Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Bảo hộ nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi – quy định pháp luật và thực trạng tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.8 MB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------------------

NGÔ TRUNG HIẾU

BẢO HỘ NHÃN HIỆU ĐƢỢC SỬ DỤNG VÀ THỪA NHẬN
RỘNG RÃI – QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG
TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hƣớng ứng dụng)

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------------------

NGÔ TRUNG HIẾU

BẢO HỘ NHÃN HIỆU ĐƢỢC SỬ DỤNG VÀ THỪA NHẬN
RỘNG RÃI – QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG
TẠI VIỆT NAM



Chuyên ngành : Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số

:

8380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hƣớng ứng dụng)

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS VŨ THỊ HẢI YẾN

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Đại học Luật Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Đại học Luật Hà Nội xem xét để tơi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Ngô Trung Hiếu



LỜI CẢM ƠN
Để tơi có thể hồn thành đề tài luận văn thạc sĩ một cách hoàn chỉnh, bên
cạnh sự nỗ lực cố gắng của bản thân cịn có sự hướng dẫn nhiệt tình của Thầy Cơ
hướng dẫn luận văn, cũng như sự động viên ủng hộ của gia đình và bạn bè trong
suốt thời gian học tập nghiên cứu và thực hiện luận văn thạc sĩ.
Tôi xin chân thành cảm ơn đến cô PGS. TS. Vũ Thị Hải Yến người hướng
dẫn luận văn, người đã hết lòng giúp đỡ và tạo mọi điều kiện để tơi hồn thành luận
văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giảng viên và cán bộ tại Bộ môn Luật
Dân sự, bộ phận Thư viện Đại học Luật Hà Nội đã tạo điều kiện, giúp đỡ, hướng
dẫn và hỗ trợ để tôi có thể hồn thành luận văn thạc sỹ này.
Tơi xin chân thành cảm ơn anh Vũ Mạnh Hùng – Giám đốc Công ty TNHH
Vũ Gia và Cộng Sự và những luật sư đồng nghiệp đã hỗ trợ cho tôi rất nhiều trong
suốt quá trình nghiên cứu thực tiễn đề tài tại Việt Nam.
Tác giả luận văn

Ngô Trung Hiếu


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
SHTT: sở hữu trí tuệ
VBBH: văn bằng bảo hộ
NXB: nhà xuất bản
BLDS: Bộ luật dân sự
USPTO: Cơ quan sáng chế và nhãn hiệu Liên bang Mỹ
GCN ĐKNH: Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………..…..…1

CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ NHÃN HIỆU ĐƢỢC SỬ DỤNG VÀ THỪA
NHẬN RỘNG RÃI ………………………………………………………………6
1.1 Khái quát chung về nhãn hiệu …………………………………….…………….6
1.1.1 Khái niệm nhãn hiệu…….…….………….…...………………………………6
1.1.2 Phân loại nhãn hiệu ……..…….……….…………………………………….13
1.1.3 Điều kiện bảo hộ nhãn hiệu ……..…………………………………………...19
1.1.4 Căn cứ xác lập quyền đối với nhãn hiệu ……..…...…………………………21
1.2 Khái quát chung về nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi …………..23
1.2.1Khái niệm nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi theo pháp luật quốc
tế …………………………………………………………………………………...23
1.2.2 Phân biệt nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi với nhãn hiệu nổi
tiếng ……………………………………………………………………..................26
1.2.3 Phân biệt nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi với nhãn hiệu thông
thường ………………………………………………………………......................27
1.2.4 Cơ chế bảo hộ nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi trên thế giới
……………………………………………………………………………………...29
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG BẢO HỘ NHÃN HIỆU ĐƢỢC SỬ DỤNG VÀ
THỪA NHẬN RỘNG RÃI TẠI VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ………
.................................................................................................................................. .32
2.1 Khái niệm nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi tại Việt Nam ……...32
2.2 Căn cứ xác lập quyền đối với nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi ..36
2.3 Tiêu chí đánh giá nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi …………….37
2.4 Cơ chế bảo hộ nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi trong đăng ký
nhãn hiệu …………………………………………………………………………..47


2.5 Cơ chế bảo hộ nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi trong xử lý xâm
phạm ……………………………………………………………………………….56
2.6 Đánh giá cơ chế bảo hộ nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi theo pháp
luật Việt Nam và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật ………………………….65

KẾT LUẬN …………………………………………………………………..…..73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trước xu hướng ngày càng phát triển của đất nước thì nhãn hiệu đóng một
vai trị vơ cùng quan trọng. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường với sự đa dạng của
hàng hóa, dịch vụ dẫn đến người tiêu dùng cần được chỉ dẫn để có thể lựa chọn
chính xác sản phẩm cần chọn. Vì vậy, nhãn hiệu là tài sản vơ giá của mỗi doanh
nghiệp kinh doanh trên thị trường. Nhận thức được tầm quan trọng của nhãn hiệu,
Luật pháp Việt Nam đã có những cơ chế đặc thù để bảo vệ loại tồi sản này thơng
qua các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ hay nói cách khác bảo hộ nhãn hiệu
là một nội dung không thể thiếu trong Luật SHTT Việt Nam.
Theo đó, cơ chế bảo hộ nhãn hiệu tại Việt Nam đối với mỗi loại nhãn hiệu là
khác nhau dựa trên khả năng phân biệt của mỗi loại nhãn hiệu cũng như mức độ
biết đến rộng rãi của từng loại nhãn hiệu trong bộ phận người tiêu dùng. Tại Việt
Nam, xét về mức độ nhận biết của bộ phận người tiêu dùng, nhãn hiệu thường được
bàn đến ở hai loại là nhãn hiệu thông thường và nhãn hiệu nổi tiếng, tuy nhiên, cịn
có một loại nhãn hiệu mà nội hàm các quy định pháp luật vẫn đề cập đến nhưng rất
ít đó là nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi.
Trên thực tế, nhãn hiệu thông thường và nhãn hiệu nổi tiếng là hai loại nhãn
hiệu đã có cơ chế bảo hộ rất rõ ràng qua các văn bản pháp luật cũng như vụ việc
thực tiễn. Nhãn hiệu thông thường được xác lập thông qua thủ tục đăng ký và cấp
văn bằng bảo hộ tại Cục SHTT mà không cần phải đề cập đến mức độ biết đến rộng
rãi đối với bộ phận người tiêu dùng, còn nhãn hiệu nổi tiếng được bảo hộ tự động
thông qua việc người tiêu dùng biết đến nhãn hiệu rộng rãi trên toàn bộ lãnh thổ
Việt Nam. Đối với nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi, pháp luật Việt
Nam hầu như chưa có quy định cụ thể về loại nhãn hiệu này cũng như rất ít khi đề

cập đến loại nhãn hiệu này trong các văn bản luật và dưới luật có liên quan. Trong
khi đó, những vụ việc tranh chấp liên quan đến nhãn hiệu được sử dụng và thừa
nhận rộng rãi trên thực tế là khơng hề ít dẫn đến việc các chủ thể có liên quan gặp
khó khăn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như cơ quan
nhà nước có thẩm quyền loay hoay trong vấn đề áp dụng pháp luật để giải quyết các
vụ việc.
Do vậy, việc xây dựng cơ chế bảo hộ riêng cho nhãn hiệu được sử dụng và
thừa nhận rộng rãi là ưu tiên hàng đầu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ
sở hữu nhãn hiệu này, đồng thời giúp cho cơ quan có thẩm quyền vận dụng, áp
dụng pháp luật một cách thống nhất trong giải quyết các vụ việc liên quan đến nhãn
hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi.


