do các quốc gia
thành viên bầu ra một cách độc lập từ các cơng dân của các quốc gia thành
viên, có tính đến cơ cấu cơng bằng về mặt địa lý và tính đại diện của những
nền văn minh khác nhau cũng như những hệ thống luật pháp chủ yếu.
1.1.1.2. Chống phân biệt chủng tộc đƣợc ghi nhận trong pháp
luật của quốc gia và quốc tế
Thúc đẩy, tôn trọng các quyền con người là một trong những mục tiêu
ưu tiên hàng đầu của cộng đồng quốc tế trong những thập kỷ gần đây, đặc biệt
kể từ khi Liên hợp quốc được thành lập. Ngay sau khi ra đời, các cơ quan của
tổ chức này, đặc biệt là Hội đồng kinh tế, xã hội và Ủy ban nhân quyền (nay

là Hội đồng nhân quyền) đã có nhiều nỗ lực để pháp điển hóa các chuẩn mực
quốc tế thơng qua hệ thống các điều ước về quyền con người. Bên cạnh Bộ
luật nhân quyền quốc tế, các quốc gia thành viên của Liên hợp quốc cũng đã
nhất trí thơng qua nhiều điều ước quốc tế để bảo vệ quyền con người trên các
lĩnh vực khác nhau.
Chống phân biệt chủng tộc là một trong những vấn đề quan trọng nhất
trong các văn kiện quốc tế về nhân quyền. Vấn đề này đã được quy định và cụ
thể hóa trong nhiều văn kiện quốc tế có giá trị pháp lý khác nhau.
Văn kiện quốc tế được nhắc đến đầu tiên là Tuyên ngôn thế giới về
nhân quyền, năm 1948 được thông qua theo Nghị quyết số 217 A (III) ngày
10-12-1948 của Đại hội đồng Liên hợp quốc. Đây là một trong những văn
kiện quan trọng và cơ bản nhất của vấn đề nhân quyền. Văn kiện này là sự
tổng kết, khái quát các giá trị nhân quyền trong lịch sử nhân loại, đồng thời đã
phản ánh những đòi hỏi bức xúc nhất trong việc bảo vệ quyền con người của

9


các dân tộc ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Tuyên ngôn đã xác định các
nguyên tắc và chuẩn mực của quyền con người. Đó là ngun tắc khơng phân
biệt đối xử; các quyền dân sự và chính trị; các quyền kinh tế, xã hội văn hóa
và thủ tục giám sát quốc tế. Trong 30 điều khoản của văn kiện này, trừ điều
29 và 30 quy định về giải thích Tun ngơn, đã quy định khá đầy đủ các
quyền tự do cơ bản của con người và những hạn chế phải chấp nhận vì
quyền, lợi ích của người khác và của cộng đồng. Những quy định trong Tuyên
ngôn là nền tảng để hình thành và phát triển các cơng ước quốc tế khác về
nhân quyền. Ví dụ như: Điều 1 về quyền bình đẳng, khơng phân biệt đối xử,
Điều 3 về quyền sống, Điều 5 quyền bất khả xâm phạm về thân thể, Điều 10,
11 về các quyền trong tố tụng hình sự (như được xét xử cơng bằng, cơng khai
trước tịa án, quyền được coi là vơ tội cho đến khi được chứng minh là phạm

tội), Điều 18, 19 về các quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo và tự do
ngôn luận...

1

Sau năm 1945, Hiến chương Liên hợp quốc ra đời là một trong những
văn kiện pháp lý quan trọng của Luật quốc tế trong đó vấn đề nhân quyền
cũng có một số điều khoản quy định liên quan đến chống phân biệt chủng tộc.
Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền tuyên bố rằng, mọi người sinh ra đều tự
do và bình đẳng về phẩm giá và các quyền, mỗi người đều có quyền được
hưởng các quyền và tự do mà khơng có bất kỳ sự phân biệt nào, đặc biệt là về
sắc tộc, màu da hoặc nguồn gốc dân tộc. Tất cả mọi người đều bình đẳng
trước pháp luật, và có quyền được pháp luật bảo vệ, chống lại mọi hình thức
phân biệt đối xử cũng như sự xúi giục phân biệt đối xử. Liên hợp quốc đã lên
án chủ nghĩa thuộc địa và tất cả các hoạt động chia rẽ và phân biệt liên quan
đến nó dưới bất kỳ hình thức nào, bất kỳ ở đâu.

