Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Biện pháp bảo đảm trong thi hành án dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.4 MB, 105 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ THẮNG

ĐỀ TÀI

BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ THẮNG

ĐỀ TÀI

BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự


Mã số: 60380103

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Trần Phƣơng Thảo

Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ cơng
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được
trích dẫn theo đúng quy định.
Tơi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thắng


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BPBĐTHA

: Biện pháp bảo đảm thi hành án

BPBĐTHADS

: Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự

BPCCTHA


: Biện pháp cưỡng chế thi hành án

BPCCTHADS

: Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự

CHV

: Chấp hành viên

CQTHA

: Cơ quan thi hành án

CQTHADS

: Cơ quan thi hành án dân sự

LTHADS

: Luật Thi hành án dân sự

LTHADS 2008

: Luật Thi hành án dân sự năm 2008

LTHADS 2014

: Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung) năm 2014


THA

: Thi hành án

THADS

: Thi hành án dân sự

TPL

: Thừa phát lại


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU......................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .....................................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................4
4. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu .........................................................5
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu .......................................................5
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa pháp lý .......................................................................6
7. Cơ cấu của luận văn ................................................................................................ 6
NỘI DUNG ..................................................................................................................... 7
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BIỆN PHÁP BẢO
ĐẢM THI HÀNH ÁN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ....................................7
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của biện pháp bảo đảm thi hành án trong thi hành án dân
sự ............................................................................................................................... 7
1.2. Cơ sở của việc quy định biện pháp bảo đảm trong thi hành án dân sự ...........22
CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VIỆT
NAM HIỆN HÀNH VỀ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM TRONG THI HÀNH ÁN

DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ...................................................................28
2.1. Các biện pháp bảo đảm trong thi hành án dân sự và thực tiễn áp dụng ..........28
2.2. Thủ tục áp dụng biện pháp bảo đảm trong thi hành án dân sự và thực tiễn áp
dụng ........................................................................................................................51
2.3. Trách nhiệm của các chủ thể do yêu cầu, áp dụng biện pháp bảo đảm trong thi
hành án dân sự ........................................................................................................58
CHƢƠNG 3. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VỀ BIỆN
PHÁP BẢO ĐẢM TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ .........................................63
3.1. Yêu cầu hoàn thiện quy định của pháp luật thi hành án dân sự về biện pháp
bảo đảm trong thi hành án dân sự ...........................................................................63
3.2. Những quy định của pháp luật về biện pháp bảo đảm trong thi hành án dân sự
cần được sửa đổi, bổ sung.......................................................................................68
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 77


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
“Chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người”1 là
yêu cầu bức thiết của mọi người dân trong nước, đồng thời là yêu cầu, là xu thế tất yếu
của thời đại. Nhận biết được tinh thần đó, Nghị quyết 08-NQ/TƯ ngày 2/1/2002 của Bộ
chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị
quyết 49-NQ/TƯ ngày 2/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến
năm 2020 đã nhấn mạnh đến nội dung cải cách về THA nhằm hiện thực hóa quyền con
người, quyền cơng dân.
Hiện nay Việt Nam là một nước đang phát triển với tinh thần hội nhập sâu rộng
quốc tế, phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo đó, việc
hội nhập nền kinh tế quốc tế đem lại cho chúng ta nhiều cơ hội phát triển như tiếp cận
nền kinh tế sôi động, phát triển trên thế giới, nhận được nhiều ưu đãi và cơ hội thu hút
đầu tư. Các giao dịch thương mại, dân sự đa dạng và sôi động đem lại ưu thế nhanh
chóng, thuận tiện cho các bên, song cũng tồn tại những thách thức, mặt trái của các vấn

đề đó như một trong các bên của giao dịch hoặc những đối tượng khác có thể lợi dụng
sự phát triển của cơng nghệ phát triển thực hiện việc chuyển dịch tài sản với mục đích
xấu, trong đó có đối tượng là người phải THA. Đương sự là người phải THA thường có
tâm lý chây ỳ, trốn tránh THA, không tự nguyện thi hành theo đúng bản án, quyết định
đã tuyên. Vì vậy, họ có thể thực hiện việc hủy hoại, tẩu tán tài sản, trốn tránh THA, dẫn
đến mất điều kiện THA, hiệu quả THA không cao. Để ngăn chặn những hành vi đó, pháp
luật THADS trao quyền cho CQTHADS được phép áp dụng các biện pháp phù hợp, đó có
thể là biện pháp cưỡng chế hoặc biện pháp bảo đảm, tùy từng trường hợp cụ thể.
LTHADS 2008, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2009, lần đầu tiên quy
định về biện pháp bảo đảm. Qua 05 năm triển khai công tác bảo đảm THADS đã đạt
được những kết quả nhất định, song cũng chính từ thực tiễn thực hiện đã cho thấy quy
định của LTHADS 2008 đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Do đó năm 2014, LTHADS
2008 đã được sửa đổi, bổ sung với nhiều nội dung liên quan đến biện pháp bảo đảm.
Tuy nhiên, việc thực hiện LTHADS 2014 trong thời gian qua vẫn cho thấy có những
1

Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, tr. 134.

1


quy định không phù hợp với yêu cầu đảm bảo mục đích ngăn chặn, đảm bảo điều kiện
THA. Thực tế này đòi hỏi các nhà lập pháp cũng như các nhà áp dụng pháp luật một
lần nữa cần nhìn lại bản chất của của BPBĐTHADS, các quy định về biện pháp này
cần phải phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế, phù hợp với công cuộc cải cách tư pháp
ở nước ta. Việc nghiên cứu đề tài: “Biện pháp bảo đảm trong thi hành án dân sự”
vào lúc này là hết sức cần thiết. Nghiên cứu thành công đề tài này không những giải
quyết được những vướng mắc về mặt lý luận của biện pháp bảo đảm trong THADS,
góp phần hoàn thiện pháp luật THADS về biện pháp bảo đảm, đáp ứng yêu cầu của

công cuộc cải cách tư pháp mà còn cung cấp thêm nguồn tài liệu cho việc giảng dạy và
nghiên cứu khoa học pháp lý.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
BPBĐTHADS là một vấn đề pháp lý tương đối mới, thể hiện sự thay đổi trong
quan niệm lập pháp về THADS, lần đầu tiên được ghi nhận trong LTHADS 2008. Mặc
dù vậy BPBĐTHA đã được nhiều nhà nghiên cứu khoa học và các cán bộ thực tiễn sự
quan tâm dưới các góc độ khác nhau.
Trong Giáo trình Luật Thi hành án dân sự của Trường Đại học Luật Hà Nội, biện
pháp bảo đảm và biện pháp cưỡng chế được đề cập tại Chương V, trong đó biện pháp
bảo đảm được phân tích với các nội dung cơ bản về khái niệm, ý nghĩa và từng biện
pháp bảo đảm cụ thể. Giáo trình Kỹ năng thi hành án dân sự của Học viện Tư pháp đề
cập về biện pháp bảo đảm với nội dung chủ yếu về một số vấn đề chung về biện pháp
bảo đảm và trình tự, thủ tục áp dụng BPBĐTHA. Giáo trình Cơng tác thi hành án dân sự
Việt Nam của Trường Trung cấp Luật Buôn Ma Thuột đề cập biện pháp bảo đảm và
biện pháp cưỡng chế trong THADS tại chương V với nội dung cơ bản về khái niệm, ý
nghĩa, mối liên hệ giữa biện pháp bảo đảm và BPCCTHADS, các BPBĐTHADS cụ thể.
Nhìn chung các giáo trình này đều đề cập đến các BPBĐTHADS với các nội dung như:
khái niệm, đặc điểm, trình tự, thủ tục áp dụng các BPBĐTHADS cụ thể. Vì là giáo trình
nên các vấn đề đó chỉ được đề cập ở mức độ đại cương.
Trong Đề tài khoa học cấp trường “Những điểm mới của của Luật Thi hành án
dân sự năm 2008”, tác giả Trần Anh Tuấn đã nghiên cứu về biện pháp bảo đảm trong
bài viết “Một số điểm mới của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 về biện pháp bảo
đảm thi hành án dân sự”. Với bài viết này thì mục đích nghiên cứu chính của tác giả