2
Để giải quyết vấn đề trên cũng như tìm hiểu về cơ chế bảo hộ của pháp luật
Việt Nam đối với nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi, thơng qua đó đề
xuất các biện pháp hồn thiện về cơ chế pháp lý đối với loại nhãn hiệu này, tác giả
xin lựa chọn đề tài luận văn cao học “Bảo hộ nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận
rộng rãi – Quy định pháp luật và thực trạng tại Việt Nam”
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các cơng trình tại Việt Nam hầu như khơng đề cập tới vấn đề nhãn hiệu được
sử dụng và thừa nhận rộng rãi bởi quy chế pháp lý dành cho loại nhãn hiệu này là
rất ít và khá là mơ hồ trong pháp luật Việt Nam. Nhãn hiệu được sử dụng và thừa
nhận rộng rãi chỉ được nhắc và tìm hiểu sâu trong duy nhất đề tài luận văn thạc sĩ
“Bảo hộ nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi theo pháp luật Việt Nam”
của tác giả Dương Việt Đức, Đại học Quốc gia Hà Nội, khoa Luật, năm 2016 tuy
nhiên tác giả chưa thực sự chính xác khi đề cập đến nguồn gốc và các quy định
pháp luật quốc tế về nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi làm nguồn cho
các quy định pháp luật tại Việt Nam. Ngồi ra, loại nhãn hiệu này cịn được đề cập
đến một cách rất hạn chế trong các công trình nghiên cứu về nhãn hiệu nổi tiếng

chẳng hạn như Luận án tiến sĩ Luật học “Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng nghiên cứu so
sánh giữa pháp luật liên minh châu âu và Việt Nam” của tác giả Phan Ngọc Tâm,
Đại học LUND khoa Luật, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh; Báo cáo 6 tháng
trao đổi nghiên cứu sinh “Well-known trademark protection–Reference to the
Japanese experience”1 của Hà Thị Nguyệt Thu được đăng tải trên WIPO hay “Giáo
trình Luật sở hữu trí tuệ” của tập thể tác giả do TS. Phùng Trung Tập chủ biên,
NXB Công an nhân dân, 2008.
Các cơng trình nêu trên là nguồn tài liệu tham khảo quý giá để phát triển và
định hướng cho các lập luận về nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi tại
Việt Nam.
Đối với các cơng trình quốc tế, các tác giả hầu như chỉ đề cập đến nhãn hiệu
nổi tiếng mà chưa đề cập đến loại nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi.
Do vậy, các tài liệu liên quan đến nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng
rãi hầu như rất ít, chủ yếu được đề cập đến trong các bài viết nghiên cứu về đối
tượng nhãn hiệu khác. Đây là một khó khăn rất lớn mà tác giả gặp phải khi nghiên
cứu và tìm hiểu nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi.
3. Mục tiêu nghiên cứu, đối tƣợng
1

ngày
truy cập 10/8/2018


3
Như đã đề cập bên trên, nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi hầu
như rất ít được đề cập trong quy định của pháp luật Việt Nam, do vậy, luận văn này
hướng đến ba mục tiêu chính:
Thứ nhất, luận văn tìm hiểu một cách khoa học, có logic vấn đề bảo hộ nhãn
hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi qua đó là một tài liệu đóng góp cho hệ
thống lý luận về nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi tại Việt Nam. Điều

này giúp trả lời và xây dựng khái niệm thế nào là nhãn hiệu được sử dụng và thừa
nhận rộng rãi.
Thứ hai, so sánh một cách khái quát quy định pháp luật của quốc tế và Việt
Nam về nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi.
Tìm hiểu các tình huống thực tiễn liên quan đến nhãn hiệu được sử dụng và
thừa nhận rộng rãi tại Việt Nam, qua đó đưa ra những giải pháp nhằm củng cố và
hồn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận
rộng rãi.
Qua mục đích nghiên cứu nêu trên có thể thấy rõ rằng đối tượng nghiên cứu
trong luận văn này là những vấn đề lý luận chung về nhãn hiệu được sử dụng và
thừa nhận rộng rãi và thực tiễn quy định pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu
được sử dụng và thừa nhận rộng rãi.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung tìm hiểu, nghiên cứu cơ sở pháp luật và những vấn đề
thực tiễn liên quan đến nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi tại Việt Nam.
Tuy nhiên, để có cái nhìn tổng thể và tương quan so sánh, luận văn sẽ đề cập,
nghiên cứu khái quát quy định pháp luật của quốc tế và một số quốc gia phát triển
trên thế giới như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Liên minh Châu Âu…
Do vậy, phạm vi nghiên cứu của luận văn bao gồm Luật SHTT và các thông
tư, nghị định hướng dẫn Luật SHTT tại Việt Nam, các Điều ước quốc tế Việt Nam
là thành viên và pháp luật về sở hữu trí tuệ của một số quốc gia.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung phân tích, tìm hiểu kết quả, trả lời cho những câu hỏi sau
đây:
Nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi là gì?
Làm thế nào để nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi được bảo hộ?
Xử lý vi phạm nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi như thế nào?
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để giải quyết các vấn đề đặt ra trong mục đích và đối tượng nghiên cứu nêu
trên, tác giả đã vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau và phù hợp với



4
từng chương của Luận văn bao gồm các phương pháp nghiên cứu chung của khoa
học xã hội và các phương pháp nghiên cứu đặc thù của luật học để triển khai đề tài,
cụ thể:
- Phương pháp thống kê khi tiến hành thu thập, thống kê các vụ việc được
công bố trên trang thông tin điện tử của Cục SHTT và trang chủ của các công ty
luật
- Phương pháp diễn dịch khi đưa ra các giả thuyết, luận điểm từ tổng quát
đến chi tiết, từ khái quát đến cụ thể, từ giả thiết, tiền đề đến dẫn chứng và lập luận
- Phương pháp pháp lý lịch sử được sử dụng để nghiên cứu khái quát về bối
cảnh lịch sử của hệ thống pháp luật
- Phương pháp phân tích, tổng hợp để làm rõ các vấn đề cần đề cập đến như
định nghĩa, khái niệm, tiêu chí xác định nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng
rãi
- Phương pháp phân tích các quy phạm pháp luật đối với các quy phạm pháp
luật nằm trong các điều ước quốc tế, các quy phạm pháp luật có liên quan đến đối
tượng nghiên cứu trong pháp luật Việt Nam và các quy định của pháp luật nước
ngoài về nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi
- Phương pháp so sánh từ đó rút ra các điểm tương đồng và các điểm khác
biệt giữa hệ thống pháp luật quốc tế về nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng
rãi với pháp luật Việt Nam
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn đóng góp, làm sáng tỏ về mặt lý luận pháp
lý đối với nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi, cụ thể hóa những nội dung
cơ bản của các điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng
rãi.
Những kiến nghị trong luận văn có giá trị thực tiễn góp phần hồn thiện pháp
luật và cơ chế bảo hộ đối với nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi, qua đó

giúp doanh nghiệp Việt Nam nói chung và chủ sở hữu nhãn hiệu được sử dụng và
thừa nhận rộng rãi nói riêng định hướng phát triển kinh doanh, bảo vệ tài sản của
doanh nghiệp.
Những lập luận được nêu trong luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo trong các nghiên cứu, hội thảo, phục vụ công tác giảng dạy pháp lý cho
các bên liên quan, thúc đẩy nhận thức một bộ phận cơng chúng trong việc bảo vệ tài
sản trí tuệ.
8. Bố cục các chƣơng luận văn
Chương 1: Khái quát về nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi


5
Chương 2: Thực trạng bảo hộ nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi tại Việt
Nam và một số kiến nghị


6

CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ NHÃN HIỆU ĐƢỢC SỬ DỤNG VÀ THỪA NHẬN
RỘNG RÃI
1.1 Khái quát chung về nhãn hiệu
1.1.1 Khái niệm nhãn hiệu
Thuật ngữ "nhãn hiệu hàng hóa" đã trải qua một lịch sử phát triển khá dài
trong suốt quá trình phát triển của nền thương mại thế giới. Từ thời La Mã cổ đại,
các nhà sản xuất chạm đã biết chạm nổi hay đóng dấu lên các sản phẩm của mình là
khá phổ biến hay 3000 năm trước những người thợ Ấn Độ đã sử dụng tên khắc trên
sản phẩm của mình xuất khẩu cịn ở Trung Quốc khoảng 2000 năm trước các
thương nhân cũng đánh dấu trên các sản phẩm hàng hóa mình những hình thể chạm
nổi hay các con dấu mà họ có thể phân biệt xuất xứ hàng hóa của các nhà sản xuất

với nhau.. Đó là các hình thức thể hiện của nhãn hiệu hàng hóa từ thuở sơ khai nhất.
Ngày nay, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường ngày càng cao, các sản
phẩm được sản xuất và xuất khẩu ngày càng phong phú, đa dạng. Điều này đặt ra
cho các nhà kinh doanh yêu cầu cần có nhãn hiệu riêng biệt phân biệt sản phẩm của
mình với các doanh nghiệp cạnh tranh khác. Với ý nghĩa đó, nhãn hiệu như một
cách thức ghi nhận, bảo vệ và tạo ra sự phân biệt những sản phẩm giống nhau của
các doanh nghiệp khác nhau cũng như thể hiện sự phát triển và danh tiếng trên thị
trường của doanh nghiệp. Chính vì vậy, sự ra đời của nhãn hiệu nhằm bảo hộ lợi ích
của các nhà sản xuất, kinh doanh trước các hành cạnh tranh không lành mạnh.
Các quy định đầu tiên về đăng ký và bảo hộ nhãn hiệu ra đời tại Hoa Kỳ
khoảng nửa cuối thế kỷ 18. Luật Nhãn hiệu đầu tiên của Pháp có hiệu lực năm 1857
và sau đó là của Anh năm 1862. Cho đến nay với sự phát triển mạnh mẽ của nền
kinh tế thế giới, hầu hết các nước trên thế giới đều có luật hoặc các quy định pháp lý
bảo hộ nhãn hiệu. Các hiệp ước quốc tế quy định các nguyên tắc chung về đăng ký
và bảo hộ nhãn hiệu trên phạm vi toàn cầu cũng được ký kết, điển hình là Cơng ước
Paris về bảo hộ Sở hữu công nghiệp, Hiệp định TRIPS của WTO… Các liên minh
đa quốc gia tạo thuận lợi cho việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu trong từng khu vực cụ
thể hoặc toàn cầu cũng được thiết lập, điển hình là hệ thống Nhãn hiệu Cộng đồng
Châu Âu (CTM), các tổ chức đăng ký chung nhãn hiệu khu vực Châu Phi như
ARIPO và OAPI. Văn phòng nhãn hiệu Benelux (gồm Bỉ, Hà Lan,
Luxemburg)…và điển hình là Hệ thống đăng ký quốc tế nhãn hiệu Madrid do


7
WIPO quản trị, bao gồm đến nay là 90 quốc gia thành viên trải rộng trên cả năm
châu lục.2
Các đạo luật trên đều quy định khá chi tiết về cơ chế bảo hộ đối với nhãn
hiệu: thủ tục xác lập quyền, sử dụng và bảo vệ nhãn hiệu; phạm vi các dấu hiệu có
thể được bảo hộ, tập trung hố q trình đăng ký nhãn hiệu... Từ đó có thể thấy
rằng, ngay từ những bước đi đầu tiên trong quá trình hình thành các văn bản pháp

luật bảo hộ nhãn hiệu, các quốc gia đã thiết lập được một loạt nguyên tắc cơ bản về
bảo hộ loại đối tượng này.
Tuy Công ước Paris, Thỏa ước Madrid chưa đưa ra khái niệm nhãn hiệu
nhưng đã quy định các điều khoản liên quan đến việc bảo hộ các đối tượng sỡ hữu
công nghiệp (Công ước Paris) hoặc thiết lập hệ thống quốc tế về đăng ký bảo hộ
nhãn hiệu (Hệ thống Madrid). Riêng TRIPs đã có quy định về khái niệm nhãn hiệu.
Điều 15 Hiệp định TRIPs quy định như sau: “ Bất kỳ một dấu hiệu hoặc tổ
hợp các dấu hiệu nào, có khả năng phân biệt hàng hố hoặc dịch vụ của một doanh
nghiệp với hàng hoá hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp khác đều có thể làm nhãn
hiệu. Các dấu hiệu đó, đặc biệt là các từ, kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các
yếu tố hình học và tổ hợp các mầu sắc cũng như tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu đó
phải có khả năng được đăng ký làm nhãn hiệu”.
Khái niệm này chỉ ra một số đặc điểm của nhãn hiệu. Thứ nhất, đó phải là
một dấu hiệu hoặc tổ hợp các dấu hiệu. Các dấu hiệu đó có thể là các từ, kể cả tên
riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình học và tổ hợp các mầu sắc cũng như tổ
hợp bất kỳ của các dấu hiệu đó. Thứ hai, các dấu hiệu đó có thể là dấu hiệu nhìn
thấy được, cũng có thể là bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng được đăng ký là nhãn
hiệu. Thứ ba, các dấu hiệu đó phải có khả năng phân biệt hàng hoá hoặc dịch vụ của
một doanh nghiệp này với hàng hoá hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp khác.
Ngồi ra, WIPO cịn đưa ra định nghĩa: "Nhãn hiệu hàng hóa được hiểu là
một dấu hiệu đặc trưng để chỉ rõ một loại hàng hóa hay một loại dịch vụ nào đó
được một cá nhân hay doanh nghiệp nhất định sản xuất hay cung cấp"3. Theo định
nghĩa của WIPO nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của
doanh nghiệp cơng nghiệp hoặc thương mại hoặc của một nhóm các doanh nghiệp
đó. Dấu hiệu này có thể là một hoặc nhiều từ ngữ, chữ, số, hình, hình ảnh, biểu
2

Trần Việt Hùng (2015) Bàn về khái niệm nhãn hiệu và thương hiệu ngày truy cập 10/8/2018
3


Nguyễn Thị Hồng Bích (2012) Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo pháp luật Liên minh Châu Âu và bài học
kinh nghiệm cho vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng tại Việt, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học quốc gia Hà
Nội khoa Luật tr.11