1

Luật quốc tế về quyền con người, sách phụ vụ nghiên cứu, giảng dạy, Nxb Lý luận chính trị, H. 2005, tr. 81

10


Hiến chương của Liên hợp quốc dựa trên nguyên tắc về sự bình đẳng và
phẩm giá vốn có của con người và tất cả các nước thành viên cam kết sẽ có
những hoạt động riêng hoặc phối hợp cùng tổ chức Liên hợp quốc, nhằm đạt
được các mục tiêu của Liên hợp quốc là khuyến khích và tăng cường sự tôn
trọng và tuân thủ các quyền con người cũng như các tự do cơ bản khác của tất
cả mọi người, khơng có bất kỳ sự phân biệt về sắc tộc, giới tính, ngơn ngữ

hay tơn giáo.
Tun bố trao trả độc lập cho các nước và các dân tộc thuộc địa ngày
14-12-1960 (Nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc số 1514 (XV)) đã
khẳng định và long trọng tuyên bố sự cần thiết phải kết thúc chủ nghĩa thuộc
địa một cách nhanh chóng và vơ điều kiện. Tun bố của Liên hợp quốc về
loại trừ tất cả các hình thức phân biệt chủng tộc ngày 20-1-1963 (Nghị quyết
1940 của Đại hội đồng (XVIII)) đã khẳng định sự cần thiết phải loại bỏ nhanh
chóng nạn phân biệt chủng tộc trên tồn thế giới dưới mọi hình thức và mọi
cách thể hiện, đảm bảo sự hiểu biết và tôn trọng nhân phẩm con người, bất cứ
một học thuyết nào về sự vượt trội dựa trên sự khác biệt về sắc tộc đều là sai
lầm về mặt khoa học và bị lên án về mặt đạo đức, không đúng và nguy hiểm
về mặt xã hội và khơng thể có sự biện minh nào đối với sự phân biệt chủng
tộc trong lý thuyết cũng như trong thực tế ở bất cứ đâu.
Phân biệt chủng tộc là sự vi phạm các quyền của con người, đe dọa
mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc, sự hợp tác giữa các quốc gia và nền
hịa bình, an ninh quốc tế, do đó, mỗi quốc gia cần thực hiện các biện pháp
hiệu quả để ngăn ngừa và xóa bỏ mọi hành vi phân biệt chủng tộc. Tuyên bố
năm 1963 nhanh chóng nhận được sự ủng hộ của nhiều quốc gia, đặc biệt là
quốc gia mới giành độc lập ở châu Phi và châu Á. Bởi vậy, chỉ trong vịng hai
năm sau đó, ngày 21-12-1965, Cơng ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức
phân biệt chủng tộc đã chính thức được Đại hội đồng Liên hợp quốc bỏ phiếu

11


thông qua bằng Nghị quyết 2106A (XX), để cung cấp cho các quốc gia một
công cụ pháp lý hữu hiệu hơn trong hoạt động chống phân biệt đối xử về
chủng tộc và những hình thức biểu hiện của nó. Cơng ước này là một trong
những điều ước quốc tế có giá trị pháp lý đầu tiên về xóa bỏ mọi hình thức
phân biệt chủng tộc, và nó đã thể hiện quyết tâm cao cả của các nước thành

viên Liên hợp quốc trong vấn đề chống và xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối
xử (ra đời trước Công ước về quyền dân sự, chính trị và Cơng ước về kinh tế,
1