2


chỉ là tìm ra những điểm mới trong quy định của LTHADS 2008 về các
BPBĐTHADS.
Vì BPBĐTHADS là một vấn đề khá mới và phức tạp nên tính đến thời điểm

hiện tại mới chỉ có một vài luận văn, khóa luận nghiên cứu về vấn đề này, đó là luận
văn của tác giả Phan Huy Hiếu thuộc cơ sở đào tạo là Khoa Luật, Đại học Quốc gia
Hà Nội. Trong công trình của mình tác giả cũng chỉ tập trung nghiên cứu khái niệm,
đặc điểm, ý nghĩa, cơ sở của BPBĐTHADS, phân tích, đánh giá những quy định của
LTHADS 2008 về BPBĐTHADS, khảo sát tình hình thực hiện các BPBĐTHADS
trong thực tiễn hiện nay và đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện và thực hiện pháp
luật về BPBĐTHADS. Một khóa luận cũng nghiên cứu về BPBĐTHADS là của tác
giả Phạm Thị Minh Hằng thuộc cơ sở đào tạo là Trường Đại học Luật Hà Nội, thực
hiện năm 2012. Do chỉ là khóa luận nên tác giả cũng chỉ nêu khái quát về các biện
pháp bảo đảm dưới phương diện lý luận, thực tiễn và giải pháp hồn thiện. Nhìn
chung, với mức độ cơng trình nghiên cứu là luận văn, khóa luận, các luận văn, khóa
luận này mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu một số nội dung cơ bản về BPBĐTHADS
như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và trình tự, thủ tục thực hiện các BPBĐTHADS cụ
thể mà chưa đi sâu tìm hiểu về các vấn đề lý luận về BPBĐTHA như bản chất, cơ sở
hình thành cũng như các yêu cầu đặt ra về mặt lý luận đối với BPBĐTHA.
Ngồi giáo trình, đề tài nghiên cứu khoa học, luận văn, khóa luận,
BPBĐTHADS cịn được đề cập đến trong các bài tạp chí, đăng tải trên các tạp chí
chuyên ngành luật. Một số bài viết tiêu biểu như “Bản chất pháp lý của biện pháp bảo
đảm thi hành án dân sự theo Luật Thi hành án dân sự” của tác giả Trần Anh Tuấn, in
trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp năm 2009, phân tích về bản chất pháp lý của
BPBĐTHADS, các BPBĐTHADS theo LTHADS 2008; Bài viết của tác giả Lê Thị
Hương Giang viết năm 2010 “Những khó khăn trong thực tiễn áp dụng biện pháp tạm
giữ tài sản, giấy tờ theo Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành và
một số kiến nghị” in trên tạp chí Nghề Luật, nghiên cứu những khó khăn trong thực
tiễn áp dụng biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ theo LTHADS 2008 và những văn bản
hướng dẫn thi hành và đưa ra một số kiến nghị đối với biện pháp tạm giữ tài sản, giấy
tờ của đương sự; Bài viết của tác giả Phan Tấn Pháp năm 2010 “Bất cập trong việc
tạm giữ tài sản, giấy tờ theo Luật Thi hành án dân sự” in trên tạp chí Dân chủ & Pháp
luật, Số chuyên đề 03 về THADS, tác giả tập trung phân tích một số bất cập và đề xuất
kiến nghị đối với biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ theo LTHADS 2008; Bài viết “Vài


3


suy nghĩ về thời hạn áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án” của tác giả Hồ Quân
Chính năm 2010 trên tạp chí Dân chủ & Pháp luật, Số chuyên đề 07 về THADS, phân
tích về một số vướng mắc về thời hạn áp dụng BPBĐTHA theo LTHADS 2008, đề
xuất một số kiến nghị sửa đổi phù hợp với thực tiễn áp dụng; Tác giả Thanh Hương với
bài viết “Bàn về biện pháp phong tỏa tài khoản trong công tác thi hành án dân sự hiện
nay” đăng trên Tạp chí Dân chủ & Pháp luật năm 2013. Tác giả tập trung tìm hiểu về
biện pháp phong tỏa tài khoản với các nội dung về tình hình phong tỏa trong cơng tác
THADS, những vướng mắc, khó khăn khi thực hiện và đưa ra giải pháp; Bài viết “Bàn
về những khó khăn khi thực thi biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự” của tác giả Đinh
Duy Bằng năm 2014 đăng trên Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, Số chuyên đề thực hiện
LTHADS 2008, tác giả tập trung vào những khó khăn khi thực thi BPBĐTHADS, từ đó
đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện; Tác giả Đặng Ngọc Dư với bài viết “Một số vấn đề
về các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự” đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 19 năm
2016. Tác giả tập trung nghiên cứu các nội dung về cơ sở pháp lý, ý nghĩa và thời điểm
áp dụng của BPBĐTHADS...Những bài đăng trên tạp chí vì chỉ dừng lại ở mức độ là
một bài viết nhỏ, một bài tham luận đăng tạp chí nên các tác giả cũng chỉ dừng lại ở việc
tiếp cận BPBĐTHA dưới một góc độ, một khía cạnh nhất định, chưa đầu tư nghiên cứu
với mức độ cao.
Từ nội dung trên, thấy rằng điểm chung của hầu hết các cơng trình, bài viết
nghiên cứu về BPBĐTHA mới chỉ dừng lại ở những nội dung cơ bản và giải quyết,
tháo gỡ những vấn đề riêng biệt về từng biện pháp bảo đảm, nhiều vấn đề có ý nghĩa
quan trọng về lý luận và thực tiễn của biện pháp bảo đảm trong THADS chưa được lý
giải hoặc lý giải chưa thỏa đáng, đặc biệt là tìm hiểu tổng quan các nội dung về chế
định biện pháp bảo đảm chưa được bất kỳ tác giả nào đề cập đến. Ngoài ra, kể từ khi
LTHADS 2008 (sửa đổi, bổ sung) năm 2014 chưa có một cơng trình nghiên cứu khoa
học nào nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống về vấn đề biện pháp bảo đảm

trong THADS, đặc biệt dưới độ của một luận văn.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu BPBĐTHA trong THADS Việt Nam, trong đó
đề cập đến lý luận cơ bản về biện pháp bảo đảm, quy định của pháp luật và thực tiễn

