Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Luận văn thạc sĩ tổ chức và hoạt động của trung tâm trợ giúp pháp lý qua thực tiễn tỉnh lào cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 95 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HỒNG THỊ THU HÀ

Tỉ CHứC Và HOạT ĐộNG CủA TRUNG TÂM TRợ GIúP PHáP Lý
- QUA THùC TIƠN TØNH LµO CAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HỒNG THỊ THU HÀ

Tỉ CHứC Và HOạT ĐộNG CủA TRUNG TÂM TRợ GIúP PHáP Lý
- QUA THùC TIƠN TØNH LµO CAI
Chun ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 8380101.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TSKH ĐÀO TRÍ ÚC

HÀ NỘI - 2020


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong bất kỳ
cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các
mơn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Hồng Thị Thu Hà


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ VÀ
TỔ CHỨC THỰC HIỆN HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ ...........5
1.1.

Khái niệm, đặc trƣng, ý nghĩa, cơ sở để xây dựng hoạt động trợ
giúp pháp lý ..................................................................................................5

1.1.1.


Khái niệm trợ giúp pháp lý ............................................................................5

1.1.2.

Đặc trưng cơ bản và Ý nghĩa của hoạt động trợ giúp pháp lý .....................14

1.1.3.

Vai trò của hoạt động trợ giúp pháp lý trong xã hội Việt Nam ...................20

1.1.4.

Các mơ hình trợ giúp pháp lý ......................................................................24

1.1.5.

Hoạt động trợ giúp pháp lý ..........................................................................26

1.1.6.

Kinh nghiệm tổ chức, hoạt động trợ giúp pháp lý một số nước trên
thế giới ........................................................................................................27

1.2.

Tổ chức và hoạt động của trung tâm trợ giúp pháp lý theo quy
định của pháp luật Việt Nam hiện hành .................................................33

1.2.1.


Trung tâm trợ giúp pháp lý ..........................................................................33

1.2.2.

Đối tượng được trợ giúp pháp lý .................................................................35

1.2.3.

Vị trí và vai trò của hoạt động trợ giúp pháp lý tại trung tâm trợ giúp
pháp lý .........................................................................................................37

1.2.4.

Tổ và hoạt động của trung tâm trợ giúp pháp lý .........................................44

CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CỦA TRUNG TÂM TRỢ GIÚP
PHÁP LÝ TỈNH LÀO CAI.......................................................................51
2.1.

Tổ chức và hoạt động của trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Lào Cai .........51

2.1.1.

Cơ cấu tổ chức của trung tâm pháp lý tại tỉnh Lào Cai ...............................51


2.1.2.

Tình hình hoạt động của trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Lào Cai..............55


2.2.2.

Kết quả thực hiện TGPL tại tỉnh Lào Cai ...................................................64

2.2.3.

Hạn chế khó khăn trong q trình thực hiện trợ giúp pháp lý tại Lào Cai ........66

CHƢƠNG 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ HIỆN NAY Ở
LÀO CAI ....................................................................................................70
3.1.

Phƣơng hƣớng nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý hiện
nay ở Lào Cai .............................................................................................70

3.2.

Đổi mới cơ chế tổ chức, bảo đảm các điều kiện để thực hiện pháp
luật trợ giúp pháp lý..................................................................................71

3.3.

Nâng cao trình độ năng lực chuyên môn, bồi dƣỡng phẩm chất
đạo đức nguồn nhân lực thực hiện trợ giúp pháp lý ..............................73

3.4.

Đẩy mạnh công tác truyền thông, giáo dục pháp luật đến ngƣời
đƣợc TGPL ................................................................................................76


3.5.

Nâng cao chất lƣợng thực hiện trợ giúp pháp lý trong tố tụng ............77

3.6.

Thực hiện số hóa trong quản lý hoạt động Trợ giúp pháp lý ...............80

3.7.

Nâng cao nhận thức của ngƣời dân về vai trò trách nhiệm của trung
tâm trợ giúp pháp lý ...................................................................................81

3.8.

Tiếp tục hồn thiện và triển khai có hiệu quả các văn bản về TGPL ......82

3.9.