xã hội và văn hóa) .
Ngồi Hiến chương Liên hợp quốc và Tuyên ngôn thế giới về nhân
quyền, Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc năm
1965 vấn đề chống phân biệt chủng tộc còn được quy định trong nhiều điều
ước quốc tế khác về quyền con người như: Công ước quốc tế về các quyền
dân sự, chính trị năm 1966; Cơng ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và
văn hóa năm 1966;; Cơng ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối
xử với phụ nữ năm 1979; Công ước về quyền trẻ em năm 1989; Công ước
chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn bạo, vô nhân đạo
hoặc hạ nhục năm 1984...
Trong phạm vi quốc gia, đã có nhiều nước thơng qua và ban hành chính
sách và pháp luật về chống phân biệt chủng tộc. Có những nước có riêng quy
định về chống phân biệt chủng tộc với nhiều tên gọi khác nhau như Luật
chống phân biệt đối xử của hầu hết các nước thành viên của Liên minh châu
Âu, cũng có nhiều nước chưa có pháp luật riêng quy định về vấn đề này,
nhưng trong Hiến pháp và các luật khác có liên quan đều có quy định nhằm
phịng chống, nghiêm cấm, và trừng phạt các hình thức phân biệt đối xử.

1

Luật quốc tế về quyền con người, sách phụ vụ nghiên cứu, giảng dạy, Nbx Lý luận chính trị, H. 2005, tr.
103.

12



Việt Nam là một quốc gia có tới 54 dân tộc chung sống. Trên 10 triệu
trong tổng số 82 triệu dân Việt Nam thuộc 53 dân tộc ít người, chiếm 13,8%
so với tổng số dân, sống xen kẽ nhau, tập trung chủ yếu ở các vùng núi, đặc
biệt vùng Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ. Các dân tộc Việt Nam có
truyền thống đồn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống ngoại
xâm, chế ngự thiên nhiên và xây dựng đất nước. Mỗi dân tộc có bản sắc văn
hóa riêng, tạo nên sự đa dạng, phong phú của nền văn hóa Việt Nam thống
nhất. Nhà nước Việt Nam đặc biệt coi trọng chính sách dân tộc, bảo đảm
quyền bình đẳng giữa các dân tộc, coi đó là một trong những nhân tố quyết
định cho sự phát triển bền vững của đất nước. Chính sách này được thể hiện
một cách tồn diện trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, được
thể hiện trong đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt
Nam.
Dân tộc Việt Nam có truyền thống lâu đời về đồn kết và bình đẳng dân
tộc. Tinh thần đồn kết, bình đẳng tương trợ đó được thể hiện qua nhiều hình
thức khác nhau trong lịch sử từ truyền thuyết Lạc Long Quân-Âu Cơ cho đến
những sự kiện lịch sử được ghi lại. Chính tinh thần đồn kết đó là sức mạnh
khơng gì so sánh được giúp dân tộc Việt Nam chiến đấu và chiến thắng, đánh
bại chủ nghĩa thực dân và đế quốc. Hơn ai hết, dân tộc Việt Nam nâng niu và
q trọng sự bình đẳng và khơng phân biệt về dân tộc, chủng tộc.
Ngay từ khi Nhà nước Việt Nam non trẻ mới ra đời sau thắng lợi của
Cách mạng Tháng Tám, Hiến pháp năm 1946 đã khẳng định nguyên tắc "tất
cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh
tế, văn hóa" (Điều 6). Vấn đề hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số cũng đã được
xác định tại Hiến pháp "Ngoài sự bình đẳng về quyền lợi, những quốc dân
thiểu số được giúp đỡ về mọi phương diện để chóng tiến kịp trình độ chung"
(Điều 8).