4


triển khai thực hiện BPBĐTHA, yêu cầu và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
áp dụng BPBĐTHADS.
Phạm vi nghiên cứu
Đối với đề tài: “Biện pháp bảo đảm trong thi hành án dân sự”, luận văn chỉ
nghiên cứu trong phạm vi:
Thứ nhất, biện pháp bảo đảm trong THADS Việt Nam.
Thứ hai, BPBĐTHADS của CQTHADS (không bao gồm hoạt động áp dụng
BPBĐTHA của TPL).
Thứ ba, thực tiễn áp dụng và thực hiện biện pháp bảo đảm trong THADS từ khi
Luật THADS năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 đến nay.
4. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là làm rõ được vấn đề lý luận về biện pháp bảo
đảm trong THADS, đánh giá được tính hợp lý, điểm còn hạn chế trong quy định của
pháp luật THADS Việt Nam hiện hành về BPBĐTHADS. Đồng thời luận văn hướng tới
mục tiêu nghiên cứu BPBĐTHADS khi được áp dụng và thực hiện trong thực tiễn. Trên
cơ sở nghiên cứu quy định của pháp luật, thực tiễn áp dụng và thực hiện BPBĐTHADS,
luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng BPBĐTHADS
trên thực tiễn.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Với phạm vi nghiên cứu nêu trên, Luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu là:

-

Nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về BPBĐTHA dưới góc độ một chế
định pháp luật;

-

Nghiên cứu quy định của pháp luật THADS Việt Nam hiện hành và thực tiễn
áp dụng BPBĐTHADS;

-

Nghiên cứu về yêu cầu và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc
áp dụng BPBĐTHADS trong THADS.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận khoa học đó là: Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng

Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng nước

5


Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tiến hành cải cách, hoàn thiện hệ
thống pháp luật và nền tư pháp. Đây được coi là kim chỉ nam cho việc định hướng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể của tác giả trong quá trình thực hiện luận văn.
Để thực hiện việc nghiên cứu đề tài luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp thống kê được sử dụng trong việc thống kê số liệu
áp dụng BPBĐTHADS, phương pháp so sánh được vận dụng trong việc so sánh giữa
các BPBĐTHA cụ thể, so sánh BPBĐTHADS với BPCCTHADS và biện pháp khẩn
cấp tạm thời trong tố tụng dân sự. Ngoài ra, luận văn sử dụng phương pháp phân tích,

phương pháp tổng hợp, phương pháp suy luận...Trong quá trình nghiên cứu, các phương
pháp này được vận dụng một cách linh hoạt và đan xen lẫn nhau để tạo ra kết quả
nghiên cứu.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa pháp lý
Việc nghiên cứu thành công về BPBĐTHA không những giải quyết được
những vướng mắc về mặt lý luận của biện pháp bảo đảm trong THADS, góp phần
hồn thiện pháp luật THADS về biện pháp bảo đảm, đáp ứng yêu cầu của công cuộc
cải cách tư pháp mà còn cung cấp thêm nguồn tài liệu cho việc giảng dạy và nghiên
cứu khoa học pháp lý.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận
văn gồm ba chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về biện pháp bảo đảm thi hành án
trong thi hành án dân sự;
Chương 2: Quy định của pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam hiện hành về
biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự và thực tiễn áp dụng
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng biện
pháp bảo đảm thi hành án dân sự.

6


NỘI DUNG
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THI HÀNH
ÁN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của biện pháp bảo đảm thi hành án trong thi hành
án dân sự
1.1.1. Khái niệm biện pháp bảo đảm trong thi hành án dân sự
Việt Nam cũng như nhiều nước khác trong khu vực đã phải trải qua thời kỳ

phong kiến kéo dài và sau đó là chế độ thuộc địa của các đế quốc thực dân, cho nên
khơng có một nền lập hiến cũng như truyền thống nhân quyền như nhiều nước phương
Tây2. Khi mà cuộc cách mạng tư sản đang diễn ra với các tư tưởng, tuyên ngôn đề cao
nhân quyền ở Châu Âu thì Việt Nam vẫn cịn đang trong “màn đêm” của chế độ phong
kiến phương Đông. Chỉ đến khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời thì vấn đề
quyền con người mới được đề cập, ghi nhận và đảm bảo thực hiện3. Vấn đề công nhận
các quyền con người là vấn đề nhân quyền đã và đang được đặt ra với mỗi quốc gia
trên thế giới. Việc công nhận các quyền này quan trọng đến mức trong cuốn sách “Các
quyền con người” do Liên Hợp Quốc xuất bản để kỷ niệm 30 năm ngày ra đời của bản
Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền đã khẳng định “chúng ta không thể sống như con
người nếu không có quyền này”4. Cơng nhận các quyền con người sẽ đồng nghĩa với
việc cần thiết phải ghi nhận nó trong hệ thống pháp luật của quốc gia, coi đó là sự bảo
đảm bảo cho mỗi chủ thể có thể thụ hưởng và tham gia tích cực vào q trình thực
hiện các quyền đó5. Quan điểm và chính sách của Nhà nước Việt Nam đối với vấn đề
quyền con người có thể nhận thấy rất sớm trong bản Tuyên ngôn độc lập ngày
2/9/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa,
nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bản tuyên ngôn độc lập đã tuyên bố
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền
2

Nguyễn Đăng Dung (2011), “Cách tiếp cận hay là cách thức quy định nhân quyền trong Hiếp pháp”, Nghiên
cứu lập pháp, (22), tr. 45-46.
3
Mai Hồng Quỳ (2012), Tự do kinh doanh với vấn đề bảo đảm quyền con người tại Việt Nam, Nxb. Lao động,
Hà Nội, tr. 37.
4
Viện thông tin khoa học xã hội (1998), Quyền con người – Các văn kiện quan trọng, Hà Nội, trích trong tài
liệu: “Trần Phương Thảo (2012), Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ
Luật học, Trường Đại học học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr. 13.
5

Trần Phương Thảo (2012), Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật
học, Trường Đại học học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr. 13.

7


khơng ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự
do và quyền mưu cầu hạnh phúc”6.
Trong pháp luật hiện hành thì vấn đề quyền con người đã được thể hiện rõ ràng
trong Hiến pháp năm 2013. Theo đó, quyền con người trên tất cả các lĩnh vực sẽ được
thể hiện qua quyền công dân và quyền công dân sẽ được quy định trong Hiến pháp và
pháp luật. Như vậy, có thể hiểu rằng, các quyền con người ở Việt Nam sẽ được thể
hiện qua quyền công dân và được ghi nhận, bảo đảm thực hiện qua các quy định của
pháp luật. Song, thực tế chứng minh rằng nếu chỉ dừng lại ở việc ghi nhận quyền theo
quy định pháp luật thì trong nhiều trường hợp quyền con người vẫn không được đảm
bảo thực hiện. Nhà nghiên cứu Nguyễn Huy Đẩu nhận định “Một quyền lợi được luật
pháp công nhận nhiều khi không đủ đảm bảo cho người có chủ quyền hưởng dụng:
quyền lợi có thể bị phủ nhận, bị xâm phạm”, vì vậy “chủ thể quyền lợi bị tổn thương
có quyền buộc tha – nhân phải tôn trọng quyền lợi bị đe dọa bằng những phương tiện
hợp pháp”, phương tiện này “danh xưng là Luật tố tụng”7. Như vậy, vấn đề đặt ra là
cần có cơ chế bảo đảm, bảo vệ quyền của chủ thể hưởng dụng quyền khi bị xâm phạm
quyền trên thực tế. Trong suốt lịch sử phát triển của nhân loại, có một thiết chế đã thể
hiện tính hiệu quả, đó là chủ thể của những quyền, lợi ích khi bị xâm phạm, bị phủ
nhận sẽ tìm đến Tịa án – cơ quan tư pháp của nhà nước để nhờ Tòa án bảo vệ bằng
một hoạt động đặc thù là xét xử. Quyền tìm đến Tịa án để nhờ Tịa án bảo vệ cũng là
một quyền con người được ghi nhận tại Tun ngơn tồn thế giới về nhân quyền của
Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc ngày 19/12/19488. Tuy nhiên, kết quả của hoạt động xét
xử mới chỉ dừng lại việc khơi phục và bảo vệ quyền, lợi ích của chủ thể trên bản án,
quyết định, còn để hiện thực hóa trên thực tế các quyền, lợi ích được tun trong bản
án, quyết định cần có q trình được gọi là THA.