8
tượng, màu sắc hoặc sự kết hợp các màu sắc, hình thức hoặc sự trình bày đặc biệt
trên bao bì, bao gói sản phẩm. Dấu hiệu này có thể là sự kết hợp của nhiều yếu tố
nói trên. Nhãn hiệu chỉ được chấp nhận bảo hộ nếu nó chưa được cá nhân hoặc
doanh nghiệp nào khác ngoài chủ sở hữu nhãn hiệu đó sử dụng hoặc nhãn hiệu hiệu
đó khơng được trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với một nhãn hiệu khác
được đăng ký trước đó cho cùng loại sản phẩm.
Có thể nói, đây là một khái niệm mang tính khái quát và mềm dẻo trong pháp
luật quốc tế. Còn các quốc gia, tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế – xã hội của mình
mà đưa ra khái niệm nhãn hiệu phù hợp.
Châu Âu bao gồm nhiều các quốc gia khác nhau nên có sự khác nhau trong
luật về nhãn hiệu của các quốc gia thành viên. Do sự khác nhau này và sự ảnh
hưởng của nó đến thị trường chung Châu Âu nên cần thiết phải có sự điều chỉnh hài
hồ ở cấp độ cộng đồng. Chỉ thị 89/104/EEC3 của Cộng đồng Châu Âu là chỉ thị
đầu tiên quy định các vấn đề về nhãn hiệu ở cấp độ cộng đồng. Mục đích của Chỉ
thị này là nhằm đảm bảo điều kiện đăng ký nhãn hiệu hài hoà ở tất cả các thành viên
trong Cộng đồng Châu Âu và để đảm bảo hiệu lực cao hơn về sự hài hoà trong
Cộng đồng, Quy định 40/944 đã được thiết lập. Các vấn đề về nhãn hiệu trong Quy
định này được áp dụng thống nhất trên toàn lãnh thổ Châu Âu. Định nghĩa về nhãn
hiệu được quy định giống nhau ở Điều 2 Chỉ thị 89/104 và Điều 4 Quy định 40/94
như sau:
Một nhãn hiệu cộng đồng có thể gồm bất kỳ dấu hiệu nào được trình bày một
cách rõ ràng và chi tiết, đặc biệt là các từ, bao gồm tên riêng, các phác hoạ hình
ảnh, chữ viết, chữ số, hình dáng của hàng hố hoặc của bao bì sản phẩm, với điều
kiện là những dấu hiệu đó phải có khả năng phân biệt hàng hố hoặc dịch vụ của

chủ thể kinh doanh này với hàng hoá, dịch vụ của các chủ thể kinh doanh khác.
Theo định nghĩa này, nhãn hiệu phải đáp ứng ba điều kiện. Thứ nhất: “là dấu
hiệu”; thứ hai: “được trình bày rõ ràng và chi tiết” và thứ ba: “có khả năng phân biệt
hàng hoá và dịch vụ của chủ thể này với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác”.
Ở điều kiện thứ nhất, “bất kỳ dấu hiệu nào” được hiểu rất rộng. Việc sử dụng
từ “bất kỳ dấu hiệu” làm cho định nghĩa nhãn hiệu mềm dẻo và không giới hạn.
Mặc dù định nghĩa trên đưa ra một loạt các dấu hiệu như các từ bao gồm tên riêng,
chữ cái, chữ số hoặc hình dáng của hàng hố hoặc của bao bì sản phẩm nhưng
chúng khơng phải là giới hạn. Đây chỉ là những dấu hiệu thường được sử dụng để
các chủ thể chỉ ra hàng hoá, dịch vụ của mình. Trên thực tế, có rất nhiều các dấu
hiệu khác biệt không nằm trong các dấu hiệu được liệt kê và vẫn được đăng ký.
Mặc dù không được quy định cụ thể nhưng dấu hiệu có thể bao gồm cả khẩu hiệu,


9
âm thanh, mùi vị… Tuy nhiên, để được đăng ký là nhãn hiệu, dấu hiệu phải “được
trình bày rõ ràng và chi tiết”. Mục đích của điều kiện này là nhằm chỉ ra nhãn hiệu
là gì hay nói cách khác, nhãn hiệu được nhận thức như thế nào. Một nhãn hiệu có
thể được nhận thức bởi một hay vài, thậm chí cả năm giác quan. Chẳng hạn như
nhãn hiệu mùi cỏ tươi mới cắt cho bóng tennis, tiếng nhạc chng của hãng điện
thoại NOKIA, nhãn hiệu âm thanh là tiếng bíp bíp cho phương tiện truyền thanh ở
Anh, nhãn hiệu là hình ảnh khơng gian ba chiều chai của COCACOLA7, … 4
Các vấn đề liên quan đến nhãn hiệu của Mỹ được điều chỉnh bởi Đạo luật
Nhãn hiệu (Lanham Act) ban hành năm 1946 và được sửa đổi nhiều lần trong quá
trình áp dụng. Theo đoạn 1127 Lanham Act, nhãn hiệu hàng hố được giải thích
như sau:
Thuật ngữ nhãn hiệu hàng hóa bao gồm bất kỳ từ, tên gọi, biểu tượng hay
hình vẽ hoặc sự kết hợp giữa chúng mà:
(1) được sử dụng bởi một người, hoặc
(2) được một người có ý định chân thành là sử dụng nó trong thương mại và

xin đăng ký theo quy định tại luật này để xác định và phân biệt hàng hoá của người
đó, bao gồm cả các hàng hóa đặc chủng, với hàng hoá được sản xuất hoặc được
bán bởi những người khác và chỉ ra nguồn gốc của hàng hoá thậm chí cả khi khơng
xác định được nguồn gốc đó.
Định nghĩa này kết hợp hai chức năng khác nhau của nhãn hiệu: thứ nhất, chỉ
ra nguồn gốc của hàng hoá, và thứ hai, phân biệt hàng hoá của chủ thể này với hàng
hoá của chủ thể khác. Hoa Kỳ cũng quy định cho các dấu hiệu dễ dàng nhận ra như
từ ngữ, tên gọi, biểu tượng, khẩu hiệu… là nhãn hiệu theo truyền thống thông
thường. Tuy nhiên, dần dần, Hoa Kỳ đã mở rộng bảo vệ các loại nhãn hiệu không
dễ dàng được nhận ra, chẳng hạn như hình dạng sản phẩm, mầu sắc, âm thanh, mùi
thơm… Mục 1052 đạo luật Lanham quy định một nhãn hiệu sẽ được đăng ký vào
Hệ thống đăng ký gốc nếu nó có khả năng phân biệt hàng hoá của chủ thể này với
hàng hoá của chủ thể khác trừ khi nó bị ngăn cấm bởi các quy định của pháp luật:
“Khơng có nhãn hiệu nào mà hàng hố của người nộp đơn có khả năng phân biệt
hàng hoá của những người khác lại bị từ chối đăng ký vào hệ thống đăng bạ gốc,
trừ…”. Như vậy, theo tinh thần của điều luật, bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng phân
biệt khơng rơi vào các trường hợp bị từ chối đều có thể được đăng ký là nhãn hiệu.