13



Tư tưởng và những nguyên tắc cơ bản đã tiếp tục được ghi nhận và phát
triển tại các Hiến pháp tiếp theo. Hiến pháp năm 1992 khẳng định quyền bình
đẳng về chính trị của các dân tộc trên đất nước: "Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống
trên đất nước Việt Nam" (Điều 5). Nhằm bảo đảm, củng cố sự bình đẳng giữa
các dân tộc, Hiến pháp năm 1992 còn quy định trách nhiệm của Nhà nước
trong việc thực hiện chính sách bình đẳng, đồn kết, tương trợ giữa các dân
tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc; các chính sách phát triển
về mọi mặt, để từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng
bào dân tộc thiểu số.
Các dân tộc ở Việt Nam khơng những được bình đẳng về chính trị, kinh
tế mà cịn được bình đẳng và không bị phân biệt đối xử trên lĩnh vực văn hố.
Nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững, tơn trọng bản sắc dân tộc và bảo đảm
sự bình đẳng giữa các dân tộc, Điều 5 Hiến pháp năm 1992 còn khẳng định
"Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và
phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của
mình".
Các nguyên tắc và quy định về bình đẳng và không phân biệt chủng tộc
liên quan đến thành phần dân tộc khơng những được ghi trong Hiến pháp mà
cịn được cụ thể hóa trong các luật và văn bản dưới luật khác có liên quan và
được triển khai thực hiện trong thực tiễn thơng qua nhiều chính sách, chương
trình quốc gia nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhóm dân tộc thiểu số có
điều kiện phát triển bình đẳng trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Trên bình diện thế giới, Việt Nam đã thể hiện mạnh mẽ quyết tâm cùng
với cộng đồng quốc tế trong cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc, chủ
nghĩa bài ngoại và các hình thức phân biệt chủng tộc khác. Việt Nam đã trở
thành thành viên của Cơng ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc vào

14



năm 1981. Cùng năm đó, Việt Nam gia nhập Cơng ước quốc tế về ngăn ngừa
và trừng trị tội diệt chủng. Như vậy, tất cả các công ước trực tiếp điều chỉnh
các vấn đề loại bỏ phân biệt chủng tộc và các tội ác khác liên quan đến phân
biệt chủng tộc đều đã được Việt Nam tham gia đầy đủ.
Ngoài ra, Việt Nam là thành viên của hầu hết các cơng ước quan trọng
khác về quyền con người có ghi nhận các nguyên tắc chống phân biệt trên cơ
sở chủng tộc như Công ước về các quyền dân sự và chính trị, Cơng ước về
các quyền kinh tế, xã hội và văn hố, Cơng ước loại bỏ mọi hình thức phân
biệt đối xử với phụ nữ, Công ước quốc tế về quyền trẻ em.

1

1.1.2. Khái niệm quyền con ngƣời và chống phân biệt chủng tộc
1.1.2.1. Định nghĩa quyền con ngƣời
Quyền con người là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử, là thành
quả chung của các dân tộc, là một trong những giá trị tinh thần quý báu nhất
của nền văn minh nhân loại trong thời đại ngày nay. Những giá trị nền tảng
của quyền con người là: nhân phẩm, tự do, bình đẳng, nhân đạo, khoan dung
và trách nhiệm. Đây là những truyền thống vốn có ở tất cả mọi nền văn hóa
khơng phân biệt hệ tư tưởng, chế độ xã hội cũng như trình độ phát triển. Tuy
nhiên, với tư cách là một thuật ngữ, khái niệm quyền con người ra đời trực
tiếp từ các cuộc cách mạng dân chủ tư sản ở phương Tây, tiêu biểu là cách
mạng Anh với “Luật về các quyền” năm 1689; Cách mạng giành độc lập của
Mỹ với “Tuyên ngôn độc lập” năm 1776; và Hiến pháp (bổ sung) năm 1789;
cách mạng Pháp với Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1789. Trước
thế kỷ XX, quyền con người là chế định trong pháp luật quốc gia và nội dung
của chế định này còn nhiều hạn chế.