Tố tụng là q trình đi tìm chân lí để áp dụng cơng lí (pháp luật); cịn THA là q
trình thực thi chân lí bằng cơng lí. (Ở đây chân lí đã rõ, có tội hay vơ tội, đúng hay sai đã
được phân xử rõ ràng). THA là việc thực hiện các bản án và quyết định của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật. Q trình này có thể do các chủ thể bị THA tự giác thi hành hoặc
do các cơ quan có thẩm quyền (khơng phải chỉ có Tịa án) buộc các chủ thể đó thi hành9.
6

Tuyên ngôn độc lập năm 1945.
Nguyễn Huy Đẩu (1962), “Luật Dân sự - Tố tụng Việt Nam”, xuất bản dưới sự bảo trợ của Bộ Tư pháp, Sài
Gòn, tr. 3.
8
Trần Phương Thảo, tlđd chú thích 5, tr. 13.
9
Lê Minh Tâm (2001), “Thử bàn mấy vấn đề lí luận về thi hành án”, Luật học, (02), tr. 21 – 26.
7

8


THADS chỉ là một khâu trong quá trình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự bởi quá trình này bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau từ khởi kiện, thụ lý vụ
án, xét xử đến THA. Đúng như Giáo trình LTHADS Việt Nam của Trường Đại học
Luật Hà Nội đã khẳng định: Việc giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án tuy rất quan
trọng nhưng thực ra mới chỉ là giai đoạn đầu của quá trình bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự. Trong giai đoạn này, Tòa án mới chỉ làm rõ các tình tiết của vụ
việc dân sự và áp dụng các quy phạm pháp luật quyết định quyền và nghĩa vụ của các
đương sự. Quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong vụ việc dân sự đã được Tòa án
quyết định muốn trở thành hiện thực thì phải thơng qua việc THA10. Trong đó, người
có quyền THA yêu cầu người có nghĩa vụ THA phải thực hiện nghĩa vụ THA của họ
đối với mình và người có nghĩa vụ THA phải thực hiện nghĩa vụ của mình vì lợi ích

của người có quyền THA. Hiểu theo nghĩa chung nhất, THADS là việc thực hiện bản
án, quyết định dân sự của Tịa án nên về bản chất thì THADS là q trình đưa bản án,
quyết định có hiệu lực để thi hành.
Tuy nhiên thực tiễn THADS cho thấy việc THADS rất phức tạp. Nhiều trường
hợp ngay sau khi có bản án, quyết định của Tòa án, bên đương sự phải THA đã có
động thái, hành vi trốn tránh thực hiện nghĩa vụ THA hay tẩu tán, hủy hoại tài sản để
không THA. Để bảo đảm chắc chắn việc THADS được thực hiện nhanh chóng, hiệu
quả thì pháp luật THADS – cơ sở pháp lý hợp pháp để thực hiện các hoạt động
THADS cần thiết phải quy định về các BPBĐTHADS. Quy định của pháp luật
THADS về các BPBĐTHADS được xây dựng từ nguyên lý nhà nước phải có trách
nhiệm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân là các đương sự trong bản án,
quyết định của Tòa án. Vậy thế nào là BPBĐTHADS?
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt, biện pháp là “cách làm, cách thức tiến hành, giải
quyết một vấn đề cụ thể”11. Trong Từ điển Tiếng Việt biện pháp được giải thích là
“cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể”12. Như vậy, từ việc tham khảo các định
nghĩa trên, theo nghĩa chung nhất. biện pháp là cách thức, cách thức tiến hành, cách
giải quyết một vấn đề cụ thể.
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt, bảo đảm là “cam đoan chịu trách nhiệm về vệc gì
10

Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình Luật Thi hành án dân sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân,
Hà Nội, tr. 9.
11
Nguyễn Như Ý (chủ biên, 1998), Đại Từ điển Tiếng Việt, Nxb.Văn hóa – Thơng tin, tr.161.
12
Hồng Phê (chủ biên, 2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb.Đà Nẵng – Trung tâm Từ điển học, Hà Nội – Đà Nẵng,
tr.64

9



đó”13, ngắn gọn hơn thì bảo đảm là sự chịu trách nhiệm về một điều, một công việc hay
một quyền, nghĩa vụ nhất định. Bảo đảm cũng được hiểu là một cơ chế cần thiết phải có
để thực hiện quyền, nghĩa vụ hay cơng việc nhất định. Điều này có nghĩa trong nhiều
trường hợp, nếu khơng có biện pháp bảo bảo đảm thì các quyền, nghĩa vụ hay cơng việc
sẽ khơng thể thực hiện. Chính vì thế trong từ điển Tiếng Việt bảo đảm được hiểu là “làm
cho chắc chắn thực hiện được, giữ gìn được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết”14. Nếu
giải thích dưới góc độ ngơn ngữ học, trong Từ điển Hán – Việt, bảo đảm được giải
thích là “hứa chịu trách nhiệm về điều gì”, “cam đoan giữ được, làm được đầy đủ”, “sự
giữ được đầy đủ, trọn vẹn”15.
Như vậy, từ việc tham khảo các cách hiểu trên, theo nghĩa chung nhất bảo đảm
được hiểu là việc tạo điều kiện để chắc chắn giữ gìn được đầy đủ những gì cần thiết,
sự cam đoan, trách nhiệm thực hiện được trọn vẹn.
Trong nghiên cứu khoa học pháp lý, “bảo đảm là trách nhiệm của một chủ thể
là cá nhân, tổ chức phải làm cho quyền, lợi ích của chủ thể bên kia chắc chắn thực hiện
được, được giữ gìn, nếu xảy ra thiệt hại thì phải bồi thường”16. Thuật ngữ bảo đảm
được sử dụng khá rộng rãi. Bảo đảm thường đặt ra đối với việc xác lập hay thực hiện
các quyền, nghĩa vụ của các chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp luật cụ thể như
quan hệ pháp luật dân sự, quan hệ pháp luật kinh doanh, thương mại v.v... Bảo đảm có
thể do các bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định. Bảo đảm có tác dụng tạo ra sự
tin tưởng lẫn nhau giữa các bên, đặt trách nhiệm cho các bên trong việc xác lập và thực
hiện các quan hệ pháp luật. Trong một số quan hệ pháp luật cụ thể, các chủ thể coi bảo
đảm là điều kiện buộc phải có để xác lập và thực hiện các quan hệ pháp luật giữa họ.
Trong quá trình THADS, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp đã được tuyên
trong bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người được THA có những quyền nhất
định như: yêu cầu THA, thỏa thuận THA, u cầu hỗn, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ thi
hành một phần hoặc toàn bộ bản án... đặc biệt, người được THA có thể yêu cầu cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền THA quyết định áp dụng các biện pháp mang tính quyền
lực nhà nước, yêu cầu đặt tài sản mà người phải THA đang quản lý, sử dụng trong tình