Xã hội hóa dịch vụ trợ giúp pháp lý ........................................................83

KẾT LUẬN ..............................................................................................................87
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................88


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BL DS&TM:

Bộ luật dân sự và thương mại


BLDS:

Bộ luật dân sự

BLTTDS:

Bộ luật tố tụng dân sự

TAND:

Tòa án nhân dân

TGPL:

Trợ giúp pháp lý

VK:

Viện kiểm sát

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ
giúp pháp lý theo quy định của luật trợ giúp pháp lý 11/2017/ QH14, giúp người được

trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp
luật, ý thức tơn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục
pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm cơng bằng xã hội, phịng ngừa, hạn chế tranh chấp
và vi phạm pháp luật. Nâng cao hiểu biết của người dân về pháp luật, biết được
những việc gì nên làm ? và việc gì khơng nên làm?, để tránh xa những hành vi mà
pháp luật cấm, giúp cho xã hội phát triển bền vững, ổn định, trật tự, lâu dài.
Trợ giúp pháp lý là công cụ để nhà nước thực hiện nghĩa vụ đối với cơng dân
của mình. Khi mà nhà nước ban hành pháp luật, buộc người dân phải tuân theo, đồng
thời nhà nước cũng phải xây dựng cơ sở tuyên truyền, giáo dục hướng dẫn người dân
thi hành đúng pháp luật để pháp luật bảo vệ được quyền và lợi ích của cơng dân.
Hệ thống pháp luật nước ta ngày càng nhiều và thiếu thống nhất, đồng bộ
trong các văn bản làm tăng mức độ phức tạp khiến cho ngay cả người được đào tạo
về pháp luật đôi khi cũng không hiểu hết các quy định của pháp luật và khi có
vướng mắc pháp luật hay phải đứng trước tồ án cũng khơng chắc chắn có thể bảo
vệ thành cơng quyền lợi của mình. Vì vậy, người Trợ giúp pháp lý địi hỏi phải có
tâm, có chuyên môn, nắm chắc các văn bản quy phạm pháp luật, trình tự tố tụng….
Để có thể đạt được hiệu quả, năng suất trợ giúp cao.
Trợ giúp pháp lý là một nhiệm vụ mới của ngành tư pháp thể hiện sự quan
tâm sâu sắc của Đảng và nhà nước đối với người nghèo và đối tượng chính sách
trên phương diện pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, đánh dấu bước phát
triển vượt bậc của công cuộc

a đ i, giảm nghèo ở Việt Nam. X a đ i, giảm nghèo

cả về mặt vật chất và tinh thần, tạo điều kiện cho người chịu thiệt thịi trong

hội

được bình đẳng tiếp cận với pháp luật, công bằng trước pháp luật
Trên địa bàn tỉnh Lào Cai, đa số là đồng bào dân tộc thiếu số, dân tộc ít


1


người việc tiếp cận pháp luật đối với bà con là một điều rất xa vời, nên việc TGPL
đối với đồng bào là rất cần thiết. Để họ có thể tự đảm bảo quyền lợi của mình, cũng
như giám sát việc thực thi pháp luật của cơ quan tố tụng. Hầu hết địa bàn các thôn,
bản vùng c điều kiện kinh tế xã hội kh khăn đều cách a trung tâm, giao thông đi
lại kh khăn, hơn nữa nguồn kinh phí cấp cho hoạt động truyền thơng cịn hạn hẹp,
các trang thiết bị, phương tiện làm việc còn nhiều hạn chế, tuy nhiên với tinh thần
trách nhiệm cao, toàn thể cán bộ, trợ giúp viên trung tâm vẫn luôn nỗ lực hoàn
thành tốt nhiệm vụ, đưa ánh sáng pháp luật đến với bà con dân bản vùng xa xôi, hẻo
lánh, nâng cao hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật cho bà con nhân dân
Trợ giúp pháp lý rất cần thiết đối với việc củng cố luật pháp, ây dựng nhà
nước pháp quyền và có tầm quan trọng như một bộ phận không thể tách rời của việc
thực thi công lý và cũng cần thiết như một bộ phận khơng thể thiếu trong q trình
xét xử để đảm bảo được tính khách quan, dân chủ, cơng bằng.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu một cách tồn diện, có hệ thống những vấn đề
lý luận và thực tiễn về mơ hình tổ chức - hoạt động Trung tâm trợ giúp pháp lý.
Nghiên cứu về các hoạt động thực tiễn của trung tâm trợ giúp pháp lý trong phạm vi
Tỉnh Lào Cai, từ đ tìm ra các ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân, cách khắc phục để
kết quả trợ giúp pháp lý đạt hiệu quả, nâng cao nhận thức của người dân về pháp
luật. Để người dân có thể bảo vệ quyền và lợi ích của mình, giám sát việc thực thi
pháp luật của các cơ quan, tổ chức nhà nước. Trung tâm trợ giúp pháp lý có vai trị
vơ cùng quan trọng trong việc tun truyền pháp luật giúp pháp luật đến gần với
người dân, bà con đồng bào dân tộc có thể hiểu được những quyền lợi chính sách
của đảng và nhà nước, để chính họ có thể bảo vệ quyền lợi cho họ.
Nhiệm vụ: làm rõ các vấn đề về cơ sở lý luận, trợ giúp pháp lý và hoạt động
của Trung tâm TGPL; Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động TGPL tại Tỉnh Lào