4

Đào Thị Diễm Hạnh (2010) Xây dựng khái niệm trong luật Sở hữu trí tuệ
ngày truy cập 27/8/2018


10

Tại Nhật Bản, Nhãn hiệu có thể là chữ cái, chữ số, dấu hiệu, hình khơng gian
ba chiều, hoặc bất kỳ sự kết hợp nào giữa chúng, hoặc sự kết hợp của chúng với
mầu sắc, được sử dụng cho hàng hóa và dịch vụ, thỏa mãn một trong hai điều kiện:
thứ nhất đối với nhãn hiệu gắn lên hàng hóa nó phải được sử dụng đối với hàng hóa

mà một người sản xuất, xác nhận, hay đem vào lưu thông; hoặc thứ hai đối với nhãn
hiệu dịch vụ nó được sử dụng đối với dịch vụ mà một người cung cấp hay xác nhận
trong quá trình thương mại và đặc biệt cho đến thời điểm này pháp luật Nhật Bản đã
công nhận cho đăng ký nhãn hiệu âm thanh, chẳng hạn như nhãn hiệu âm thanh bốn
nốt nhạc lên xuống trầm bổng của hãng dược phẩm HISAMITSU5. Tại Singapore,
nhãn hiệu hàng hóa là bất cứ dấu hiệu, hình ảnh nào có thể phân biệt hàng hóa hoặc
dịch vụ cùng loại của người khác và những dấu hiệu đó có thể bao gồm chữ cái, từ
ngữ, tên gọi, chữ ký, chữ số, hình mẫu bao gói, nhãn hàng, hình mơ phỏng, mầu sắc
hoặc tổng hợp các yếu tố đó. Những dấu hiệu này không được trùng hoặc gây nhầm
lẫn với nhãn hiệu đã đăng ký trước liên quan đến hàng hóa/dịch vụ cùng loại, không
gây nhầm lẫn với nhãn hiệu nổi tiếng, không được trái với pháp luật hoặc đạo đức
xã hội, không chỉ dẫn sai nguồn gốc địa lý của hàng hóa.6 Có thể thấy rằng quy định
về nhãn hiệu tại Singapore có khá nhiều điểm tương đồng với quy định tại Hiệp
định Trips đã được phân tích ở trên.
Ở Việt Nam, Luật SHTT năm 2005 sửa đổi bổ sung năm 2009 là một đạo
luật chuyên ngành đầu tiên của Việt Nam về SHTT trên cơ sở pháp điển hoá các
quy định của pháp luật về SHTT đã được ban hành từ trước. Nói như vậy bởi lẽ
Việt Nam là một thành viên của nhiều thoả thuận quốc tế về nhãn hiệu bao gồm
Công ước Pari và Hệ thống đăng ký nhãn hiệu quốc tế (Thoả ước Madrid và Nghị
định thư Madrid), Hiệp định TRIPs. Trước khi có Luật Sở hữu trí tuệ, quyền SHTT
ở Việt Nam được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau như Bộ luật
Dân sự 1995 Điều 785 “Nhãn hiệu hàng hoá là những dấu hiệu dùng để phân biệt
hàng hoá, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau. Nhãn
hiệu hàng hố có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể
hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc”, các Nghị định, Thơng tư hướng dẫn, thậm chí
bởi rất nhiều các quyết định của Cục SHTT. Cho đến thời điểm hiện tại, Luật SHTT
5

Bùi Thị Phượng (2017) Âm thanh có thể được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu
ngày truy cập:

27/8/2018
6

Bộ phận luật sư sở hữu trí tuệ - Cơng ty luật Minh Khuê (2012)
/>HieuOSingapore.html ngày truy cập: 25/8/2018


11
của Việt Nam khơng có điều khoản cụ thể nào về định nghĩa nhãn hiệu mà khái
niệm nhãn hiệu được quy định trong phần giải thích từ ngữ.
Cụ thể, khoản 16 Điều 4 quy định: “nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt
hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau”
Tuy nhiên, không phải bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng phân biệt cũng có thể
trở thành nhãn hiệu. Điều kiện chung đối với nhãn hiệu được bảo hộ tại Việt Nam
được quy định tại Điều 72 Luật SHTT:
Nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
1. Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh,
kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc
nhiều mầu sắc;
2. Có khả năng phân biệt hàng hố, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với
hàng hoá, dịch vụ của chủ thể khác.
Như vậy, một nhãn hiệu có thể được bảo hộ nếu đáp ứng được hai điều kiện.
Thứ nhất, dấu hiệu phải “nhìn thấy được”. Điều kiện này được hiểu là nhãn hiệu đó
phải được nhận thức, cảm nhận bằng thị giác của con người chứ không phải là vơ
hình thơng qua việc nhìn ngắm, quan sát nhãn hàng hóa và thấy được nhãn hiệu của
hàng hóa đó để phân biệt với hàng hóa dịch vụ khác. Hay nói cách khác nhãn hiệu
phải tồn tại dưới dạng một vật chất nhất định để con người có thể nhìn thấy được.
Để có thể như vậy, nhãn hiệu phải tồn tại dưới dạng chữ viết, hình ảnh, hình vẽ
hoặc sự kết hợp của các yếu tố trên và được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc.
Quy định này hẹp hơn quy định của TRIPs “bất kỳ dấu hiệu nào”. Điều này có

nghĩa rằng, các dấu hiệu như âm thanh, mùi vị… không thể được đăng ký là nhãn
hiệu theo quy định của pháp luật SHTT Việt Nam. Sở dĩ pháp luật Việt Nam quy
định như vậy là do việc nhìn thấy được giúp nhãn hiệu có thể đi vào tâm trí và nhận
thức người tiêu dùng, giúp cho người tiêu dùng nhận ra đâu là sản phẩm họ lựa
chọn. Thậm chí có những nhãn hiệu nhìn thấy được nhưng không thuộc các dấu
hiệu tại khoản 1 Điều 72 thì cũng khơng được bảo hộ là nhãn hiệu tại Việt Nam, ví
dụ nhãn hiệu là 1 màu sắc đơn lẻ hoặc nhãn hiệu là hình ảnh động. Thứ hai, “khả
năng phân biệt” là điều kiện bắt buộc của nhãn hiệu. Đây cũng là đặc điểm chính
của nhãn hiệu. Đặc điểm này là đặc điểm chung của nhãn hiệu và do đó, nó giống
với các điều ước quốc tế cũng như luật về nhãn hiệu của các nước trên thế giới.
Pháp luật Việt Nam không đưa ra khái niệm cụ thể thế nào là khả năng phân biệt
của nhãn hiệu nhưng đã đưa ra được các yêu cầu để nhãn hiệu có khả năng phân
biệt bằng phương pháp loại trừ, cụ thể là quy định những trường hợp nhãn hiệu
được coi là khơng có khả năng phân biệt. Việc quy định như vậy giúp cho những


12
dấu hiệu được coi là có khả năng phân biệt được mở rộng hơn rất nhiều, khơng bị
bó buộc bởi các quy định của pháp luật. Ngoài ra, để nhãn hiệu có khả năng phân
biệt thì bản thân nhãn hiệu phải có khả năng tự phân biệt hay đáp ứng tiêu chuẩn
bảo hộ tự thân. Bảo hộ tự thân được hiểu là các dấu hiệu của nhãn hiệu mang các
đặc điểm riêng biệt tác động vào nhận thức của người tiêu dùng giúp cho người tiêu
dùng có ấn tượng về thị giác qua đó người tiêu dùng có thể phân biệt được với các
nhãn hiệu khác và các dấu hiệu này không thuộc các trường hợp cấm của pháp luật
Việt Nam
Nói tóm lại, “khả năng phân biệt” ln ln là đặc điểm cơ bản của nhãn
hiệu. Bất kỳ dấu hiệu nào không thoả mãn điều kiện này đều không thể được đăng
ký là nhãn hiệu. Cả luật Việt Nam, luật Châu Âu và luật Hoa Kỳ đều khơng có điều
khoản định nghĩa nhãn hiệu. Khái niệm nhãn hiệu được hiểu qua các điều khoản
khác, chẳng hạn như quy định ở phần giải thích thuật ngữ (Việt Nam, Hoa Kỳ), hay

