Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Chức năng của viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử phúc thẩm hình sự một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.94 MB, 76 trang )


B ộ• GIÁO DỤC
VÀ ĐÀO TẠO



BỘ TƯ PHÁP•

TRƯỜNG ĐẠI
• HỌC LUẬT •HÀ NỘI




TRẦN XUÂN QUANG

CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI
ĐOẠN
XÉT XỬ PHÚC THẨM HÌNH s ư• - MỘT


VẤN ĐÈ LÝ LUẬN VÀ THựC TIỄN

Chuyên ngành

: Luật hình sự

M ã số

ĩ 603840


LUẬN VĂN THẠC s ĩ LUẬT HỌC








THƯ VIỆN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LỦÂT HÀ NỘI

N gười hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN ĐỬC MAI

HÀ NỘI - 2009

SỐ


M ỤC LỤC
Trang
MỞĐẦU
CHƯƠNG1: CO SỞ PHÁP LÝ VÈ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIẺM SÁT
TRONG GIAI ĐOẠN XÉT x ử PHÚC THẨM HÌNH s ự

1
6

1.1.


Khái niệm chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử
phúc thẩm hình sự

6

1.1.1.
Ị J 2

Khái quát chung về chức năng của Viện kiểm sát trong TTHS
Khái niệm chức năng của Viện kiếm sát trong giai đoạn xét xử
phúc thẩm hình sự

7

1.2.

Các hình thức thực hiện chức năng của Viện kiểm sát trong
giai đoạn xét xử phúc thấm hình sự

21

1.2.1.

Kháng nghị phúc thẩm

22

1.2.2.

Thực hành quyền cơng tố tại phiên tịa phúc thẩm


26

1.2.3. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử phúc thẩm hình sự
CHƯƠNG 2: THựC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỌNG CỦA VIỆN KIẺM SÁT TRONG GIAI
ĐOẠN XÉT XỬ PHÚC THẦM HÌNH sụ
2.1.

Thực trang thực hiện chức năng của Viện kiểm sát trong giai
đoạn xét xử phúc thấm những năm gần đây

34
38

38

2.1.1. Thực trạng hoạt động kháng nghị phúc thẩm hình sự

38

2.1.2. Thực trạng hoạt động thực hành quyền cơng tố tại phiên tịa và
kiểm sát việc tn theo pháp luật trong giai đoạn xét xử phúc thấm

42

2.2.

46


Những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn thực hiện chức năng của
Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử phúc thẩm và nguyên nhân

2.2.1. Những tồn tại và hạn chế

46

2.2.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động cùa Viện
2.3.
kiểm sát trong giai đoạn xét xử phúc thẩm hình sự

51

2.3.1. Giải pháp về pháp lý

58

2.3.2. Các giải pháp về tổ chức

62

2.3.3. Các giải pháp về con người
KÊT LƯẶN

65

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

69


57

67


DANH MỤC CÁC CHỮ VIÉT TẮT

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

HĐXX

: Hội đồng xét xử

KSV

: Kiểm sát viên

KSVTTPL

: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật

THQCT


: Thực hành quyền cơng tố

TAND

: Tịa án nhân dân

TANDTC

: Tịa án nhân dân tối cao

TAQS

: Tòa án quân sự

TTHS

: Tố tụng hình sự

VAHS

: Vụ án hình sự

VKS

: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân


VKSNDTC

: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng và Nhà nước đang tiến hành xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam XHCN mà một trong những nội dung chủ yếu của nó là cải cách tư
pháp nhằm xây dựng nền tư pháp vững mạnh, dân chủ, công bằng và nghiêm
minh theo hướng ngày càng chú trọng hon đến lợi ích của cá nhân và chổng
làm oan người vô tội. VKS là một trong những cơ quan trọng yếu trong hệ
thống các cơ quan tư pháp được giao thực hiện chức năng bảo đảm cho nền
pháp chế được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất. Trong Nghị quyết số
08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị "v ề một số nhiệm vụ trọng
tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới” (Nghị quyết số 08-NQ/TW) đã
chỉ rõ: "Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tổ và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tổ phải
được thực hiện ngay từ khi khởi tổ vụ án, trong suốt quá trình tổ tụng nhằm
đảm bảo không bỏ lột tội phạm, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời
những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng khi thi hành
nhiệm vụ. Nâng cao chất lượng công tổ của Kiểm sát viên tại phiên tòa, đảm
bảo cho tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người
tham gia tổ tụng khác

Đẻ có thể hồn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của


mình trước những u cầu của cơng cuộc cải cách tư pháp trong giai đoạn
hiện nay, việc đổi mới cả về tổ chức và hoạt động của VKS là một yêu cầu tất
yếu khách quan.
Trong những năm qua, hoạt động của VKS về thực hiện chức năng
THQCT và KSÝTTPL trong TTHS nói chung và trong xét xử các vụ án hình
sự nói riêng đã đạt được những kết quả đáng kể và đã góp phần tích cực vào
cuộc đấu tranh phịng chống tội phạm, bảo vệ có hiệu quả lợi ích của xã hội,
các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm việc xét xử của Toà án
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bằng việc kháng nghị kịp thời theo các
thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với các bản án, quyết


2

định của Tồ án có vi phạm pháp luật, VKS các câp đã góp phân hạn chê có
hiệu quả tình trạng oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động thực hiện chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn của VKS trong TTHS nói chung và xét xử các
vụ án hình sự nói riêng cũng còn bộc lộ nhiều yếu kém, hạn chế (như trong
một sổ trường hợp còn bỏ lọt tội phạm hoặc làm oan người vơ tội; việc kháng
nghị cịn hạn chế và chất lượng, hiệu quả chưa cao; việc tham gia xét hỏi và
tranh luận tại phiên tịa hình sự chưa tích cực, chủ động; tinh thần trách
nhiệm, trình độ và kỳ năng nghiệp vụ của KSV còn nhiều hạn chế, bất cập;...),
chưa đáp ứng được đầy đủ và kịp thời yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp
hiện nay.
Vì vậy, việc nghiên cứu nhằm tìm ra được các nguyên nhân của những
bất cập, hạn chế nêu trên để đưa ra các giải pháp đồng bộ, hữu hiệu nhằm
nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động thực hiện chức năng của VKS trong
xét xử phúc thẩm hình sự (và trong xét xử các vụ án hình sự nói chung) là

một yêu cầu cấp thiết, khách quan hiện nay.
Giai đoạn hiện nay chúng ta đang đẩy nhanh tiến trình cải cách tư pháp
theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
“Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020" (Nghị quyết số 49-NQ/TW),
trong đó việc tổ chức lại hệ thống các cơ quan Cơ quan điều tra, VKS và Toà
án được xác định là một khâu mang tính đột phá. Một trong những nội dung
quan trọng trong Nghị quyết này đề ra là "nghiên cứu chuyển Viện kiểm sát
thành Viện công tổ...