1

Việt Nam và việc thực hiện pháp luật chống phân biệt chủng tộc, TTXVN, website của Bộ ngoại giao Việt
Nam: www.mofahcm.gov.vn/vi/mofa/nr040807104143/nr040807105039/ns050407100455#iUhWvqlvWys3

15


Sự ra đời Liên hợp quốc sau Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),
là cột mốc quan trọng mở ra một thời đại mới trong lịch sử nhân loại nói
chung, lịch sử nhân quyền nói riêng - đó là thời đại, các quốc gia, dân tộc đã
đi đến những nhận thức chung về những vấn đề liên quan đến vận mệnh của
nhân loại trong đó có hịa bình, hợp tác giữa các dân tộc, tơn trọng nhân
quyền; đó cịn là thời đại quốc tế hóa các quyền và tự do cơ bản của con
người với những chuẩn mực mới.
Sau khi Liên hợp quốc ra đời, nhiều văn kiện về quyền con người đã
được xây dựng và thông qua. Tuy nhiên cho đến nay cộng đồng quốc tế xem
ba văn kiện: 1) Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948; 2) Công
ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966; 3) Cơng ước quốc tế về
các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 là những văn kiện cơ bản và
quan trọng nhất về quyền con người, là bộ phận cấu thành cơ bản của Bộ luật
1

quốc tế về quyền con người . Từ đó quyền con người mới được quốc tế hóa,
trở thành một bộ phận quan trọng của pháp luật quốc tế.
Trước hết chủ nghĩa Mác đã xác định đúng đắn vai trò của con người
và tương quan giữa con người với quy luật khách quan của xã hội. C. Mác đã
chỉ ra rằng, các tiêu chuẩn đánh giá những tư tưởng về con người cuối cùng
phải lấy con người làm thước đo. Nghĩa là phải lấy những giá trị vốn có ở con
người, như nhân phẩm, khát vọng về tự do, bình đẳng và một xã hội hịa

hợp... Sự bền vững tư tưởng của C. Mác về con người và quyền con người
không phải chỉ bắt nguồn từ lý tưởng nhân văn cao cả, mà cịn ở chỗ Ơng đã
đề cập tới những vấn đề cơ bản và cốt lõi của quyền con người.
Thứ hai, C. Mác đã làm sáng tỏ điều kiện của quyền con người. C. Mác
không phủ nhận các quyền mà con người đã đạt được trong chế độ tư bản,
1

Luật quốc tế về quyền con người, sách phụ vụ nghiên cứu, giảng dạy, Nbx Lý luận chính trị, H. 2005, tr.
71-72.

16


song ông đã chỉ ra rằng, các quyền con người trong chủ nghĩa tư bản cịn
mang nặng tính hình thức, bởi vì trong xã hội đó, “người ta mặc nhiên thừa
nhận sự bất bình đẳng về năng lực của mỗi con người, cịn nhà nước thì thừa
nhận sự bất bình đẳng về sở hữu”. C. Mác đã chỉ ra rằng , quyền con người
được gọi là “quyền tự nhiên”, hoặc là “đặc quyền” thực ra chỉ là một ảo
tưởng. Theo ông, “con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội” do đó
quyền con người, trong tính hiện thực của nó tất nhiên phải gắn với một chế
độ xã hội, một nền văn hóa nhất định.
Thứ ba, về mối quan hệ giữa quyền tự do của cá nhân với quyền của
cộng đồng. Điều đó có nghĩa, các quyền và tự do của cá nhân là tiền đề cho sự
phát triển của cộng đồng, song quyền tự do của cá nhân phải được phát triển
sao cho không cản trở mà trở thành điều kiện thuận lợi cho sự phát triển tự do
của cả cộng đồng. Ngoài ra giá trị bền vững của tư tưởng về quyền con người
của C. Mác cịn thể hiện ở chỗ, đó là tư tưởng nhân quyền mang tính triệt để.