Cai, tìm ra được những ưu điểm, hạn chế, kh khăn, vướng mắc, bất cập, đánh giá
hiệu quả tổ chức - hoạt động của trung tâm trợ giúp pháp lý qua trực tiễn tại tỉnh
Lào Cai.; Đề xuất các giải pháp, kiến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động của
Trung tâm TGPL

2


3. Đối tƣợng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về những vấn đề lý luận, pháp lý về Tổ chức
hoạt động của trung tâm TGPL ở Việt Nam nói chung và trung tâm trợ giúp pháp lý
qua thực tiễn tại Tỉnh Lào Cai nói riêng
- Chủ thể của việc trợ giúp pháp lý chính là người làm cơng tác TGPL, trung
tâm trợ giúp pháp lý, và người được trợ giúp pháp lý. Các chủ thể này có mối quan hệ
tác động lẫn nhau, giúp cho việc thực thi pháp luật được nhanh chóng, hiệu quả……
- Giải pháp đảm bảo, nâng cao hiệu quả hoạt động của Trung tâm TGPL
trong thời gian tới
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lenin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, pháp luật
- Quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước về
vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
- Luận văn nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử, luật học, phân tích – tổng hợp, logic- lịch sử, so
sánh, đối chiếu.
- Sử dụng phương pháp khai thác và sử dụng các tư liệu thực tiễn;
- Thực hiện bảng hỏi, tiếp xúc trực tiếp người dân, đồng bào dân tộc thiểu số,
ít người để đánh giá chính ác thực trạng hoạt động của trung tâm tgpl tại huyện
Văn Bàn
- Tham khảo các ý kiến của chun gia thơng qua báo chí, trang web, truyền hình…..

5. Phạm vi nghiên cứu
- Những vấn đề lý luận chung về hoạt động trợ giúp pháp lý và tổ chức thực

hiện hoạt động trợ giúp pháp lý
- Luận văn chỉ đi sâu vào Tổ chức hoạt động trợ giúp pháp lý qua thực tiến ở

Lào Cai, từ đ đưa ra giải pháp nâng cao hiểu quả hoạt động trợ giúp pháp lý
6. Câu hỏi nghiên cứu
- TGPL là gì? Vai trò của TT TGPL đối với người dân

3


- Tổ chức -Hoạt động của trung tâm trợ giúp pháp lý như thế nào? Có thực
sự hiệu quả? Việc trợ giúp cho người dân có thực sự kịp thời, hay những người cần
TGPL phải đơn phương tự mình bảo vệ chính mình….
- Tìm ra ưu điểm, hạn chế trong hoạt động của trung tâm TGPL ? từ đ đưa
ra các cách giải quyết nhằm nâng cao hoạt động trợ giúp pháp lý của người dân?