Yêu cầu này đã đặt ra cho khoa học pháp lý cần có

phương pháp tiếp cận mới, có cách nhìn mới cả về phương diện lý luận và
thực tiễn về chức năng, nhiệm vụ của VKS trong TTHS nói chung và trong
xét xử phúc thẩm hình sự nói riêng.
Tất cả những vấn đề mang tính thời sự như đã nêu trên cùng sự quan tâm,
mong muốn nghiên cứu của cá nhân chính là lý do mà tác giả đã lựa chọn
"Chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử phúc thẩm hình sự - Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn” làm đề tài Luận văn thạc sĩ luật học của mình.


3

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của VKS trong TTHS nói chung và
trong xét xử phúc thẩm nói riêng là vấn đề khơng có gì mới mẻ trong khoa
học pháp lý. Đen nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu của các tác giả về
vấn đề này ở các góc độ, phạm vi và cấp độ khác nhau như: Đe tài khoa học
cấp bộ "Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực tiễn hoạt động công
tổ ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay” (1999) của VKSNDTC; Luận án tiến sĩ
luật học "Quyền công tố ở Việt N a m ” (2002) của Lê Thị Tuyết Hoa; Luận

văn thạc sĩ luật học "Vai trò của Viện kiêm sát trong xét xử vụ án hình s ự ”
(2002) của Tơn Thiện Phương; Luận văn thạc sĩ luật học "Kiếm sát việc tuân
theo pháp luật trong TTHS - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ” (2005) của
Lê Lan Chi; Luận văn thạc sĩ luật học "Thực hành quyền công tổ theo
BLTTHS năm 2003 ” (2005) của Phan Vũ Trang; "Tranh luận tại phiên tòa sơ
thầm ” (2007) và "Tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm ” (2008), Nxb Tư Pháp
(TS. Dương Thanh Biểu chủ biên); "Tổ chức và hoạt động của Viện công tổ ở
Việt Nam ”(2007) của TS.Nguyễn Đức Mai (trong Đe tài khoa học cấp bộ của
VKSNDTC);...
Ngoài ra, cũng còn một số bài viết của nhiều tác giả khác đề cập đến vấn
đề này đăng trên các tạp chí chuyên ngành (Tạp chí Luật học, Tạp chí Kiểm
sát, Tạp chí Tịa án, Tạp chí nghiên cứu Lập pháp...). Tuy nhiên, các cơng
trình này nghiên cứu hoặc là mang tính bao quát về các vấn đề chung hoặc là
nghiên cứu một số nội dung về kỹ năng tranh tụng của KSV tại phiên tồ
hình sự. Cho đến nay, vấn đề “Chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn
xét x ử phúc thẩm hình s ự ” vẫn chưa được nghiên cứu một cách tồn diện và
có hệ thống trên cơ sở những vấn đề mà cả lý luận và thực tiễn đang đặt ra.
Việc tác giả lựa chọn "Chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử
phúc thẩm hình sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ” làm đề tài luận văn
thạc sĩ luật học là cần thiết nhằm kế thừa (có chọn lọc) những thành tựu đạt
được của các cơng trình nghiên cứu nêu trên, góp phần bổ sung, hồn thiện cả
về mặt lý luận và thực tiễn cho hoạt động thực hiện chức năng của VKS trong
giai đoạn xét xử phúc thấm hình sự.


4

3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài









o

* Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài nhằm làm sáng tỏ một số vấn đề
chung (khái niệm, phạm vi và nội dung) về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của VKS trong giai đoạn xét xử phúc thẩm hình sự và các hình thức thực hiện
chức năng này; Trên cơ sở phân tích và chỉ ra những bất cập, hạn chế và
vướng mắc trong thực tiễn hoạt động thực hiện chức năng của VKS trong giai
đoạn xét xử phúc thẩm hình sự, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động này của VKS, đáp ứng các yêu cầu của
công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cửu:
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
- Phân tích cơ sở pháp lý về chức năng của VKS trong giai đoạn xét xử
phúc thẩm hình sự;
- Làm rõ nội dung chức năng của VKS trong giai đoạn xét xử phúc thẩm
hình sự;
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động thực hiện chức năng của VKS
trong giai đoạn xét xử phúc thẩm hình sự những năm gần đây; chỉ ra những
bất cập, hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của chúng;
- Đe xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của VKS
trong giai đoạn xét xử phúc thẩm hình sự.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong phạm vi của một luận văn thạc sỹ và nhằm đảm bảo tính chuyên

sâu cần thiết của mỗi nội dung được đề cập nên đề tài chỉ giới hạn phạm vi
nghiên cứu về một số vấn đề lý luận và thực tiễn. Đề tài tập trung đi sâu
nghiên cứu một số vấn đề cơ bản về cơ sở pháp lý và thực trạng hoạt động
thực hiện chức năng của VKS trong xét xử phúc thẩm hình sự những năm gần
đây (2004 - 2007) để làm cơ sở cho việc đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động này của VKS trong giai đoạn xét xử phúc thẩm hình sự.


5

5. Co’ sỏ’ phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; các quan điểm
của Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của
dân, do dân, vì dân, đặc biệt là các quan điểm chỉ đạo của Đảng trong các
Nghị quyết số 08-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Ngồi ra, trong q trình nghiên cứu và thực hiện đề tài, tác giả đã sử
dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân
tích - tổng hợp; phương pháp hệ thống, phương pháp lịch sử, so sánh, khảo
sát thực tiễn, tham khảo ý kiến của các chuyên gia;...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
* về mặt lý luận:
Những kết quả nghiên cứu đạt được trong ỉuận văn có thể góp một phần
nhỏ làm phong phú thêm lý luận của khoa học pháp lý về chức năng, nhiệm
vụ và quyền hạn của VKS trong TTHS nói chung và trong giai đoạn xét xử
phúc thẩm hình sự nói riêng.
* về mặt thực tiễn:
Ở mức độ nhất định, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử
dụng làm tài liệu tham khảo trong q trình hồn thiện các quy định của pháp
luật về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của VKS trong TTHS. Ngồi ra,

nội dung của luận văn cũng có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo để xây
dựng nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ cho đội
ngũ KSV nhằm đáp ứng các yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp hiện nay.
7. Kết cấu của luân văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, phần nội
dung của Luận văn gồm 2 chương với 05 tiết.


6

Chương 1
CO SỎ PHÁP LÝ VÈ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT
TRONG GIAI ĐOAN XÉT x ử PHÚC THẨM HÌNH SƯ


1.1.