13

Nguyễn Như Ý (chủ biên, 1998), tlđd chú thích 11, tr.109.
Hồng Phê (chủ biên, 2003), tlđd chú thích 12, tr.38.
15
Nguyễn Lân (2002), Từ điển từ và ngữ Hán – Việt, Nxb.Văn học, Hà Nội tr.40, trích trong tài liệu: “Nguyễn
Cơng Bình (2006) Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật
học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr. 19”.
16
Nguyễn Hữu Đắc (Trưởng ban biên soạn,1999), Từ điển Luật học, Nxb.Từ điển Bách khoa, Hà Nội, tr. 27.
14

10


trạng bị hạn chế quyền sử dụng, định đoạt, nhằm ngăn chặn việc người phải THA tẩu
tán, trốn tránh việc THA. Những biện pháp này cịn nhằm bảo tồn tình trạng tài sản
của người phải THA, đôn đốc người phải THA tự nguyện thi hành nghĩa vụ theo bản
án, quyết định của Tòa án hoặc bảo đảm hiệu quả của việc THA trong trường hợp
người phải THADS không tự nguyện THA. Các biện pháp này được gọi là
BPBĐTHADS.
BPBĐTHADS là phương thức mà cơ quan, tổ chức có thẩm quyền THADS áp
dụng đối với tài sản của người phải THA nhằm bảo đảm hiệu quả của việc THADS.
Thông thường, nếu trong q trình giải quyết vụ án dân sự, Tịa án đã không quyết định
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm bảo đảm cho việc THADS thì khi tổ chức
việc THADS, nếu thấy cần thiết phải ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh
việc THADS, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền THADS có thể tự mình hoặc theo yêu
cầu bằng văn bản của đương sự quyết định áp dụng một hoặc một số biện pháp bảo đảm
cần thiết. Ngoài ra, việc áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành THADS có thể nhằm thi
hành các quyết định trước đó của Tịa án về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

BPBĐTHADS có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thi hành được và hiệu quả
bản án, quyết định của Tịa án, vì thế khái niệm BPBĐTHA đã được nhiều nhà nghiên
cứu nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau. Theo tác giả Trần Anh Tuấn,
BPBĐTHADS là biện pháp pháp lý mang tính quyền lực Nhà nước do CHV áp dụng
nhằm đặt động sản hoặc bất động sản của người phải THA trong tình trạng bi hạn chế
quyền sử dụng, định đoạt hoặc bị cấm định đoạt, nhằm ngăn chặn người phải THA tẩu
tán, định đoạt tài sản, trốn tránh việc THA, đồng thời đôn đốc người phải THA tự
nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình theo bản án, quyết định của Tịa án. Việc áp dụng
BPBĐTHA không nhằm trực tiếp buộc người THA phải thi hành nghĩa vụ như
BPCCTHA. Sau khi đã áp dụng các biện pháp bảo đảm, nếu người phải THADS vẫn
không tự nguyện THA, CQTHA sẽ áp dụng các BPCCTHA để buộc họ phải thực hiện
nghĩa vụ của mình 17. Theo quan điểm của tác giả này BPBĐTHADS là một biện pháp
pháp lý mang tính quyền lực Nhà nước; người có thẩm quyền áp dụng là CHV; đối
tượng bị áp dụng là động sản hoặc bất động sản của người phải THA; mục đích áp
dụng là hạn chế quyền sử dụng, định đoạt hoặc bị cấm định đoạt nhằm ngăn chặn
người phải THA tẩu tán, định đoạt tài sản, trốn tránh việc việc thi hành, đồng thời đôn
17

Trần Anh Tuấn (2009), “Bản chất pháp lý của biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự theo Luật Thi hành án
dân sự”, Nghiên cứu lập pháp, (16), tr. 50 – 54.

11


đốc người phải THA tự nguyện thi hành; thủ tục tiếp theo sau khi người phải THA
không tự nguyện THA là áp dụng BPCCTHA. Tác giả đã nghiên cứu về biện bảo đảm
THADS với nhiều nội dung quan trọng như biện pháp bảo đảm là gì, đối tượng bị áp
dụng, thẩm quyền áp dụng, mục đích áp dụng BPBĐTHADS.
Về bản chất, BPBĐTHADS tương tự như biện pháp khẩn cấp tạm thời trong Tố
tụng dân sự. Biện pháp này giữ vai trò hỗ trợ cho việc thi hành các bản án, quyết định

được nhanh chóng, đảm bảo hiệu lực thi hành của các bản án, quyết định trên thực tế
cũng như đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, từ đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của cơng dân18. Mặc dù chưa xây dựng một khái niệm hoàn chỉnh về
BPBĐTHADS, song tác giả cũng đã chỉ ra bản chất cũng như vai trò, ý nghĩa của
BPBĐTHADS.
Theo nhận định trong Giáo trình Thi hành án dân sự của Trường Đại học Luật
Hà Nội thì BPBĐTHADS là biện pháp pháp lý đặt tài sản của người phải THA trong
tình trạng bị hạn chế hoặc cấm sử dụng, định đoạt nhằm ngăn chặn việc người phải
THA tẩu tán, định đoạt tài sản trốn tránh việc THt 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Nghị quyết nhấn mạnh: “Xây dựng Bộ luật
THA điều chỉnh tất cả các lĩnh vực THA; xác định Bộ Tư pháp là cơ quan giúp Chính
phủ quản lý nhà nước thống nhất cơng tác THA; từng bước xã hội hoá hoạt động
THA”. Kết luận 92-KL/TW yêu cầu ““Dừng việc thực hiện chủ trương “chuẩn bị điều
kiện về cán bộ, cơ sở vật chất để giao cho Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thống nhất
quản lý công tác THA” nêu trong Nghị quyết số 49-NQ/TW. Tiếp tục thực hiện mơ
hình tổ chức các CQTHA như hiện nay. Tăng cường trách nhiệm, quyền hạn của Tòa
án nhân dân và ủy ban nhân dân địa phương trong công tác THA””.