trong điều khoản quy định về “Các dấu hiệu là nhãn hiệu” (Châu Âu). Các điều
khoản này thường liệt kê các dấu hiệu thơng thường có khả năng đăng ký nhãn hiệu.
Các dấu hiệu khác như mùi, âm thanh,… không được liệt kê trong luật nhãn hiệu.
Mặc dù các quy định cịn có những điểm khác nhau, song chúng đều giống nhau ở
cách tiếp cận khái niệm theo chức năng phân biệt. Nó là điều kiện cơ bản nhất để
một nhãn hiệu được đăng ký.
Từ những quy định trên có thể khẳng định rằng, pháp luật của cả Việt Nam,
Châu Âu và Hoa Kỳ phù hợp với pháp luật quốc tế đều dựa trên khả năng phân biệt
để đưa ra khái niệm nhãn hiệu. Tuy nhiên, khả năng phân biệt của nhãn hiệu lại
được đánh giá dựa vào những dấu hiệu loại trừ khả năng phân biệt. Mặc dù đều dựa
trên khả năng phân biệt của nhãn hiệu để đưa ra khái niệm nhãn hiệu nhưng mỗi
quốc gia lại có những cách định nghĩa không giống nhau. Luật SHTT Việt Nam
không có điều khoản riêng về khái niệm nhãn hiệu, nhưng qua các điều khoản cụ
thể có thể hiểu nhãn hiệu là dấu hiệu có thể nhìn thấy được và có khả năng phân
biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể
khác. Luật Châu Âu và luật Hoa Kỳ quy định mở hơn đối với các dấu hiệu có thể
làm nhãn hiệu. Đó là bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng phân biệt chứ khơng chỉ bó
hẹp ở các dấu hiệu nhìn thấy được. Do đó, các dấu hiệu khơng thơng dụng như mùi
vị, âm thanh… cũng có khả năng được đăng ký là nhãn hiệu.
Tóm lại, ở góc độ chung nhất, nhãn hiệu có thể được hiểu là bất kỳ dấu hiệu
nào có thể nhận biết được bao gồm từ ngữ, tên gọi, chữ cái, con số, biểu tượng, thiết
kế, hình vẽ hay bất kỳ sự kết hợp nào của chúng và kiểu dáng hay bao bì hàng hóa


13
được sử dụng hoặc sẽ được sử dụng trong thương mại để xác định và phân biệt hàng
hóa hay dịch vụ của chủ các chủ thể khác nhau.7
1.1.2. Phân loại nhãn hiệu
Như đã phân tích ở trên, nhãn hiệu là dấu hiệu để phân biệt hàng hóa, dịch
vụ của các cá nhân, tổ chức kinh doanh khác nhau. Như vậy, nhãn hiệu chủ yếu

dùng để gắn lên các loại hàng hóa và các loại dịch vụ để phân biệt được nguồn gốc
của các loại hàng hóa, dịch vụ này.8
Nhãn hiệu hàng hóa là những dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa cùng loại
của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau hay nói cách khác nhãn hiệu hàng hóa
là dấu hiệu được đăng ký bảo hộ cho sản phẩm. Hàng hóa được hiểu là những sản
phẩm có nguồn gốc tự nhiên hoặc được sản xuất ra để bán.
Nhãn hiệu dịch vụ là những dấu hiệu dùng để phân biệt dịch vụ này với dịch
vụ khác hoặc giữa các dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác
nhau. Dịch vụ được hiểu là các hoạt động thực tế, được thực hiện theo yêu cầu hay
vì lợi ích của bên thuê dịch vụ
Hiện nay, để phục vụ cho công tác thẩm định nhãn hiệu, các quốc gia trên
thế giới đang áp dụng Bảng phân loại quốc tế hàng hóa và dịch vụ Nice với 45
nhóm trong đó 34 nhóm sản phẩm, 11 nhóm dịch vụ.
Đối với pháp luật Việt Nam hiện hành, các nhãn hiệu là đối tượng bảo hộ sở
hữu công nghiệp bao gồm: nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận, nhãn hiệu liên
kết, nhãn hiệu nổi tiếng.
- Nhãn hiệu tập thể
Nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa dịch vụ của các
thành viên tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hóa dịch vụ của tổ chức cá
nhân không phải là thành viên của tổ chức đó (khoản 17 điều 4 Luật SHTT)
Tổ chức tập thể được thành lập hợp pháp có quyền đăng ký nhãn hiệu tập thể
để các thành viên của mình sử dụng theo quy chế chung mang tính chất ràng buộc.
Quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể là tài liệu không thể thiếu trong đơn đăng ký và
bất kỳ sự thay đổi nào cũng phải được thông báo với Cục SHTT. Trong trường hợp
chủ văn bằng bảo hộ nhãn hiệu tập thể khơng kiểm sốt hoặc kiểm sốt khơng có
hiệu quả việc thực hiện quy chế thì văn bẳng bảo hộ có thể bị chấm dứt hiệu lực
(điều 95 Luật SHTT).
7

Phan Ngọc Tâm, Lê Quang Vinh (2017) Báo cáo nghiên cứu Dự án Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo pháp

luật Việt Nam – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện, tr12
8

Phùng Trung Tập (chủ biên, 2017) Giáo trình Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam, NXB Cơng an nhân dân, tr 137


14
Điểm đặc trưng của nhãn hiệu tập thể là từng thành viên đều có quyền sử
dụng nhãn hiệu tập thể cùng với nhãn hiệu riêng của mình. Ví dụ: nhãn hiệu tập thể
TH Giồng Riềng Bánh Tráng Thạnh Hưng, hình và Kiên Giang Khoai lang Bơng
Súng Giồng Riềng, hình9 là hai sản phẩm mới được Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh
Kiên Giang phối hợp với UBND huyện Giồng Riềng trao giấy chứng nhận nhãn
hiệu tập thể cho Hội Nông dân xã Thạnh Hưng, Hợp tác xã nông nghiệp Đồng Tiến
(Giồng Riềng), các thành viên của Hội nông dân và Hợp tác xã đều sử dụng nhãn
hiệu này bên cạnh các thành phần khác do họ thiết kế. Điều này cho phép phân biệt
hàng hóa của chính doanh nghiệp với hàng hóa của các đối thủ cạnh tranh khác,
trong khi cùng thu được lợi ích từ sự tin tưởng của người tiêu dùng đối với hàng hóa
hoặc dịch vụ mang nhãn hiệu tập thể. Nhãn hiệu tập thể thường gắn liền với các
chủng loại hàng hóa nhất định của nhiều doanh nghiệp khác nhau trong một liên kết
kinh tế, kỹ thuật và tính đại diện được phát triển chủ yếu theo chiều sâu.
- Nhãn hiệu chứng nhận
Nhãn hiệu chứng nhận là nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép tổ
chức, cá nhân khác sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân đó để
chứng nhận các đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản xuất hàng
hoá, cách thức cung cấp dịch vụ, chất lượng, độ chính xác, độ an tồn hoặc các đặc
tính khác của hàng hố, dịch vụ mang nhãn hiệu.
Như vậy, nhãn hiệu chứng nhận khơng đóng vai trị phân biệt nguồn gốc
hàng hóa, dịch vụ như nhãn hiệu thông thường mà nhằm xác định một nhãn hiệu
đáp ứng tiêu chuẩn cụ thể mà chủ sở hữu đã đặt ra.
Cũng giống như nhãn hiệu tập thể, các chủ thể kinh doanh sử dụng nhãn hiệu