KHÁI NIỆM CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIẺM SÁT TRONG GIAI

ĐOẠN XÉT XỬ PHÚC THẨM HÌNH s ự
THQCT và KSVTTPL trong hoạt động tư pháp là chức năng hiến định
của VKS được ghi nhận tại Điều 137 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và Điều
1 Luật tổ chức VKSND năm 2002: " Viện kiêm sát nhân dán thực hành quyền
công tổ và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiển pháp và
pháp luật”. Tại Điều 23 BLTTHS quy định: “...Viện kiểm sát thực hành
quyền công tổ và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tổ tụng hình sự
nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời; việc khởi
tổ, điều tra truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đủng pháp luật,

không đê lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tộ i”.
Như vậy, theo quy định của pháp luật VKS có hai chức năng là TI IQCT
và KSVTTPL trong TTHS. Đây là hai chức năng đặc trưng, cơ bản của VKS
gắn bó chặt chẽ với nhau và xun suốt tồn bộ q trình TTHS từ giai đoạn
khởi tố, điều tra, truy tố đến giai đoạn xét xử các vụ án hình sự.
Trong giai đoạn xét xử, hai chức năng này của VKS được thực hiện chủ
yếu thông qua hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên toà sơ thấm, phúc
thẩm. Khi tham gia phiên toà, KSV đại diện cho VKS cùng cấp để THQCT,
tức là thực hiện chức năng buộc tội (cùng với các chủ thể khác của bên buộc
tội). Ngoài chức năng THQCT, khi tham gia phiên tồ, KSV cịn thực hiện
chức năng thứ hai là KSVTTPL trong hoạt động của HĐXX và các chủ thể
khác trong quá trình xét xử vụ án. Việc làm sáng tỏ hai chức năng này trong
giai đoạn xét xử phúc thẩm hình sự cần phải xuất phát từ khái niệm, nội dung,
phạm vi và chủ thể THQCT cũng như KSVTTPL trong TTHS.


7

1.1.1. Khái quát chung về chức năng của Viện kiểm sát trong tố tụng
hình sự
1.1.1.1. Quyền cơng tố và thực hành quyền công tố
* Quyền công tố:
Quyền công tố là một khái niệm pháp lý gắn liền với bản chất Nhà nước
và xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước. Việc tổ chức bộ máy Nhà nước
để thực íuện quyền công tố trong mỗi kiểu Nhà nước đều khác nhau và ln
gắn liền với q trình phát triển của Nhà nước, sự tổ chức quyền lực Nhà
nước, sự hoàn thiện và văn minh của hệ thống pháp luật.
Điều 138 Hiến pháp năm 1980 của nước ta quy định: "Viện kiểm sát
nhản dân ... thực hành quyền công tổ, bảo đảm cho pháp luật được thực
hành nghiêm chỉnh và thống nhất". Đây là văn bản pháp luật đầu tiên của

Nhà nước ta quy định về quyền công tố. Điều 137 Hiến pháp năm 1992 cũng
quy định tương tự. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có văn bản pháp luật nào
quy định về khái niệm quyền công tố. Do vậy, cả về phương diện lý luận
cũng như thực tiễn cịn nhiều quan điểm khác nhau về quyền cơng tố và đến
nay vấn đề này vẫn chưa được giải quyết một cách thống nhất, cụ thể là:
Quan điêm thứ nhất cho rằng quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà
nước đưa các vụ việc vi phạm pháp luật ra Tồ án để xét xử nhằm bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, bảo vệ lợi ích chung, bảo vệ lợi ích cá nhân... [14, tr.62-67]. Quan
điểm này đã quá mở rộng nội dung và phạm vi quyền công tố khi cho rằng quyền
này có cả trong lĩnh vực TTHS, tố tụng dân sự, kinh tế, lao động,...
Quan điểm thứ hai coi quyền công tố chỉ là một quyền năng, một hình
thức thực hiện chức năng KSVTTPL trong TTHS [34, tr.31]. Do vậy dẫn đến
việc xem nhẹ bản chất của quyền công tổ như một hoạt động độc lập của
VKS nhân danh quyền lực công.
Quan điểm thứ ba cho ràng quyền công tố là quyền của Nhà nước giao
cho VKS mà trực tiếp là KSV thay mặt Nhà thực hiện việc buộc tội tại phiên
tòa [35, tr.86-88]. Quan điểm này đã nhấn mạnh quyền công tố chỉ là quyền
buộc tội của VKS tại phiên tịa và như vậy thì phạm vi của quyền công tố bị


8

thu hẹp, chỉ giới hạn trong phiên tịa hình sự, mà khơng có ở các giai đoạn tố
tụng trước xét xử (khởi tố, điều tra, truy tố), về bản chất, quan điểm này đã
đồng nhất quyền công tố với quyền buộc tội và bảo vệ sự buộc tội của VKS
tại phiên tịa hình sự.
Quan điêm thứ tư (đây cũng là quan điếm được thừa nhận rộng rãi hiện
nay) cho rằng quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền này thuộc về
Nhà nước và được Nhà nước giao cho một cơ quan chuyên trách - cơ quan

công tố thực hiện (ở nước ta cơ quan này là VKS). Để thực hiện quyền này cơ
quan công tố phải có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập tài liệu, chứng cứ để
xác định tội phạm và người phạm tội trên cơ sở đó quyết định truy tố bị can
ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tịa [15, tr.40]. Những
người theo quan điểm này cho rằng quyền công tố là quyền buộc tội (quyền
truy cứu trách nhiệm hình sự) nhân danh Nhà nước đối với người phạm tội.
Do vậy, quyền công tố chỉ tồn tại trong một lĩnh vực duy nhất là TTHS mà
không thể tồn tại trong các lĩnh vực khác như tố tụng dân sự, hành chính,....
Mặt khác, theo quy định của pháp luật hiện hành thì quyền cơng tố gắn liền
với hoạt động điều tra, truy tố, xét xử cho nên có thể khẳng định quyền cơng
tố chỉ được thực hiện bởi một cơ quan duy nhất là VKS mà khơng có bất cứ
cơ quan nhà nước nào khác có thể thay thế được. Chúng tôi cho rằng quan
điểm này là hợp lý, có căn cứ và phù hợp với lý luận cũng như thực tiễn vì nó
phản ánh được bản chất, đối tượng, nội dung, phạm vi của quyền công tố
cũng như chủ thể thực hiện quyền công tố.
Như vậy, về bản chất, quyền công tố là quyền của Nhà nước truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Hay nói cách khác, bản chất của quyền
cơng tố là việc đòi trừng phạt những hành vi phạm tội để bảo vệ lợi ích cơng.
Từ phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về quyền cơng tố như sau:
Quyền công tổ là quyền của Nhà nước giao cho VKS để thực hiện việc truy
cứu trách nhiệm hình sự đổi với người đã thực hiện hành vi phạm tội và thực
hiện sự buộc tội đổi với người đó trước phiên tòa.