1


Theo tư tưởng của Hồ Chí Minh về quyền con người, quyền con người
là giá trị chung của nhân loại. Mỗi dân tộc, bằng hình thức này hoặc hình thức
khác, trong thời kỳ lịch sử này hoặc lịch sử khác đều có những đóng góp vào
giá trị đó. Dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX đã có những đóng góp lớn lao
về tư tưởng nhân quyền, thể hiện tập trung, nổi bật trong tư tưởng của Chủ
tịch Hồ Chí Mính. Các quyền và tự do cơ bản của nhân dân Việt Nam đã
được trân trọng ghi trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và Hiến pháp đầu
tiên của nước Việt Nam mới, năm 1946. Trong Tun ngơn độc lập, Hồ Chí
Minh sau khi trân trọng trích lại Tun ngơn độc lập của Mỹ, Tun ngơn
nhân quyền và dân quyền của Pháp đã kết luận: “Tất cả mọi người đều sinh ra
có quyền bình đẳng... Lời bất thủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm
1

Luật quốc tế về quyền con người, sách phụ vụ nghiên cứu, giảng dạy, Nxb Lý luận chính trị, H. 2005, tr 53,
54, 55, 58

17


1779 của Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là tất cả các dân tộc trên thế giới
đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và
tự do” Theo Người: “Quyền con người khơng chỉ là quyền của cá nhân mà
cịn là quyền của mỗi dân tộc, của các dân tộc. Hai loại quyền này thống nhất
và làm tiền đề cho nhau”. Tư tưởng nhân quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh
khơng chỉ nằm trong Tun ngơn độc lập mà cịn được thể hiện sâu sắc,
phong phú trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, cả trên lĩnh vực lý luận
1

và thực tiễn hơn một phần hai thế kỷ của Người .
Ở Việt Nam, một số định nghĩa về quyền con người do một số chuyên

gia, cơ quan nghiên cứu từng nêu ra cũng khơng hồn tồn giống nhau, nhưng
xét chung, quyền con người thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự
nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhân và bảo vệ trong
pháp luật quốc gia và các văn bản pháp lý quốc tế.
Theo Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người, quyền con
người là những bảo đảm pháp lý tồn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và
các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến
2

nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người.

Trong thực tế, khơng có một định nghĩa duy nhất, toàn diện và đạt được
sự đồng thuận tuyệt đối về quyền con người. Ngoài những điểm chung cơ bản
nhất định, những chi tiết cụ thể của những thuộc tính cấu thành quyền con
người thường xuyên bị thách thức và gây tranh luận. Thực sự, nhìn từ nhiều
phía, có lẽ phù hợp cả là coi cơng việc định nghĩa quyền con người như là
một q trình khơng có hồi kết, một q trình khám phá về mặt triết học và tự
lý giải bản thân. Mặc dù đã có những tiến bộ đáng kể trong việc nghiên cứu,
1

Luật quốc tế về quyền con người, sách phụ vụ nghiên cứu, giảng dạy, Nxb Lý luận chính trị, H. 2005, tr 53,
54, 55, 58

2

Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, Khoa Luật, Trường ĐH Quốc gia Hà Nội, Nxb Chính
trị quốc gia, H. 2009, tr 41,42.

18



tìm hiểu và pháp điển hóa các quyền con người trong các lĩnh vực luật pháp,
chính trị, xã hội học và triết học, nhưng vẫn còn nhiều điều cần phải làm trong
việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người.
Về mặt pháp lý, quyền con người là phẩm giá, năng lực, nhu cầu và lợi
ích hợp pháp của con người được thể chế, bảo vệ bởi luật quốc gia và luật
1

quốc tế.