4


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ VÀ TỔ CHỨC
THỰC HIỆN HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
1.1. Khái niệm, đặc trƣng, ý nghĩa, cơ sở để xây dựng hoạt động trợ
giúp pháp lý
1.1.1. Khái niệm trợ giúp pháp lý
Khái niệm trợ giúp pháp lý được sử dụng phổ biến trên thế giới từ thế kỷ
XX, tiếng anh là “legal aid” c nghĩa là trợ giúp pháp lý. Các nước sử dụng thuật

ngữ TGPL bao gồm các từ là “legal aid”, “legal support” hoặc “legal assistance”.
Tuy nhiên, đa số các ý kiến cũng như pháp luật các nước sử dụng cụm từ trợ giúp
pháp lý là “legal aid” trong tiếng Anh. “TGPL” (legal aid) có nghĩa là “trợ cấp pháp
lý”; Nhà nước, chính phủ hoặc một tổ chức xã hội cung cấp dịch vụ pháp lý và trợ
cấp chi phí về pháp lý trích từ quỹ phúc lợi công cộng để hỗ trợ những đối tượng
trong xã hội thuộc diện cần trợ giúp pháp lý, những chủ thể này khơng thể tự mình
trả nổi hoặc “là khoản tiền được cung cấp bởi Chính phủ hoặc một tổ chức xã hội
khác cho những người cần có được sự giúp đỡ chi trả chi phí cho việc cung cấp lời
khuyên pháp lý hoặc phí dịch vụ của luật sư”.
Về mặt pháp lý, giữa các hệ thống pháp luật khác nhau trên thế giới, kỹ thuật
lập pháp khác nhau thì khái niệm TGPL cũng được quy định khác nhau. Các nước
thuộc hệ thống thông luật định nghĩa TGPL theo hướng khái quát, thiên về việc quy
định ai là đối tượng được TGPL và đặc biệt nhấn mạnh mục tiêu của TGPL là bảo
đảm công bằng trong tiếp cận công lý [16].
Trợ giúp pháp lý (legal aid) là việc cung cấp hỗ trợ cho những người không
c khả năng đại diện pháp lý và tiếp cận hệ thống tòa án. Trợ giúp pháp lý được coi
là trọng tâm trong việc cung cấp quyền tiếp cận công lý bằng cách đảm bảo sự bình
đẳng trước pháp luật, quyền tư vấn và quyền ét ử công bằng.
Ở g c độ dịch thuật “Legal aid” là dịch vụ “bảo trợ tư pháp”, “hỗ trợ pháp lý”.
Việc “hỗ trợ” và “bảo trợ” mang tính chất “trợ giúp” hoặc giúp đỡ. Do vậy thuật ngữ “
trợ giúp pháp lý” thể hiện nhất quán, chính ác nội dung của các hoạt động này.

5


Trợ giúp pháp lý là điều cần thiết để đảm bảo quyền tiếp cận công bằng cho tất
cả mọi người, theo quy định tại Điều 6.3 của Công ước châu Âu về Nhân quyền liên
quan đến các vụ án hình sự. Đặc biệt, đối với những công dân không c đủ phương
tiện tài chính, việc chính phủ cung cấp trợ giúp pháp lý cho công dân sẽ tăng khả
năng tranh tụng trong q trình tố tụng tại tịa án, được các chuyên gia pháp lý hỗ trợ

miễn phí (hoặc với chi phí thấp hơn) hoặc nhận hỗ trợ tài chính. Mặc dù trợ giúp
pháp lý nhằm tạo ra sự công bằng hơn trong phạm vi thực tiễn pháp lý, viện trợ
thường bị hạn chế về chất lượng hoặc tác động

hội của n bởi những hạn chế kinh

tế chỉ ra ai c thể hưởng các dịch vụ này và nơi c các dịch vụ trợ giúp pháp lý.
Trợ giúp pháp lý là việc trợ giúp cho những người không c điều kiện về tài
chính hoặc c hồn cảnh đặc biệt được hưởng trợ giúp pháp lý mà không phải chi
trả thù lao hoặc được giảm một phần thù lao.
Khách thể của trợ giúp pháp lý là pháp luật. Pháp luật càng đầy đủ, càng phức
tạp và phạm vi điều chỉnh càng rộng thì khách thể trợ giúp pháp lý càng cần được
phát triển tương ứng. Trợ giúp pháp lý được tiếp cận dưới g c độ kinh tế, g c độ
công lý và g c độ nhân đạo, lấy sự yếu thế, bần cùng hoặc bất bình đẳng của nh m
đối tượng c hoàn cảnh đặc biệt (người nghèo, đối tượng dễ bị tổn thương), lấy tính
phức tạp của pháp luật làm căn cứ cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của mình.
Trợ giúp pháp lý c mối quan hệ chặt chẽ với nhà nước và chính sách phúc
lợi