9

Từ khái niệm trên có thể xác định được đối tượng, nội dung và phạm vi
của quyền công tố.
- Đối tượng của quyền công tố là tội phạm và người phạm tội.
- Nội dung của quyền công tố là sự buộc tội đối với người đã thực hiện

hành vi nguy hiếm cho xã hội bị coi phạm tội.
- Phạm vi của quyền công tố bắt đầu từ khi phạm tội xảy ra và kết thúc
khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị.
* Thực hành quyền công tố:
Tương tự như vấn đề quyền công tố, khi đề cập đến hoạt động THQCT,
trong thời gian qua có khơng ít quan điếm nhận thức không chính xác, rõ ràng
hoặc nhầm lẫn giữa quyền công tố và THQCT, giữa thẩm quyền của VKS với
các quyền năng pháp lý để thực hiện thẩm quyền đó.
Như đã phân tích ở trên, quyền công tố là quyền của Nhà nước truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền này phát sinh ngay từ khi
có hành vi phạm tội xảy ra và kết thúc khi phán quyết của Tòa án nhân danh
công lý tuyên phạt đối với người đã thực hiện tội phạm có hiệu lực pháp luật.
Quyền cơng tố thể hiện rõ mối quan hệ giữa Nhà nước và người phạm tội do
chính hành vi phạm tội làm phát sinh. Đe bảo đảm thực hiện quyền công tố
trong thực tế đấu tranh chống tội phạm, Nhà nước đã ban hành các văn bản
pháp luật, trong đó quy định các quyền năng pháp lý mà cơ quan có thẩm
quyền được áp dụng để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
Các quyền năng đó được giao cho cơ quan nhà nước nào thực hiện để phát
hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội thì cơ
quan ấy được coi là cơ quan THQCT. Ở nước ta, Nhà nước chỉ giao cho VKS
thực hiện chức năng này cho nên VKS là cơ quan duy nhất có chức năng
THQCT.
Q trình giải quyết vụ án hình sự trải qua nhiều giai đoạn tổ tụng khác
nhau, mồi giai đoạn này tuy có tính độc lập tương đối nhưng liên quan chặt
chẽ với nhau. Mỗi giai đoạn thể hiện một nội dune, nhất định của hoạt động tổ
tụng và giai đoạn tố tụng trước là tiền đề cho giai đoạn tố tụng tiếp theo; giai


10


đoạn tố tụng sau kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động của giai đoạn trước đó
nhằm phát hiện và khắc phục kịp thời nhừng thiếu sót, sai lầm của giai đoạn
trước và tạo thành một quá trình tố tụng thống nhất và hoàn chỉnh. Theo pháp
luật TTHS nước ta, VKS thực hiện các hành vi tố tụng thuộc nội dung của
quyền công tố trong tất cả các giai đoạn tố tụng (từ khởi tố, điều tra, truy tố
và xét xử). Tuỳ thuộc vào từng giai đoạn tố tụng cụ thể mà việc sử dụng các
quyền năng pháp lý của VKS cũng khác nhau. Như vậy, THQCT là quá trình
hiện thực hố quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội
băng các quyên năng tương ứng mà Nhà nước trao cho một cơ quan nhât định.
Vì vậy, chúng tơi hồn tồn đồng tình với quan điểm cho rằng THQCT là
việc VKS sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền
công tổ để truv cứu trách nhiệm hình sự đổi với người phạm tội trong các
giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử [36, tr.28].
-

Phạm vi THQCT: Đe xác định đúng phạm vi THQCT trong xét xử

phúc thẩm hình sự khơng thể khơng xem xét đến phạm vi của quyền công tố
và THQCT. Nhiệm vụ của TTHS là mọi tội phạm xảy ra đều phải được phát
hiện và xử lý theo pháp luật. Khi tội phạm xảy ra, thì đồng thời làm xuất hiện
quan hệ giữa Nhà nước và người phạm tội. Điều đó có nghĩa là quyền cơng tố
cũng xuất hiện. Vì vậy, về ngun tắc thì phạm vi của quyền cơng tổ và
THQCT là đồng nhất với nhau, tức là đều xuất hiện từ khi có tội phạm xảy ra
cho đến khi bản án của Tịa án có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, không phải
tội phạm nào xảy ra cũng đều được phát hiện kịp thời và tiến hành khởi tố
(những trường hợp tội phạm ẩn) hoặc khi đã phát hiện tội phạm xảy ra nhưng
cũng cần có những hoạt động xác minh, thu thập tài liệu trước khi khởi tố
(các hoạt động tiền tố tụng). Mặt khác, không phải mọi trường hợp việc
THQCT đã được phát động đều được kết thúc bàng một bản án có hiệu lực
pháp luật mà có thể kết thúc sớm hơn khi có một trong những căn cứ được

quy định trong BLTTHS. Như vậy, trong thực tế thì phạm vi THQCT thường
hẹp hơn phạm vi của quyền công tố. Phạm vi THQCT bắt đầu từ khi khởi tố


11

vụ án hình sự và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, khơng bị kháng
nghị hoặc vụ án bị đình chỉ theo quy định của pháp luật TTHS.
-

Nội dung THQCT : Hiện nay vẫn còn một số quan điểm chưa thống

nhất về nội dung THQCT. Có quan điểm cho ràng, nếu coi khởi tố vụ án hoặc
bắt, tạm giam bị can là nội dung THQCT thì cả Cơ quan điều tra và Tòa án
cũng là cơ quan THQCT. Chúng tôi cho rằng nhận thức này là không chính
xác vì khơng phải cứ khởi tố vụ án hoặc bắt tạm giam bị can, bị cáo đều là
THQCT và cũng khơng phải chỉ có truy tố và buộc tội mới là THQCT. Nội
dung của THQCT là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý để thực
hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Vì vậy, chỉ có
cơ quan nào được phép sử dụng tất cả các quyền năng pháp lý này để truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong suốt quá trình TTHS
(từ khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử) thì mới là cơ quan THQCT. Ở nước ta
chỉ có VKS mới là cơ quan THQCT.
Ở đây cũng cần xác định rõ trong TTHS, thì những quyền năng pháp lý
nào thuộc về nội dung THQCT và những quyền năng pháp lý nào thuộc về
nội dung KSVTTPL. Trên cơ sở các quy định của BLTTHS và Luật tổ chức
VKSND chúng tôi cho rằng: Những quyền năng pháp lý mà VKS tự quyết
định và liên quan đến việc cáo buộc bị can, bị cáo là những quyền năng thuộc
nội dung THQCT; những quyền năng pháp lý mà VKS sử dụng để phát hiện
và yêu cầu các cơ quan tiền hành tố tụng, người tiền hành tố tụng và người