chứng nhận cùng với nhãn hiệu riêng của mình và đăng ký tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Tuy nhiên, nhãn hiệu tập thể chỉ có thể được sử dụng bởi các chủ thể là
thành viên của hiệp hội sở hữu nhãn hiệu tập thể, trong khi nhãn hiệu chứng nhận
thường được sử dụng bởi bất kỳ đối tượng nào đáp ứng các tiêu chuẩn xác định và
được chủ sở hữu chấp thuận mà khơng có hạn chế bất kỳ về tư cách thành viên.
- Nhãn hiệu liên kết
Trong hoạt động kinh doanh, mọi cá nhân tổ chức có thể sản xuất một hoặc
nhiều loại sản phẩm hoặc cung cấp một hoặc nhiều hình thức dịch vụ tương tự nhau
tùy thuộc vào khả năng tài chính, trình độ kỹ thuật, nhu cầu của thị trường. Để tạo
điều kiện cho các chủ thể đó, pháp luật dành cho họ khả năng đăng ký bảo hộ nhãn
hiệu kiên kết.
9

Cục SHTT (2017) Danh sách các đơn đăng ký nhãn hiệu tập thể đã được công bố


15
Pháp luật Việt Nam quy định: Nhãn hiệu liên kết là các nhãn hiệu do cùng
một chủ thể đăng ký, trùng hoặc tương tự nhau dùng cho sản phẩm, dịch vụ cùng
loại hoặc tương tự nhau hoặc có liên quan với nhau.(khoản 19 Điều 4)
Nhãn hiệu liên kết có thể trùng hoặc tương tự về dấu hiệu dùng cho hàng
hóa, dịch vụ trùng hoặc tương tự của doanh nghiệp. Bằng việc đăng ký nhãn hiệu
liên kết, chủ sở hữu nhãn hiệu có thể tiết kiệm thời gian, cơng sức, tài chính trong
q trình quảng cáo, tiếp thị, xây dựng thương hiệu đồng thời loại trừ khả năng các
bên thứ ba khác lợi dụng uy tín để đăng ký nhãn hiệu có khả năng gây nhầm lẫn cho
người tiêu dùng gây ảnh hưởng tới lợi ích kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận
lợi có thể đạt được nhờ việc đăng ký nhãn hiệu liên kết, chủ sở hữu cũng phải đối
mặt với nguy cơ tiềm ẩn về hệ quả mang tính chất dây chuyền khi một trong số các
nhãn hiệu hoặc sản phẩm dịch vụ mang nhãn hiệu bị mất uy tín.
- Nhãn hiệu nổi tiếng

Khi nhắc đến những nhãn hiệu như Coca-Cola, Google, Microsoft,
Apple...một bộ phận rất lớn công chúng sẽ biết ngay những nhãn hiệu này được
dùng cho sản phẩm gì.
Qua quá trình sử dụng, những nhãn hiêu này đã trở nên nổi tiếng, đem lại
những lợi thế rất lớn cho các doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh. Hằng năm,
các tổ chức định giá nhãn hiệu trên thế giới thường tiến hành định giá các nhãn hiệu
này.
Thuật ngữ nhãn hiệu nổi tiếng lần đầu tiên được đề cập tại điều 6bis công
ước Pari 1883 về bảo hộ quyền SHCN.
Điều 6BIS của Công ước Paris về bảo hộ sở hữu cơng nghiệp có quy định:
[Nhãn hiệu: Nhãn hiệu nổi tiếng]
(1) Một cách mặc nhiên nếu luật quốc gia cho phép điều đó, hoặc theo đề
nghị của bên có liên quan, các nước thành viên của Liên minh có trách
nhiệm từ chối hoặc huỷ bỏ đăng ký, ngăn cấm việc sử dụng nhãn hiệu mà
nhãn hiệu đó là sự sao chép, bắt chước, biên dịch, và có khả năng gây nhầm
lẫn với nhãn hiệu đã được cơ quan có thẩm quyền của nước đăng ký hoặc
nước sử dụng coi là nhãn hiệu nổi tiếng tại nước đó của người được Công
ước cho hưởng lợi thế sử dụng nhãn hiệu đó trên các loại hàng hố giống
hoặc tương tự. Những quy định này cũng được áp dụng trong trường hợp
thành phần chủ yếu của nhãn hiệu là sự sao chép của bất kỳ nhãn hiệu nổi
tiếng nào hoặc là sự bắt chước có khả năng gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đó.


16
(2) Thời hạn được yêu cầu huỷ bỏ nhãn hiệu như vậy: khơng ít hơn 5 năm kể
từ ngày đăng ký nhãn hiệu. Các nước thành viên của Liên minh có quyền quy
định thời hạn theo đó có thể yêu cầu cấm sử dụng nhãn hiệu.
(3) Không được phép quy định thời hạn yêu cầu huỷ bỏ hoặc ngăn cấm việc
sử dụng những nhãn hiệu được đăng ký hoặc được sử dụng với dụng ý xấu.
Theo quy định trên thì Công ước Paris không đưa ra bất kỳ một định nghĩa

nào về nhãn hiệu nổi tiếng. Công ước chỉ quy định nghĩa vụ của các nước thành
viên phải có cơ chế bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng chống lại việc vi phạm (sao chép, bắt
chước, chuyển đổi, và có khả năng gây nhầm lẫn) của người thứ ba.
Năm 1994, Hiệp định TRIPS đã được ký kết đã tái khẳng định các quy định
bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng mà Điều 6bis của Công ước Paris đã quy định, đồng thời
đưa việc bảo hộ nhãn hiệu này lên một mức cao hơn và cụ thể hơn. Theo đó, tại
Điều 16 Hiệp định Trips, nhãn hiệu nổi tiếng sẽ được áp dụng cho cả nhãn hiệu
hàng hóa và nhãn hiệu dịch vụ, khơng chỉ áp dụng trong phạm vi nhãn hiệu hàng
hóa như Điều 6bis Công ước Paris.
Điều16
Các quyền được cấp
...
Điều 6bis Công ước Paris (1967) phải được áp dụng, với những sửa đổi
thích hợp, đối với những hàng hố hoặc dịch vụ khơng tương tự với những
hàng hố hoặc dịch vụ được đăng ký kèm theo một nhãn hiệu hàng hoá, với
điều kiện là việc sử dụng nhãn hiệu hàng hoá đó cho những hàng hố hoặc
dịch vụ nói trên có khả năng làm người ta hiểu rằng có sự liên quan giữa
những hàng hố hoặc dịch vụ đó với chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hoá đã
đăng ký và với điều kiện là lợi ích của chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hố đã
đăng ký có nguy cơ bị việc sử dụng nói trên gây tổn hại.
Việt Nam là thành viên của Công ước Paris từ năm 1994 và cũng là thành
viên của Hiệp định TRIPS. Vì vậy, cũng như các thành viên khác Việt Nam cũng
cần phải xây dựng một cơ chế bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng.
Tuy nhiên, phải đến tận năm 2001, tại Nghị định số 06/2001/NĐ-CP sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định số 63/NĐ-CP quy định chi tiết về sở hữu cơng
nghiệp thì vấn đề nhãn hiệu nổi tiếng mới được quy định. Theo quy định tại Điểm
8b, Điều 2 của Nghị định này thì nhãn hiệu nổi tiếng được quy định như sau:
“...Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu hàng hoá được sử dụng liên tục cho sản
phẩm, dịch vụ có uy tín khiến cho nhãn hiệu được biết đến một cách rộng rãi...”.