67


Với các định hướng cải cách được nêu trong các văn kiện của Bộ Chính trị đã
đặt ra những yêu cầu cụ thể đối với việc hoàn thiện các quy định của pháp luật
THADS về biện pháp bảo đảm trong THADS như phải phù hợp với điều kiện kinh tế,
xã hội, văn hóa và truyền thống dân tộc nhưng đồng thời phải khắc phục được sự khác
biệt không cần thiết giữa pháp luật THADS Việt nam và pháp luật THA nước ngồi về
THADS nói chung, biện pháp bảo đảm hoạt động THA nói riêng; phải tơn trọng và
bảo vệ quyền con người của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, đảm
bảo cho đương sự tự nguyện, tự thỏa thuận thực hiện nghĩa vụ THA trong thời gian áp
dụng BPBĐTHA; tăng cường trách nhiệm của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân

dân, Công an nhân dân, các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đối với việc thực hiện
biện pháp bảo đảm đồng thời quy định rõ trách nhiệm phối hợp và chế tài xử lý để
đảm bảo hiệu quả của biện pháp bảo đảm trên thực tế; xác định rõ vị trí, quyền hạn,
trách nhiệm của CQTHADS trong việc áp dụng biện pháp bảo đảm.
3.2. Những quy định của pháp luật về biện pháp bảo đảm trong thi hành
án dân sự cần đƣợc sửa đổi, bổ sung
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung quy định khoản 3 Điều 66 LTHADS 2014
Nên bổ sung cụm từ “tài sản nơi gửi giữ” vào điểm a khoản 3 Điều 66 để đồng
bộ với tên gọi tại Điều 67, điểm a khoản 3 Điều 66 LTHADS 2014 sẽ là “Phong tỏa tài
khoản, tài sản nơi gửi giữ”. Việc bổ sung này còn tạo nên sự đồng nhất với tên gọi tại
Điều 69 LTHADS 2014.
Như vậy Điều 66 LTHADS 2014 nên sửa đổi, bổ sung là: “3. Các BPBĐTHA
bao gồm:
a) Phong tỏa tài khoản, tài sản nơi gửi giữ;
b) Tạm giữ tài sản, giấy tờ;
c) Tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài
sản”.
Thứ hai, bổ sung quy định về thời điểm yêu cầu áp dụng BPBĐTHADS.
Đặc điểm cơ bản của BPBĐTHA là tính bảo đảm, ngăn chặn và kịp thời phòng
ngừa, song thực tiễn áp dụng cho thấy việc áp dụng biện pháp bảo đảm từ thời điểm có
quyết định THA sẽ khó đảm bảo được tính bảo đảm, nhanh chóng và kịp thời trong
nhiều trường hợp, dẫn tới khơng cịn điều kiện để THA, áp dụng biện pháp bảo đảm

68


không phát huy được hiệu quả. Việc thực hiện tuần tự từ chuyển giao bản án, quyết
định để thi hành đến khi ra quyết định THA khó đảm bảo được tính bảo đảm nhằm
ngăn chặn hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản có thể xảy ra đối với nhiều trường hợp.
Như vậy, từ những lập luận, phân tích nêu trên, luận văn đề xuất: Bản án, quyết định

có hiệu lực thi hành chính là căn cứ, cơ sở cho việc áp dụng BPBĐTHA. Khi coi bản
án, quyết định để thi hành là cơ sở, căn cứ cho việc áp dụng biện pháp bảo đảm có thể
tạo ra việc bao quát được các trường hợp phát sinh việc tẩu tán, hủy hoại tài sản và
trốn tránh THA trước khi có quyết định THA.
Quy định về việc áp dụng biện pháp bảo đảm trước khi có quyết định THA
cũng cần được quy định cụ thể các vấn đề sau:
- Căn cứ áp dụng biện pháp bảo đảm:
Căn cứ áp dụng biện pháp bảo đảm trong trường hợp này là bản án, quyết định
có hiệu lực pháp luật (trừ trường hợp theo quy định của pháp luật THADS).
- Về quyền yêu cầu áp dụng
Người được THA nhận thấy người phải thi hành có tài sản, có thể có hành vi
tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh THA, đồng thời người được THA cũng là người
năm rõ những thông tin cơ bản về tài sản của người phải THA nên việc quy định cho
đương sự có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp bảo đảm là hồn tồn hợp lý. Khi đó
cho phép đương sự có quyền lựa chọn tin tưởng vào sự tự nguyện THA của người phải
THA, trường hợp nhận thấy cần ngăn chặn mà trong thời gian chưa yêu cầu THA hoặc
đã yêu cầu THA, tuy nhiên CQTHA chưa ra quyết định THA (thời hạn ra quyết định
THA 05 ngày làm việc, kể từ khi nhận được đơn yêu cầu THA) thì có quyền u cầu
CQTHA ra quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm phù hợp.
-

Nộp đơn yêu cầu áp dụng biện pháp bảo đảm
Tương tự thời điểm sau khi có quyết định THA, hình thức u cầu của đương

sự cần tiến hành bằng văn bản. Cách thức nộp đơn đương sự có thể nộp trực tiếp,
đương sự ủy quyền hay nộp qua đường bưu điện. Các tài liệu chứng minh tính cần
thiết của việc áp dụng biện pháp bảo đảm (nếu có).
-

Thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm

Khi đương sự yêu cầu áp dụng biện pháp bảo đảm trước khi có quyết định

THA, Thủ trưởng CQTHA cần tiến hành phân công CHV phụ trách giải quyết đơn yêu

69


cầu của đương sự, tiến hành áp dụng biện pháp bảo đảm theo đúng thẩm quyền, trình
tự. Nội dung của quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm cần được quy định phù hợp
với từng biện pháp bảo đảm cụ thể.
-

Ra quyết định cưỡng chế hoặc quyết định chấm dứt hoặc trả lại tài sản.
Quyết định cưỡng chế được tiến hành sau khi áp dụng biện pháp bảo đảm, xác

định tài sản đó thuộc quyền sở hữu, quản lý, sử dụng của người phải THA mà không
tự nguyện THA, song cần lưu ý, để ra được quyết định cưỡng chế (đây là một thủ tục
quan trọng trong quá trình THA, liên quan trực tiếp đến quyền sở hữu, định đoạt tài
sản của đương sự) cần có yêu cầu THA từ đương sự. Như vậy, trong thời hạn áp dụng
biện pháp bảo đảm, đương sự cần có yêu cầu CQTHA tiến hành THA để làm cơ sở
cho việc CQTHA ra quyết định cưỡng chế THA.
Quyết định chấm dứt việc áp dụng biện pháp bảo đảm được áp dụng trong
trường hợp đương sự tự nguyện THA hoặc không tiến hành yêu cầu THA tiếp khi hết
thời hạn áp dụng biện pháp bảo đảm. Quyết định trả lại tài sản trong trường hợp xác
định không thuộc quyền sở hữu, quản lý, sử dụng của người phải THA.
-

Khiếu nại, kiến nghị và giải quyết khiếu nại, kiến nghị
Tương tự việc áp dụng biện pháp bảo đảm sau khi có quyết định THA, biện


pháp bảo đảm được tiến hành trước khi có quyết định THA cũng khơng tránh khỏi
phát sinh những vi phạm, vì vậy trình tự giải quyết khiếu nại cũng cần được thực hiện
tương tự khi áp dụng biện pháp bảo đảm nói chung.
-

Trách nhiệm bồi thường của đương sự
Trách nhiệm bồi thường cần được đặt ra do yêu cầu không đúng của đương sự

gây thiệt cho phía đương sự cịn lại hoặc bên thứ ba. Đồng thời, đối với thời điểm này
dễ có sự làm quyền của đương sự, do việc mở rộng quyền cho đương sự. Theo đó, cần
có quy định về trách nhiệm bồi thường, cụ thể cần quy định các nội dung như: mức bồi
thường, hình thức bồi thường, phương thức bồi thường đồng thời tôn trọng sự thỏa
thuận của các bên về các vấn đề nêu trên về bồi thường, song những nội dung đó
khơng được trái pháp luật, đạo đức xã hội.
Sự cần thiết của quy định trên xuất phát từ lý do, việc THA theo yêu cầu từ phía
đương sự (CQTHA chủ động THA trong những trường hợp nhất định). Vì vậy, cần
lường trước các vấn đề có thể phát sinh như: sau khi yêu cầu áp dụng biện pháp bảo