tham gia tố tụng khắc phục, xử lý vi phạm pháp luật là những quyền năng
thuộc nội dung KSVTTPL. Mặt khác, cũng có những hành vi tố tụng thể hiện
sự đan xen giữa THQCT và KSVTTPL trong TTHS. Ví dụ: Trong quyết định
kháng nghị phúc thẩm của VKS đối với bản án (quyết định) sơ thẩm chưa có
hiệu lực pháp luật của Tồ án có thể đồng thời bao hàm cả hai nội dung (một
là, có sự vi phạm trong việc áp dụng BLHS; hai là, vi phạm nghiêm trọng thủ
tục tố tụng) hoặc chỉ thề hiện một trong hai nội dung trên cũng làm phát sinh
trình tự xét xử phúc thẩm.


12

Từ phân tích trên có thê rút ra khái niệm: N ội dung THQCT là tông hợp
các quyền năng tổ tụng mà VKS sử dụng nhằm bảo đảm phát hiện kịp thời,
xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm và người
phạm tội, không ỉàm oan người vô tội, được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ
án và trong suốt quá trình tổ tụng.
1.1.1.2. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS
* Khái niệm KSVTTPL:
Trong khoa học luật TTHS Việt Nam chưa có một định nghĩa thống nhất
về khái niệm "kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS". Theo Từ điển
tiếng Việt, thì “kiểm sát là kiêm tra việc chấp hành pháp luật Nhà nước [27,
tr.523]. Theo Từ điển Luật học thì “kiểm sát hoạt động tư pháp là kiểm tra,
giám sát, xem xét, theo dõi việc tuân theo pháp luật đối với hoạt động điều
tra, truy tố, xét xử, thỉ hành án, giam giữ, cải tạo của các cơ quan tiến hành
tổ tụng và giải quyết các hành vi phạm pháp, kiện tụng trong nhân dân nhằm
đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất [37,
tr.441]. Cả hai định nghĩa này đều chưa bao quát được chủ thể của hoạt động
kiểm sát.
Điều 23 BLTTHS quy định: "...Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo

pháp luật trong tổ tụng hình sự có trách nhiệm p hát hiện kịp thời vi phạm
pháp luật của các cơ quan tiến hành tổ tụng, người tiến hành tổ tụng và
người tham gia tổ tụng, áp dụng những biện pháp do Bộ luật này quy định để
loại trừ việc vỉ phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân n à y”. Như
vậy, có thể nói theo quy định tại của pháp luật hiện hành thì chỉ có một chủ
thể duy nhất là VKS có chức năng KSVTTPL trong TTHS.
Mặt khác, theo quy định tại Điều 32 BLTTHS, thì các chủ thể khác (như
các cơ quan, tổ chức, đại biểu dân c ử ...) có quyền giám sát hoạt động của các
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; giám sát việc giải quyết
khiếu nại tố cáo của các cơ quan tiền hành tổ tụng, người tiến hành tố tụng.
Vấn đề đặt ra ở đây là các chủ thể này có được coi là một trong các chủ thể
của hoạt động KSVTTPL trong TTHS hay không? Chúng tôi cho rằng “giám


13

sát” và “kiêm sát” là hai khái niệm khác nhau. Quyền giám sát của các chủ
thể nêu trên đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng,... chỉ là hoạt động mang tính tự nguyện nhằm hướng tới việc
“phát hiện kịp thời vị phạm pháp lu ậ t’’ và “loại trừ vi phạm pháp lu ậ t” của
những cơ quan hoặc cá nhân trong TTHS. Vì vậy, hoạt động này khơng thể
coi là hoạt động KSVTTPL trong TTHS. Còn KSVTTPL là các quyền, nghĩa
vụ phát sinh từ chức năng hoạt động chuyên trách của một cơ quan nhà nước
là VKS. Sự khác nhau giữa hoạt động kiểm sát của VKS và hoạt động giám
sát của các chủ thể khác chính là phương thức và các quyền năng pháp lý mà
pháp luật cho phép VKS khi thực hiện chức năng KSVTTPL. Tuy nhiên, xuất
phát từ ý nghĩa đặc biệt quan trọng của hoạt động giám sát này nên có thể coi đây
là các thiết chế bổ trợ cho hoạt động KSVTTPL trong TTHS.
Ngoài ra, khơng thể khơng nhắc tới vai trị giám sát lẫn nhau giữa các cơ
quan tiến hành tố tụng. Xuất phát từ đặc thù của quan hệ phối họp, chế ước

lẫn nhau trong TTHS, Cơ quan điều tra, Tịa án có thể phát hiện và kiến nghị
xử lý các quyết định, hành vi tổ tụng của nhau và của VKS nếu nhận thấy có
vi phạm pháp luật.
Theo Lý luận Nhà nước và pháp luật, thì “tuân theo pháp luật" là một
dạng thực hiện pháp luật mang tính chất thụ động, thế hiện ở việc các chủ thể
phải kiềm chế bản thân để không thực hiện những hành vi mà pháp luật cấm
[28,tr.464]. Như vậy, nếu hiểu “tuân theo pháp luật” trong khái niệm “kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS” nêu trên thì nội hàm của khái niệm
này sẽ bị thu hẹp đáng kể. Theo quy định của pháp luật hiện hành, thì đối
tượng của KSVTTPL trong TTHS khơng chỉ có hoạt động tuân theo pháp
luật (ở dạng thụ động) mà còn bao gồm cả các hoạt động thực hiện pháp luật
khác ở mức độ cao hơn (như: hoạt động áp dụng pháp luật, sử dụng pháp luật
của các cơ quan tiến hành tố tụng).
Theo Luật tổ chức VKSND và BLTTHS, thì hoạt động KSVTTPL trong
TTHS được chia thành các bộ phận khác nhau gắn liền với từng giai đoạn
TTHS: Kiểm sát điều tra, Kiểm sát xét xử, Kiểm sát thi hành án,... Mồi bộ