hội. Trợ giúp pháp lý là một điều khoản phúc lợi của nhà nước cho những

người không thể đủ khả năng tư vấn từ hệ thống pháp lý. Trợ giúp pháp lý cũng
giúp đảm bảo rằng các điều khoản phúc lợi được thực thi bằng cách cung cấp cho
những người được hưởng các điều khoản phúc lợi, như nhà ở

hội, được tiếp cận

với tư vấn pháp lý và tòa án….
Trong lịch sử, trợ giúp pháp lý đ đ ng một vai trị mạnh mẽ trong việc đảm
bảo tơn trọng các quyền kinh tế,

ở, chăm s c

hội và văn h a liên quan đến an sinh

hội, nhà

hội, y tế và cung cấp dịch vụ giáo dục, cũng c thể được cung cấp

công khai hoặc tư nhân, cũng như luật việc làm và luật chống phân biệt đối
ử…. Các luật sư như Mauro Cappelletti cho rằng trợ giúp pháp lý là điều cần thiết

6


trong việc cung cấp cho các cá nhân quyền tiếp cận công lý, bằng cách cho phép cá
nhân thực thi pháp luật các quyền kinh tế,

hội và văn h a. Quan điểm của ông

phát triển vào nửa sau của thế kỷ 20, khi các nền dân chủ với các nền kinh tế tư bản
được thành lập tự do nhà nước phúc lợi tập trung vào cá nhân. Các quốc gia đ ng vai
trò là nhà thầu và nhà cung cấp dịch vụ trong triết lý dựa trên thị trường, nhấn
mạnh công dân là người tiêu dùng. Điều này dẫn đến một sự nhấn mạnh vào việc
thực thi cá nhân để đạt được việc thực hiện các quyền cho tất cả mọi người [7, tr.89].
Trước giữa thế kỷ 20, tài liệu về trợ giúp pháp lý nhấn mạnh việc thực thi tập
thể các quyền kinh tế,

hội và văn h a. Khi các quốc gia phúc lợi cổ điển được

ây dựng vào những năm 1940 và sau Thế chiến II, một nguyên tắc cơ bản là công

dân c trách nhiệm tập thể đối với các quyền kinh tế,

hội và văn h a; và nhà

nước nhận trách nhiệm cho những người không thể tự cung cấp thông qua bệnh tật
và thất nghiệp. Việc thực thi các quyền kinh tế,

hội và văn h a là tập thể, thơng

qua các chính sách thay vì hành động pháp lý cá nhân. Luật được ban hành để hỗ trợ
các điều khoản phúc lợi, mặc dù những điều này được coi là luật cho các nhà quy
hoạch, không phải luật sư. Các chương trình trợ giúp pháp lý đ được thiết lập, vì
người ta cho rằng nhà nước c trách nhiệm hỗ trợ những người tham gia tranh chấp
pháp lý, nhưng ban đầu họ tập trung chủ yếu vào luật gia đình và ly hơn [7, tr.89]
Trong những năm 1950 và 1960, vai trò của nhà nước phúc lợi đ thay đổi và
các mục tiêu

hội khơng cịn được coi là mục tiêu chung. Các cá nhân được tự do

theo đuổi mục tiêu của riêng họ. Nhà nước phúc lợi trong thời gian này mở rộng,
cùng với các điều khoản trợ giúp pháp lý, khi những lo ngại uất hiện về sức mạnh
của các nhà cung cấp phúc lợi và các chuyên gia. Trong những năm 1960 và 1970,
nhu cầu về quyền của các cá nhân thực thi một cách hợp pháp các quyền kinh tế,
hội và văn h a và các điều khoản phúc lợi mà cá nhân họ được hưởng. Các cơ chế
uất hiện thông qua đ công dân c thể thực thi một cách hợp pháp các quyền kinh
tế,

hội và văn h a của họ, và các luật sư phúc lợi đ sử dụng trợ giúp pháp lý để

tư vấn cho những người c thu nhập thấp khi giao dịch với các quan chức nhà


7


nước. Trợ giúp pháp lý đ được mở rộng từ luật gia đình đến một loạt các quyền
kinh tế,

hội và văn h a [7, tr.90-91]