17
Đây có thể được coi là q trình nội luật hoá các quy định của điều ước quốc
tế vào các văn bản pháp luật Việt Nam đồng thời cũng đánh dấu một bước tiến
trong quá trình xây dựng các quy phạm pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ nói chung và nhãn hiệu nổi tiếng nói riêng. Tuy nhiên, Nghị định nêu trên chỉ
đưa ra các tiêu chí xác định nhãn hiệu nổi tiếng. Điều này đã gây những khó khăn
cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu chứng minh nhãn hiệu nổi tiếng.
Bên cạnh đó, theo quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 27 Nghị định nêu trên,
thì vấn đề khiếu nại các quyết định liên quan đến việc xác lập quyền sở hữu nhãn
hiệu được quy định như sau:
“Người nộp đơn yêu cầu cơng nhận nhãn hiệu nổi tiếng có quyền khiếu nại
với Cục trưởng Cục Sở hữu công nghiệp về việc từ chối công nhận nhãn hiệu nổi
tiếng.
Bất kỳ người thứ ba nào có quyền và lợi ích liên quan trực tiếp đến việc cấp
Văn bằng bảo hộ, việc chấp nhận bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá đăng ký quốc tế theo
Thoả ước Madrid hoặc việc công nhận nhãn hiệu nổi tiếng đều có quyền khiếu nại
về việc đó với Cục trưởng Cục Sở hữu cơng nghiệp”
Theo quy định này thì có thể hiểu là việc xác lập quyền sở hữu công nghiệp
đối với nhãn hiệu nổi tiếng sẽ được tiến hành bằng con đường hành chính, khi các
tổ chức, cá nhân nộp đơn yêu cầu công nhận nhãn hiệu nổi tiếng và có các bằng
chứng chứng minh thì Cục trưởng Cục Sở hữu công nghiệp (nay là Cục Sở hữu trí
tuệ (Cục SHTT)) sẽ xem xét và ra quyết định công nhận nhãn hiệu nổi tiếng. Các tổ
chức, cá nhân đã hy vọng sẽ có một Thơng tư hướng dẫn nghị định 06 trong đó quy
định về các tiêu chí cơng nhận nhãn hiệu đồng thời quy định trình tự, thủ tục, ra
quyết định công nhận. Tuy nhiên, trong suốt quá trình thực hiện Nghị định 06 từ
năm 2001 đến khi Luật sở hữu trí tuệ ra đời và có hiệu lực vào ngày 01/07/2006, đã
khơng có bất cứ một Thông tư nào ra đời, đồng nghĩa với việc không có bất kỳ một
nhãn hiệu nổi tiếng nào được cơng nhận bằng quyết định của Cục SHTT. Trên thực
tế, việc công nhận nhãn hiệu nổi tiếng chỉ được thực hiện theo từng vụ việc, một

cách gián tiếp, ví dụ như khi có yêu cầu phản đối đơn đăng ký nhãn hiệu hay huỷ bỏ
hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu dựa trên cơ sở một nhãn hiệu nổi
tiếng. Có thể khẳng định, rằng việc xác lập quyền và thực thi quyền đối với nhãn
hiệu nổi tiếng trước khi có Luật SHTT là khơng hiệu quả do việc khơng nhất quán
giữa các quy trình của pháp luật và quá trình thực thi. Bên cạnh đó, trong q trình
xét nghiệm đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, xét nghiệm viên đã không lấy ra các
yếu tố của một nhãn hiệu nổi tiếng để làm đối chứng cho các nhãn hiệu sau.


18
Chính vì những bất cập trên, Luật SHTT năm 2005 đã có quy định liên quan
đến nhãn hiệu nổi tiếng cụ thể:
Khoản 20 điều 4 Luật SHTT Việt Nam quy định: Nhãn hiệu nổi tiếng là
nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt nam.
Từ quy định trên có thể thấy, nhãn hiệu nổi tiếng xác lập trên cơ sở sử dụng
và không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký. Chính nhờ q trình sử dụng liên tục mà
nhãn hiệu mới được người tiêu dùng biết đến.
Ngồi ra, Luật SHTT cịn đưa ra 7 tiêu chí để đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng
được quy định tại Điều 75 chẳng hạn như: số lượng người tiêu dùng liên quan biết
đến nhãn hiệu, phạm vi lãnh thổ hàng hóa dịch vụ mang nhãn hiệu được lưu hành,
doanh số bán hàng, thời gian sử dụng liên tục nhãn hiệu, uy tín của hàng hóa/dịch
vụ mang nhãn hiệu, số lượng quốc gia bảo hộ nhãn hiệu, số lượng quốc gia công
nhận nhãn hiệu nổi tiếng…Các quy định này là những quy định mở, dựa vào các
tiêu chí này các tổ chức, cá nhân sẽ thu thập các chứng cứ liên quan đến quá trình
sử dụng của nhãn hiệu để yêu cầu các cơ quan chức năng xem xét, đánh giá. Cũng
cần phải lưu ý rằng, ngoài các tiêu chí nêu trên, nếu tổ chức, cá nhân có các chứng
cứ khác, có thể cung cấp để yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xem xét, đánh giá nhãn
hiệu.
Tuy nhiên qua xem xét các tiêu chí nêu trên, chúng ta cũng có thể dễ dàng
nhận thấy rất nhiều các quy định mang tính chất định tính, chưa mang tính định

lượng, ví dụ như số lượng các quốc gia, số lượng người tiêu dùng...Vấn đề đặt ra ở
đây là khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét một nhãn hiệu có phải là nổi
tiếng khơng thì các tổ chức, cá nhân cần phải cung cấp số lượng bao nhiêu quốc gia
mà nhãn hiệu đã được đăng ký, vấn đề tương tự cũng đặt ra đối với số lượng người
tiêu dùng. Nếu ở các quốc gia khác theo hệ thống luật Anh Mỹ, thì những quy định
này thường được áp dụng dựa vào án lệ. Tuy nhiên, do đặc thù của hệ thống luật
Việt Nam, hiện vẫn chưa có án lệ nào về tranh chấp sở hữu trí tuệ được thừa nhận
dù cho án lệ đã được thừa nhận như một nguồn của luật tại BLDS 2015. Vì vậy, cần
có các quy định cấp độ Thông tư điều chỉnh về vấn đề này để dễ dàng cho các bên
liên quan trong quá trình áp dụng thống nhất pháp luật.
Bên cạnh đó, có sự mâu thuẫn giữa quy định trong điểm 6 điều 75 về số
lượng quốc gia bảo hộ nhãn hiệu và quy định tại điểm 20, Điều 4, Luật SHTT. Định
nghĩa tại điều 4 chỉ yêu cầu nhãn hiệu nổi tiếng chỉ cần được người tiêu dùng biết
đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam trong khi tiêu chí cơng nhận lại nêu số
lượng quốc gia. Việc quy định như trên này sẽ rút ra một hệ quả, nếu một nhãn hiệu
rất nổi tiếng trên thế giới, tuy nhiên nếu người tiêu dùng Viêt Nam không biết đến,


×