14

phận này có đối tượng, phạm vi và nhiệm vụ, quyền hạn riêng nhưng liên hệ
mật thiết với nhau và đều là hoạt động thực hiện chức năng KSVTTPL của
VKS đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng, người tham gia tố tụng nhằm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của
bất kỳ ai, của bất kỳ cơ quan hay tổ chức nào trong suốt q trình giải quyết
vụ án. Ngồi ra, khi phát hiện các vi phạm của các đối tượng kể trên, VKS có
trách nhiệm kịp thời áp dụng những biện pháp thích hợp do pháp luật quy
định để loại trừ vi phạm đó.
Từ những nội dung trình bày trên, có thể đưa ra khái niệm: KSVTTPL
trong TTHS là tỏng hợp các quyền năng pháp lý của VKS, có nội dung là

kiêm tra, giám sát hoạt động tuân theo pháp luật của tất cả các chủ thể tham
gia TTHS trong quá trình điều tra, truy tổ, xét xử và thi hành án hình sự,
nhằm bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất.
* Đồi tượng KSVTTPL:
Pháp luật TTHS quy định trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự, chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng,
nhiệm vụ, quyền hạn của những người tiến hành tố tụng, quyền và nghĩa vụ
của những người tham gia tố tụng. Vi vậy, kiểm sát hoạt động của các chủ thể
trong TTHS chính là kiểm sát việc các chủ thể có tuân thủ đúng và đầy đủ các
quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hay không.
Hoạt động của các chủ thể trong TTHS bao bao gồm: Hoạt động của các
cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, VKS, Tòa án) và tương ứng là
hoạt động của những người tiến hành tố tụng (Thủ trưởng, phó Thủ trưởng
Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện trưởng, phó Viện trưởng VKS, KSV;
Chánh án, phó Chánh án Tịa án,Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án); Hoạt
động của những người tham gia tố tụng như: Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo,
người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người bào chữa, người làm
chứng; của các cơ quan, tổ chức và công dân tham gia vào TTHS trong
những trường hợp nhất định. Tóm lại, việc tuân theo pháp luật của các chủ
thể tham gia vào TTHS là đối tượng của KSVTTPL trong TTHS. Tất nhiên,


15
í)

đối tượng của KSVTTPL trong TTHS khơng thể bao gồm việc tuân theo
pháp luật của chính bản thân VKS.
* Phạm vi KSVTTPL:
Theo quy định của pháp luật TTHS, thì hoạt động KSVTTPL của VKS
được thực hiện liên tục trong toàn bộ các giai đoạn của quá trình TTHS (bắt

đầu từ thời điểm khởi tố vụ án hình sự và kết thúc sau khi bản án có hiệu lực
pháp luật được thi hành xong). Tuy nhiên, hoạt động KSVTTPL trong mỗi
giai đoạn tố tụng lại do các chủ thể - các VKS khác nhau (theo phân cấp) thực
hiện. Căn cứ vào chủ thể thực hiện hoạt động này có thể phân hoạt động
KSVTTPL trong TTHS thành các hoạt động cụ thể sau đây: Hoạt động
KSVTTPL ở giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm vụ án (hoạt động
này do VKS cấp sơ thẩm thực hiện); Hoạt động KSVTTPL ở giai đoạn xét xử
phúc thẩm (do VKS cấp phúc thẩm thực hiện); Hoạt động KSVTTPL ở giai đoạn
giám đốc thẩm, tái thẩm (do VKS cấp giám đốc thẩm, tái thẩm thực hiện)...
* N ội dung KSVTTPL:
Nội dung của hoạt động KSVTTPL trong TTHS được thể hiện qua các
quyền năng pháp lý mà VKS được sử dụng để phát hiện vi phạm và yêu cầu
xử lý vi phạm của các chủ thể tham gia vào TTHS, nhằm đảm bảo cho pháp
luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Căn cứ vào các quy định tại các Điều 23, 36, 37, 113,... BLTTHS, Điều
4, 14, 18, 24, 27,...Luật tổ chức VKSND có thể phân các quyền năng trên
thành những nhóm sau:
- Các quyền năng nhằm phát hiện vi phạm pháp luật bao gồm các quyền
kiểm tra, giám sát hoạt động khởi tố, điều tra, hoạt động xét xử, hoạt động thi
hành án... Các quyền năng này nhằm bảo đảm cho VKS phát hiện được các
vi phạm, xác định nguyên nhân và điều kiện dẫn đến vi phạm. Trên cơ sở đó đưa
ra các biện pháp để khắc phục vi phạm, bảo đảm sự tuân thủ triệt để pháp luật.
- Các quyền năng của VKS về yêu cầu khắc phục, xử lý vi phạm đối với
các chủ thể tham gia vào TTHS. Các quyền này bao gồm: kiến nghị, yêu cầu
khắc phục vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra; yêu cầu Thủ trưởng Cơ


16

quan điều tra xử lý đối với Điều tra viên đã vi phạm pháp luật trong quá trình

điều tra; kiến nghị, kháng nghị trong công tác kiểm sát xét xử.
1.1.2.

Khái niệm chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử

phúc thẩm hình sự
Mối quan hệ giữa chức năng chung của VKS trong TTHS và chức năng
của VKS trong từng giai đoạn TTHS cụ thể là mối quan hệ giữa “cái chung”
và “cái riêng”, giữa “tổng thế” và “bộ phận”. Vì vậy, từ chức năng chung của
VKS trong TTHS bao gồm chức năng THQCT và chức năng KSVTTPL (như
đã phân tích tại tiểu mục 1.1.1), có thể rút ra kết luận trong giai đoạn xét xử
phúc thẩm hình sự VKS cũng thực hiện hai chức năng là THQCT và
KSVTTPL. Khái niệm, phạm vi, nội dung THQCT và KSVTTPL trong giai
đoạn xét xử phúc thấm hình sự cũng được xác định trên cơ sở khái niệm,
phạm vi, nội dung của THQCT và KSVTTPL trong TTHS nói chung.
1.1.2.1.

Khái niệm, phạm vi và nội dung THQCT trong giai đoạn xét

x ử phúc thẩm hình sự
* Khái niệm THQCT trong giai đoạn xét x ử phúc thẩm:
Là một giai đoạn độc lập của quá trình TTHS, xét xử phúc thẩm phát
sinh trên cơ sở kháng cáo của bị cáo, của những người tham gia tố tụng khác
hoặc kháng nghị của VKS cùng cấp hoặc của VKS cấp trên trực tiếp. Giai
đoạn tố tụng này bắt đầu sau khi bản án, quyết định sơ thẩm được tuyên và
kết thúc khi Toà án cấp phúc thẩm tuyên bản án hoặc quyết định phúc thẩm.
Nhiệm vụ của giai đoạn này là xét xử lại vụ án về mặt nội dung cũng như
kiểm tra lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm.
Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực thi hành ngay.
Vì vậy, từ khái niệm chung về THQCT trong TTHS (đã đề cập ở trên),

có thế rút ra khái niệm: THQCT trong giai đoạn xét xử phúc thâm là hoạt
động của VKS thực hiện các quyền năng pháp lý theo quy định của pháp luật
TTHS nhằm bảo đảm việc xét xử đủng người, đúng tội, đúng pháp luật, không
đê lột tội phạm và làm oan người vô tội.