Trong luật quốc tế, quyền con người có các đặc trưng là một thể thống
nhất, được xác định bằng những quyền năng, chuẩn mực cụ thể, mang tính
phổ cập và có sự thống nhất biện chứng giữa đặc tính dân tộc với đặc tính
nhân loại, giữa quyền cá nhân và quyền tập thể, giữa quyền con người và
quyền công dân. Mang bản chất là những quyền tự nhiên vốn có, quyền con
người là giá trị chung, phổ biến đối với mọi xã hội, quốc gia, dân tộc và gắn
với các điều kiện của quan hệ quốc tế. Còn bản chất xã hội làm cho quyền con
người phù hợp với đặc thù về lịch sử, chế độ chính trị, đặc trưng văn hóa,
truyền thống dân tộc và gắn với điều kiện, sự phát triển của kinh tế, văn hóa,
xã hội tại mỗi quốc gia.
Ở góc độ pháp lý, quyền con người được bắt đầu từ môi trường quốc
gia, trước khi cộng đồng quốc tế có thể thống nhất với nhau về những giá trị,
chuẩn mực, quy định hay nguyên tắc chung để điều chỉnh cách thức ứng xử
của các quốc gia hay quốc tế đều nhằm hạn chế tự do, xâm phạm quyền con
người của nhà nước trong cả hai lĩnh vực các quan hệ trong nội bộ quốc gia
và các quan hệ quốc tế.
1.1.2.2. Định nghĩa chống phân biệt chủng tộc
a. Định nghĩa phân biệt chủng tộc
Trước đây nhân chủng học coi chủng tộc là một tập hợp cá thể có
những đặc điểm tương đồng. Do đó, đã hình thành nguyên tắc trong phân loại

1

Giáo trình luật quốc tế, Trường ĐH Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, H. 2008, tr 137.

19


các chủng tộc mà nội dung chủ yếu là chỉ dựa vào sự kết hợp đúng đắn các
chủng tộc căn cứ trên quan hệ gần gũi thực sự giữa chúng.
Hiện nay, những hạn chế của định nghĩa cổ điển về chủng tộc đã được
bổ sung trên cơ sở những nhận thức mới. Đó là vai trị của khu vực địa lý
trong quá trình hình thành chủng tộc. Nhiều nhà khoa học đã có lý khi cho
rằng, chủng tộc xuất hiện do kết quả của sự sống cách biệt của một nhóm
người này đối với một nhóm người khác. Nói đến sự sống cách biệt chính là
đề cập đến khu vực địa lý và các điều kiện tự nhiên. Việc gắn chủng tộc với
khu vực địa lý được các nhà nhân học Xô Viết gọi là nguyên tắc địa lý trong
phân loại chủng tộc. Gần đây, việc phát hiện quần thể sinh học lại góp phần
hồn chỉnh hơn một định nghĩa về chủng tộc. Quần thể sinh học được hiểu là
quá trình phát triển trùng nhau và được đặc trưng bởi những đặc điểm hình
thái sinh lý với những đặc tính sinh thái nhất định... có thể thấy từng cá thể
riêng biệt khơng thể có những đặc trưng này. Chủng tộc không phải là một tập
hợp cá thể gộp lại căn cứ vào những tương đồng nhất định mà là một tập hợp
quần thể.
Do vậy theo tác giả luận văn, chủng tộc là một quần thể (hay tập hợp
quần thể mà ta quen gọi là những nhóm người) hình thành trong lịch sử trên
một lãnh thổ nhất định có một số đặc điểm chung trên cơ thể mang tính chất
di truyền. Các nhóm người này có những đặc trưng, đặc điểm di truyền về
hình thái-sinh lý mà nguồn gốc và quá trình hình thành của chúng liên quan
đến một vùng địa vực nhất định. Hay nói một cách khác, chủng tộc là những
nhóm người có một số đặc trưng hình thái giống nhau. Những đặc trưng đó

được di truyền lại.
Phân biệt chủng tộc và phân biệt đối xử đã được sử dụng làm vũ khí
mạnh mẽ khuyến khích sự sợ hãi hay căm thù của những người khác trong
thời gian xung đột và chiến tranh, và ngay cả trong suy thoái kinh tế.

20


×