Trong những năm 1980, vai trò của nhà nước phúc lợi cổ điển khơng cịn
được coi là nhất thiết phải tích cực, và phúc lợi ngày càng được cung cấp bởi các
thực thể tư nhân. Trợ giúp pháp lý ngày càng được

hội h a, cung cấp dịch vụ

pháp lý thông qua các nhà cung cấp tư nhân, nhưng họ vẫn tập trung vào việc cung
cấp hỗ trợ trong các vụ kiện tại tịa án. Cơng dân ngày càng được coi là người tiêu
dùng, những người c thể lựa chọn trong số các dịch vụ. Trong trường hợp không
thể đưa ra lựa chọn như vậy, công dân được trao quyền n i lên sự khơng hài lịng
của họ thơng qua các quy trình khiếu nại hành chính. Điều này dẫn đến căng thẳng,
vì trợ giúp pháp lý không được thiết kế để đưa ra lời khuyên cho những người tìm
cách khắc phục thơng qua các quy trình khiếu nại hành chính. Căng thẳng cũng bắt
đầu uất hiện khi các quốc gia nhấn mạnh việc thực thi cá nhân các quyền kinh tế,
hội và văn h a, thay vì thực thi tập thể thơng qua các chính sách, giảm tài trợ cho
trợ giúp pháp lý như là một điều khoản nhà nước phúc lợi. Việc thực thi quyền lợi
phúc lợi cá nhân đòi hỏi loại nhà nước tài trợ trợ giúp pháp lý nhấn mạnh việc thực
thi tập thể c nhiều khả năng cung cấp [7, tr.91]
Trợ giúp pháp lý trong lịch sử c nguồn gốc từ quyền tư vấn và quyền tham
gia một phong trào ét ử công bằng của các nước châu Âu lục địa thế kỷ 19. "Luật
của người nghèo" đ miễn lệ phí tịa án cho người nghèo và quy định việc bổ nhiệm

luật sư cho những người không c khả năng trả tiền cho luật sư. Ban đầu, kỳ vọng
là các luật sư trực sẽ hành động trên một nền tảng pháp lý chuyên nghiệp. Đầu thế
kỷ 20, nhiều nước châu Âu không c cách tiếp cận chính thức đối với trợ giúp pháp
lý và người nghèo dựa vào quỹ từ thiện của luật sư. Hầu hết các quốc gia đ tiếp tục
thiết lập luật quy định việc thanh tốn một khoản phí vừa phải cho luật sư trực. Để
hạn chế nhu cầu, trợ giúp pháp lý đ được giới hạn ở chi phí luật sư trong tố tụng tư
pháp cần luật sư. Các quốc gia c hệ thống pháp luật dân sự và hệ thống pháp luật
chung áp dụng các cách tiếp cận khác nhau để c quyền tư vấn trong dân sự và hình
sự tố tụng. Các quốc gia luật dân sự c nhiều khả năng nhấn mạnh quyền tư vấn

8


trong tố tụng dân sự, và do đ cung cấp trợ giúp pháp lý khi cần c luật sư. Các
quốc gia luật phổ biến nhấn mạnh quyền tư vấn và cung cấp trợ giúp pháp lý chủ
yếu liên quan đến thủ tục tố tụng hình sự [7, tr.114].
Để đối ph với sự cơng nghiệp h a nhanh chóng ở châu Âu cuối thế kỷ
19, các cơng đồn và các đảng cơng nhân đ