17

* Phạm vi THQCT trong giai đoạn xét xử phúc thẩm:
Do tính chất của xét xử phúc thẩm là "xét xử lại vụ ản hoặc quyết định
sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đổi với vụ án đó chưa có hiệu lực
pháp luật bị kháng cáo hoặc khánh nghĩ'’ cho nên thủ tục xét xử phúc thẩm
chỉ phát sinh khi có kháng cáo hoặc kháng nghị. Hay nói cách khác, kháng
cáo, kháng nghị phúc thẩm là căn cứ làm phát sinh trình tự phúc thẩm. Theo
quy định của BLTTHS, thì sau khi tuyên án, bản án và quyết định sơ thẩm
chưa có hiệu lực thi hành ngay mà trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày
tuyên án, người kháng cáo có quyền kháng cáo, VKS cùng cấp có quyền
kháng nghị; và trong thời hạn ba mươi ngày kể từ ngày tuyên án VKS cấp
trên trực tiếp có quyền kháng nghị. Trong thời hạn này VKS và người có
quyền kháng cáo có thể kháng cáo, kháng nghị bất cứ lúc nào. Vì vậy, trong
giai đoạn phúc thẩm hình sự phạm vi THQCT được bắt đầu từ sau khi tuyên
bản án, quyết định sơ thẩm và kết thúc sau khi Tòa án phúc thẩm tuyên án
hoặc vụ án bị đình chỉ theo quy định của pháp luật.
* N ội dung THQCT trong giai đoạn xét x ử phúc thẩm:
v ề cơ bản, nội dung THQCT trong giai đoạn xét xử phúc thẩm tương tự
như nội dung THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Tuy
nhiên, khác với giai đoạn xét xử sơ thẩm nội dung THQCT trong xét xử phúc
thẩm có thêm thấm quyền kháng nghị phúc thẩm nhưng khơng có hoạt động
cơng bố cáo trạng, khi tranh luận KSV phát biểu quan điểm của VKS về việc
giải quyết vụ án. Mặc khác, theo quy định tại Điều 241 BLTTHS, Tòa án cấp

phúc thẩm xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị. Nếu xét thấy cần thiết
thì Tịa án có thể xem xét cả các phần khác khơng bị kháng cáo, kháng nghị.
Vì vậy, nội dung hoạt động THQCT trong xét xử phúc thẩm cũng được thực
hiện tương ứng với phạm vi xét xử của Tòa án cấp phúc thẩm, tức là VKS chỉ
thực hiện hoạt động THQCT đối với những vấn đề thuộc nội dung kháng cáo,
kháng nghị và những vấn đề khác khi thấy cần tjhiết.-------------- -

THƯ VIỆN
ỈRƯONG ĐẠI HỌC LỦÂĨ h à

nôi


18

1.1.2.2.

Khái niệm, đối tượng, phạm vi và nội dung KSVTTPL trong

giai đoạn xét x ử phúc thẩm hình sự
* Khải niệm KSVTTPL trong giai đoạn xét x ử phúc thẩm :
Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm hình sự hoạt động KSVTTPL có nội
dung là kiếm tra, giám sát hoạt động thực hiện pháp luật của Tòa án và những
người tham gia tố tụng trong giai đoạn xét xử phúc thẩm hình sự nhằm bảo
đảm cho việc xét xử được tiến hành đúng các quy định của pháp luật.
Từ khái niệm chung về KSVTTPL trong TTHS (đã nêu ở phần trên) có
thể rút ra khái niệm: KSVTTPL trong giai đoạn xét x ử phúc thâm là tông hợp
các quyền năng pháp lý của VKS, có nội dung là kiểm tra, giảm sát hoạt động
tuân theo pháp luật của tất cả các chủ thể tham gia TTHS trong giai đoạn
phúc thâm nhằm bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và

thong nhất.
* Đối tượng của KSVTTPL trong giai đoạn xét x ử phúc thẩm'.
Đối tượng của KSVTTPL trong giai đoạn xét xử phúc thẩm là sự tuân
theo pháp luật của Tòa án cấp phúc thẩm và những người tham gia tố tụng
trong giai đoạn tố tụng này. Khi tiến hành các hoạt động kiểm sát, VKS
không chỉ dựa trên các quy định của BLTTHS mà còn trên các căn cứ pháp lý
khác là Hiến pháp, Luật tổ chức VKSND, BLHS và các văn bản pháp luật
khác có liên quan để kiểm tra, giám sát sự tuân thủ pháp luật của các chủ thể
là đổi tượng của hoạt động kiểm sát cũng như để bảo đảm tính hợp pháp và
có căn cứ của chính hoạt động kiểm sát của VKS.
* Phạm vi KSVTTPL trong giai đoạn x ét x ử phúc thẩm:
Khi có kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm, Tịa án cấp trên trực tiếp của
Tòa án đã xét xử sơ thẩm sẽ tiến hành các hoạt động tố tụng để mở phiên tòa
phúc thẩm xét xử lại vụ án về nội dung cũng như xét lại tính hợp pháp, tính
có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm. Những người có liên quan đến việc
kháng cáo, kháng nghị có quyền tham gia phiên tịa phúc thẩm để bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Như vậy, khi có kháng cáo, kháng nghị
hợp lệ (hoặc tuy kháng cáo quá hạn luật định nhưng được chấp nhận) thì mặc


19

nhiên phát sinh thủ tục xét xử phúc thấm của Tòa án và hoạt động của các
chủ thể tham gia TTHS khác. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật, thì
trong thời hạn (15 ngày đối với VKS cấp sơ thẩm và 30 ngày đối với VKS
cấp trên trực tiếp), kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, VKS có quyền kháng nghị
đối với bản án sơ thẩm. Vì vậy, để đảm bảo các hành vi tố tụng của các chủ
thể nói trên tn thủ pháp luật, thì hoạt động KSVTTPL của VKS trong giai
đoạn xét xử phúc thẩm được bắt đầu ngay từ thời điểm sau khi tuyên bản án
sơ thẩm.