70


đảm đương sự không thực hiện công việc tiếp theo là yêu cầu CQTHA tiến hành THA;
trường hợp đương sự lạm quyền yêu cầu áp dụng biện pháp bảo đảm trước khi có
quyết định THA nhằm gây khó khăn, thiệt hại cho người phải THA hoặc người thứ ba.
Thứ ba, sửa đổi quy định về thời hạn ra quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm
Theo quy định của LTHADS 2014 thì CHV có quyền tự mình hoặc theo u
cầu bằng văn bản của đương sự áp dụng ngay biện pháp bảo đảm nhằm ngăn chặn
hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh THA82. Dẫn chiếu theo quy định đó thì về
ngun tắc áp dụng ngay biện pháp bảo đảm khi có yêu cầu bằng văn bản của đương
sự, song chưa quy định rõ thời hạn giải quyết cụ thể. Việc chưa có quy định hay hướng

dẫn đến việc áp dụng tùy vào ý chí chủ quan và khơng thống nhất giữa các CHV,
CQTHADS, theo đó dễ dẫn đến khả năng khiếu nại của đương sự. Vì vậy, tránh việc
áp dụng dựa vào ý chí chủ quan của các CQTHA khác nhau, có thể ngay khi có yêu
cầu của đương sự hoặc sau mấy ngày thì cần thiết nên quy định thời hạn trong một
khung thời gian hợp lý, cụ thể để CHV có căn cứ rõ ràng về thời hạn giải quyết để tiến
hành áp dụng biện pháp bảo đảm. Đồng thời cũng hạn chế được tình trạng khiếu nại
khơng đáng có của đương sự về thời hạn ra quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm. Vì
vậy, luận văn đề xuất sửa đổi quy định tại khoản 1 Điều 66 LTHADS 2014 như sau:
“CHV có quyền tự mình hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của đương sự áp dụng
ngay BPBĐTHA nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc THA.
Khi áp dụng BPBĐTHA, CHV không phải thông báo trước cho đương sự” nên sửa đổi
“CHV có quyền tự mình hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của đương sự áp dụng ngay,
trong thời hạn không quá 05 ngày làm việc, kể từ ngày có yêu cầu bằng văn bản của
đương sự đối với trường hợp cần xác minh trước khi áp dụng BPBĐTHA nhằm ngăn
chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc THA. Khi áp dụng BPBĐTHA,
CHV không phải thông báo trước cho đương sự”.
Thiết nghĩ sẽ là phù hợp khi quy định trong thời hạn không quá 05 ngày làm
việc, CHV áp dụng BPBĐTHA. Xuất phát từ những trường hợp cần xác minh trước
khi áp dụng biện pháp bảo đảm, bên cạnh đó thời hạn 05 ngày làm việc là khoảng thời
gian hợp lý để cho CHV thực hiện hoạt động xác minh và bảo đảm điều kiện THA cho
người được THA.
Thứ tư, bổ sung quy định về trách nhiệm bồi thường
82

Xem khoản 1 Điều 66 LTHADS 2014.

71


Trách nhiệm bồi thường cần được đặt ra đối với cả đương sự và CQTHADS.

Đối với đương sự, vấn đề về bồi thường thiệt hại cần thiết phải được đặt ra nghiên
cứu khi đương sự yêu cầu không đúng gây thiệt hại cho người phải THA hoặc người thứ
ba. Xuất phát từ một số lý do sau: đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho người phải thi hành
hoặc người thứ ba; đảm bảo cơ chế cho CHV khi ra quyết định áp dụng biện pháp tạm giữ
tài sản, giấy tờ; đảm bảo hiệu quả việc THA; đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.
Thiệt hại xảy ra là vấn đề có nhiều khả năng xảy ra đối với người phải THA
hoặc bên thứ ba khi bên được THA yêu cầu THA khơng đúng, theo đó pháp luật đã đặt
ra vấn đề bồi thường, song pháp luật THADS mới chỉ dừng lại ở việc quy định nếu
người yêu cầu không đúng mà thiệt hại cho người phải THA hoặc người thứ ba thì
phải bồi thường. Như vậy, việc pháp luật THADS mới dừng lại ở việc phải bồi thường
song chưa định cụ thể sẽ dẫn tới việc có thể phát sinh trường hợp người có u cầu
khơng đúng, xảy ra thiệt hại nhưng lại không thực hiện bồi thường, đồng thời cũng dẫn
tới CQTHADS khó triển khai, yêu cầu bên có trách nhiệm bồi thường cho chủ thể
được bồi thường theo quy định của pháp luật THADS. Vì vậy, yêu cầu đặt ra cần quy
định bổ sung vấn đề này với các nội dung sau: mức bồi thường, hình thức bồi thường,
phương thức bồi thường đồng thời tôn trọng sự thỏa thuận của các bên về các vấn đề
nêu trên về bồi thường, song những nội dung đó khơng được trái pháp luật, đạo đức
xã hội. Mức bồi thường có thể xác định: tổn thất về tài sản + chi phí hợp lý (để ngăn
chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại) + thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút (nếu có).
Đối với CQTHADS, cần thiết đặt ra vấn đề bồi thường đối với CQTHADS và
CHV trực tiếp tiến hành áp dụng BPBĐTHA. CQTHADS là đơn vị có thẩm quyền
THA, quản lý CHV, do đó trong trường hợp CHV của cơ quan quyết định áp dụng
biện pháp bảo đảm xảy ra thiệt hại, có lỗi cần có cơ chế đề điều chỉnh trường hợp nêu
trên. Theo quy định tại khoản 1 Điều 66 LTHADS 2014 thì CHV có thể áp dụng linh
hoạt các BPBĐTHA nếu xét thấy cần thiết để ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại, trốn
tránh việc THA. Theo đó, trên thực tế việc áp dụng các BPBĐTHA phụ thuộc rất
nhiều vào trình độ chun mơn, khả năng đánh giá, nhận định tình huống của CHV. Vì
vậy, yêu cầu đặt ra đối với CHV là cần cân nhắc kỹ càng trước khi ra quyết định áp
dụng BPBĐTHA để vừa đảm bảo mục đích ngăn chặn, phịng ngừa vừa khơng gây
thiệt hại khơng đáng có cho người bị áp dụng. Bởi vì, nếu xuất phát từ trình độ chun