Theo quy định tại Điều 248 và Điều 253 BLTTHS, bản án hoặc quyết
định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án hoặc kể từ ngày ra
quyết định. Điều đó đồng nghĩa với việc hoạt động THQCT cũng được kết
thúc. Tuy nhiên đối với hoạt động KSVTTPL, phạm vi kết thúc của hoạt
động này sau khi VKS thực hiện xong quyền kiểm tra, giám sát tính có căn
cứ và hợp pháp của bản án phúc thẩm. Qúa trình kiểm sát nếu phát hiện bản
án phúc thẩm có vi phạm pháp luật thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà VKS
kiến nghị với Tòa án khắc phục hoặc đề nghị VKS cấp trên kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm.
* N ội dung KSVTTPL trong giai đoạn xét x ử phúc thẩm'.
Nội dung các quyền năng của VKS khi tiến hành KSVTTPL trong giai
đoạn xét xử phúc thẩm hình sự là tất cả những quyền năng pháp lý mà VKS
được sử dụng để phát hiện những sai lầm, thiếu sót, những vi phạm pháp luật
trong các hoạt động tố tụng của cấp sơ thẩm (bao gồm cả các sai sót thể hiện
trong bản án, quyết định sơ thẩm) và các hoạt động tố tụng của các chủ thể ở
giai đoạn phúc thẩm (việc chuẩn bị xét xử phúc thẩm, việc xét xử tại phiên
tòa phúc thẩm), kịp thời áp dụng những biện pháp (kháng nghị, kiến nghị...)
để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm khắc phục.
1.1.2.3.

Quan hệ giữa THQCT và KSVTTPL trong giai đoạn xét xử

phúc thẩm hình sự
Từ phân tích về khái niệm THỌCT và KSVTTPL trong giai đoạn xét xử
phúc thấm hình sự cũng như đối tượng, phạm vi, nội dung giữa hai chức năng


20

này, có thể thấy rằng tuy đây là hai chức năng độc lập, có đối tượng tác động,

phạm vi và nội dung hoạt động khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ, tác
động qua lại với nhau. Kết quả của hoạt động kiểm sát là cơ sở cho hoạt động
THQCT có hiệu quả và ngược lại kết quả của hoạt động THQCT cũng là tiền
đề cho hoạt động KSVTTPL. Thực tiễn hoạt động thực hiện chức năng của
ngành kiểm sát cho thấy, trên cơ sở các quy định của pháp luật, VKS các cấp
luôn quán triệt quan điểm đấu tranh chống tội phạm gắn liền với đấu tranh
chống vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp hình sự nhằm bảo đảm mọi
hành vi phạm tội đã được phát hiện đều phải được điều tra và xử lý nghiêm
minh theo pháp luật; các bản án, quyết định của Tòa án phải bảo đảm tính
hợp pháp và có căn cứ; mọi hoạt động xét xử phải tuân thủ chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Pháp luật TTHS nước ta quy định nguyên tắc hai cấp xét xử, đây cũng
là thông lệ chung của các quốc gia khác trên thế giới. Theo nguyên tắc này,
bản án hoặc quyết định sơ thẩm khơng có hiệu lực ngay sau khi tun án mà
có thể bị kháng cáo, kháng nghị yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại
vụ án. Kháng nghị của VKS đối với các bản án, quyết định sơ thẩm có vi
phạm pháp luật vừa thể hiện kết quả hoạt động KSVTTPL trong xét xử, vừa
thể hiện trách nhiệm THQCT của VKS bảo đảm nguyên tắc "không ai có thể
bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tịa án
đã có hiệu lực pháp luật", đồng thời khơng để xảy ra các trường hợp xét xử
oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm. Như vậy, kháng nghị phúc thẩm là một quyền
năng pháp lý quan trọng mà Nhà nước chỉ trao cho VKS nhằm đảm bảo cho
pháp luật được tuân thủ thống nhất và nghiêm minh.
Khi bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực bị kháng cáo,
kháng nghị, Tòa án phúc thẩm sẽ tiến hành nhiều biện pháp nhằm làm sáng tỏ
nội dung kháng cáo, kháng nghị, xem xét những vấn đề khác có liên quan,
đồng thời chuẩn bị các điều kiện cần thiết để đưa vụ án ra xét xử. Trong tồn
bộ q trình này, VKS có nhiệm vụ KSVTTPL đối với tất cả các hoạt động tố
tụng của HĐXX và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa phúc



21

thẩm. Hoạt động này của KSV cũng là một yếu tố bảo đảm cho hoạt động
THQCT của KSV tại phiên tòa (như tham gia xét hỏi, phát biểu quan điểm
của VKS, tranh luận, đối đáp, đề nghị HĐXX chấp nhận hay khơng chấp
nhận (tồn bộ hay một phần) kháng cáo, kháng nghị,... ) đạt hiệu quả cao.
Nếu KSV theo dõi chặt chẽ diễn biến phiên tòa, kịp thời phát hiện những vi
phạm, thiếu sót trong q trình giải quyết vụ án của HĐXX đế yêu cầu khắc
phục ngay thì các hoạt động của KSV tại phiên tòa cũng sẽ đạt kết quả tốt,
đảm bảo việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Như vậy, THQCT và KSVTTPL trong xét xử phúc thẩm hình sự là hai
chức năng có tính độc lập tương đối nhưng quan hệ chặt chẽ với nhau tạo
thành hai mặt thống nhất trong hoạt động của VKS ở giai đoạn tố tụng này.
Chức năng KSVTTPL nhằm đảm bảo cho hoạt động tố tụng được hợp pháp,
khách quan, đầy đủ, tương hỗ cho chức năng THỌCT nhằm làm sáng tỏ sự
thật khách quan của vụ án, xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật đồng
thời là một trong các giải pháp để hạn chế độc quyền, lạm quyền trong xét xử

[6, tr. 18].
Cả hai chức năng này đều có chung mục đích là nhằm bảo đảm để vụ án
được giải quyết đúng đắn, khách quan và cơng bằng. Tính độc lập của hai
chức năng này chỉ là tương đối, bởi lẽ trong một số trường hợp khó có thể
phân định cụ thể và rõ ràng giữa hai chức năng này. Việc thực hiện đồng thời
hai chức năng này tại phiên toà là nhiệm vụ hết sức nặng nề đòi hỏi mỗi KSV
phải nỗ lực rèn luyện, phấn đấu và nêu cao tinh thần trách nhiệm mới có thể
hồn thành tốt nhiệm vụ này.
1.2. CÁC HÌNH THỨC THỤC HIỆN CHÚC NĂNG CỦA VIỆN KIẺM







SÁT TRONG GIAI ĐOẠN XÉT x ử PHỨC THẨM HÌNH s ự
Chức năng của VKS trong giai đoạn xét xử phúc thẩm được thực hiện
thơng qua các hình thức cơ bản đó là: Kháng nghị phúc thẩm; THQCT và
KSVTTPL tại phiên tòa phúc thẩm.


×