mơn chưa cao mà đưa ra quyết định áp dụng BPBĐTHA thì khơng trái pháp luật, do

72


việc áp dụng biện pháp này mục đích là nhằm ngăn chặn, khơng cần cân nhắc đến
đương sự có hay không hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc THA. Khi đó,
theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước năm 2009 thì trách nhiệm bồi
thường nhà nước của người yêu cầu đối với người thi hành công vụ phải xác định
hành vi trái pháp luật. Do đó, vấn đề đặt ra là trách nhiệm bồi thường đối với những
trường hợp phát sịnh nêu trên là tương đối khó khăn.
Thứ năm, cần thiết bổ sung quy định về chế tài xử lý đối với cơ quan, tổ chức,
cá nhân liên quan
Việc thực hiện BPBĐTHA cần có sự tham gia của các đối tượng như:
CQTHADS, đương sự, ngân hàng, các tổ chức tín dụng, cơng an, bảo hiểm v.v...Vì
vậy, yêu cầu cần đặt ra trách nhiệm của các chủ thể có liên quan. Để việc thực hiện
đạt hiệu quả cao, trước tiên cần trách nhiệm phối hợp của các cơ quan, tổ chức, cá
nhân, song cũng cần có chế tài được đặt ra để áp dụng cho trường hợp không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng yêu cầu, cản trở việc THA.
LTHADS 2014 và Nghị định 62/2015/NĐ-CP đã có những quy định về trách
nhiệm phối hợp, hỗ trợ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan trong việc cùng với
CQTHA trong việc thực hiện BPBĐTHA, song lại chưa đề cập đến trách nhiệm khi
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, ảnh hưởng đến việc THA của cơ quan, tổ
chức cá nhân liên quan đối với biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự và tạm
dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản.
Vấn đề về hậu quả của việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng yêu
cầu của CQTHADS của các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan đã được đặt ra đối
với biện pháp phong tỏa, cụ thể tại khoản 2 Điều 20 Nghị định 62/2015/NĐ-CP:
Trường hợp người đại diện theo pháp luật hoặc người có trách nhiệm nhận văn bản
của cơ quan, tổ chức không nhận quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ

thì CHV lập biên bản về việc khơng nhận quyết định, có chữ ký của người làm chứng
hoặc chứng kiến và tiến hành niêm yết quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi
gửi giữ của người phải THA tại trụ sở cơ quan, tổ chức đó.
Người đại diện theo pháp luật hoặc người có trách nhiệm nhận văn bản của cơ
quan, tổ chức không nhận quyết định phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp
luật và phải bồi thường nếu có thiệt hại xảy ra.
Từ quy định đối với biện pháp phong tỏa nêu trên, tác giả cho rằng cần thiết quy

73


định chế tài đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan trong việc không thực hiện yêu
cầu hoặc thực hiện không đúng yêu cầu để xảy ra thiệt hại, ảnh hưởng đến THA.
LTHADS 2008 so với Pháp lệnh THADS năm 2004 đã ghi nhận BPBĐTHA,
đồng thời ghi nhận hình thức bằng quyết định đối với biện pháp phong tỏa tài khoản
và biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện
trạng tài sản, hình thức biên bản đối với biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương
sự, đến LTHADS 2014 đã sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung liên quan đến biện pháp
bảo đảm, khi đó các biện pháp bảo đảm đảm đều được thể hiện bằng hình thức quyết
định. Như vậy với hình thức quyết định có giá trị pháp lý cao so với hình thức cơng
văn u cầu trước đây, trách nhiệm phối hợp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu
quan được nâng lên rõ rệt, song để tránh những trường hợp không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng ảnh hưởng đến kết quả THA cần đặt ra chế tài.
Luận văn đề xuất tại khoản 1 Điều 68 LTHADS 2014: “1. CHV đang thực
hiện nhiệm vụ THA có quyền tạm giữ tài sản, giấy tờ liên quan đến việc THA mà
đương sự, tổ chức, cá nhân khác đang quản lý, sử dụng. Cơ quan, tổ chức, cá nhân
hữu quan có trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ, thực hiện yêu cầu của CHV trong việc tạm
giữ tài sản, giấy tờ” bổ sung về chế tài xử lý “1. CHV đang thực hiện nhiệm vụ THA
có quyền tạm giữ tài sản, giấy tờ liên quan đến việc THA mà đương sự, tổ chức, cá
nhân khác đang quản lý, sử dụng. Cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan có trách nhiệm

phối hợp, hỗ trợ, thực hiện yêu cầu của CHV trong việc tạm giữ tài sản, giấy tờ.
Trường hợp Cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng yêu cầu của CHV trong việc tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự
phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và phải bồi thường nếu có thiệt hại xảy ra.
Khoản 2 Điều 69 LTHADS 2014 quy định “2. Quyết định tạm dừng việc đăng
ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản phải được gửi ngay cho
cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở
hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản đó” bổ sung thêm chế tài xử lý “2. Quyết
định tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản
phải được gửi ngay cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để tạm dừng việc đăng
ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản đó.
Trường hợp Cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng yêu cầu của CHV trong việc tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự
phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và phải bồi thường nếu có thiệt hại xảy ra.

74


Như vậy phải có quy định về hậu quả pháp lý đối với các cơ quan, tổ chức, cá
nhân đối với việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng. Khi có quy định sẽ có
tính chất gây “áp lực” trong việc cần thiết phải thực hiện trách nhiệm của mình theo
luật định, đây là điều cần thiết để CQTHADS có cơ sở vững chắc khi yêu cầu sự
phối hợp, hỗ trợ từ phía các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan.
Thứ sáu, sửa đổi đồng bộ pháp luật THADS và pháp luật có liên quan về mã
số định danh cá nhân.
Số định danh cá nhân là dãy số tự nhiên gồm 12 số, có cấu trúc gồm 6 số là mã
thế kỷ sinh, mã giới tính, mã năm sinh của công dân, mã tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương hoặc mã quốc gia nơi công dân đăng ký khai sinh và 6 số là khoảng số ngẫu
nhiên. (Điều 13 Nghị định 137/2015/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2015 Quy định chi
tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Căn cước công dân). Số định danh cấp cho

mỗi công dân Việt Nam từ khi đăng ký khai sinh và gắn với họ đến khi chết, không thay
đổi trong suốt cuộc đời.
Như vậy số định danh cá nhân đã được quy định trong Luật Căn cước công dân
2014, Nghị định 137/2015/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2015 Quy định chi tiết một
số điều và biện pháp thi hành Luật Căn cước công dân và Thông tư 07/2016/TT-BCA
ngày 01 tháng 02 năm 2016 Quy định chi tiết một số điều của Luật Căn cước công dân
và Nghị định 137/2015/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2015 Quy định chi tiết một số
điều và biện pháp thi hành Luật Căn cước công dân. Hiện nay số định danh cá nhân đã
được triển khai trên nhiều địa bàn, do đó cần có sự quy định đồng bộ trong pháp luật
liên quan về số định danh cá nhân.
Sự cần thiết sửa đổi đồng bộ pháp luật THADS và pháp luật có liên quan theo
hướng khi công dân đến tuổi thành niên hoặc khi tổ chức được thành lập thì mỗi cơng
dân, tổ chức được cấp một mã số định danh nhất định và khi mở tài khoản cá nhân, tổ
chức yêu cầu bắt buộc là phải thể hiện thông qua mã số định danh. Tài khoản của tổ
chức, cá nhân do ngân hàng nhà nước quản lý, khi có yêu cầu của người có thẩm
quyền thì cung cấp, truy tìm tài khoản cá nhân, tổ chức theo mã số định danh và theo
quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, cần thiết phải minh bạch hóa tài sản của mỗi cá
nhân, tổ chức và hạn chế tối đa lưu thông bằng tiền mặt. Quy định như vậy sẽ tạo ra sự
“đột phá” trong công tác THADS.

75


×