uất hiện thách thức các chính sách

hội của các chính phủ. Họ đ thơng qua luật để cung cấp cho người lao động các
quyền hợp pháp trong trường hợp bị bệnh hoặc tai nạn, trong nỗ lực ngăn chặn hành
động công nghiệp của công nhân công nghiệp. Lần lượt các cơng đồn cơng nhân
bắt đầu cung cấp cho công nhân những lời khuyên pháp lý về các quyền kinh tế,
hội và văn h a mới của họ. Nhu cầu về các dịch vụ này rất cao và trong nỗ lực cung
cấp cho người lao động những lời khuyên phi đảng phái, nhiều chính phủ bắt đầu
cung cấp trợ giúp pháp lý vào đầu thế kỷ 20 [7].
Trong thế kỷ 20, trợ giúp pháp lý đ phát triển cùng với các nguyên tắc tiến
bộ; thường được hỗ trợ bởi những thành viên của nghề luật, những người cảm thấy

rằng trách nhiệm của họ là chăm s c những người c thu nhập thấp. Trợ giúp pháp
lý được thúc đẩy bởi những gì luật sư c thể cung cấp để đáp ứng "nhu cầu pháp lý"
của những người mà họ ác định là nghèo, bị thiệt thòi hoặc bị phân biệt đối
ử. Theo ông Francis Regan, việc cung cấp trợ giúp pháp lý là do cung cấp chứ
không phải do nhu cầu, dẫn đến khoảng cách rộng giữa các điều khoản đáp ứng nhu
cầu nhận thức và nhu cầu thực tế. Các sáng kiến dịch vụ pháp lý, như hòa giải khu
phố và dịch vụ pháp lý, thường phải đ ng cửa do thiếu nhu cầu, trong khi những
người khác thì quá tải với khách hàng [7, tr.114]
Theo một học giả Trung Quốc thì, trong trợ giúp pháp lý, mặc dù Nhà nước
lấy sự giúp đỡ về kinh tế (giảm, miễn phí) cho người được trợ giúp pháp lý làm bản
chất nhưng c mục đích lớn hơn, đ là bảo đảm quyền lợi hợp pháp mà pháp luật
dành cho mọi cơng dân được thực hiện đầy đủ, hồn thiện một chế độ pháp luật
quốc gia “mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”. N là biện pháp quan trọng để
Nhà nước pháp quyền hiện nay thực hiện sự công bằng tư pháp và bảo đảm quyền
cơ bản của con người [4, tr.1]. Quan niệm này dựa trên luận điểm Nhà nước muốn

9


bảo đảm các quyền lợi mà pháp luật đành cho công dân được thực hiện một cách
thiết thực trong đời sống thực tại thơng qua chế độ miễn, giảm phí dịch vụ pháp lý
hoặc miễn, giảm chỉ phí tố tụng với những nh m người cần sự giúp đỡ của pháp
luật để bảo vệ quyển lợi theo quy định của pháp luật hoặc của đương sự trong một
số vụ án đặc biệt vì lý do cơng lý.
Như vậy, trợ giúp pháp lý là biện pháp pháp lý quan trọng nhằm bảo đảm để
pháp luật được tôn trọng trong thực tế và mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
Có xây dựng được chế độ trợ giúp pháp lý hoàn thiện, quy củ hay không, vừa là
mốc quan trọng để đánh giá pháp chế có kiện tồn hay khơng; cơ chế bảo đảm
quyển con người về tư pháp có hồn thiện hay không, vừa là thước đo trọng yêu đề
xem xét trình độ tiến bộ, văn minh


hội” [4, tr.1]. Với cách tiếp cận này, trợ giúp

pháp lý được hiểu là quyển cơ bản của công dân, là một: bộ phận trong tổng thể các
biện pháp thực thi pháp luật có thuộc tính chính trị - pháp lý, tính nhân đạo và tính
kinh tế - xã hội.
Khái niệm trợ giúp pháp lý được quy phạm hoá trong pháp luật, là một bộ
phận cấu thành của điều chỉnh pháp luật về trợ giúp pháp lý. Cách thể hiện có thể
khác nhau nhưng nội dung tương đối đồng nhất. Theo Luật đại diện và tư vấn pháp
lý năm 1995 của Singapo, trợ giúp pháp lý là việc đại diện cho khách hàng trước
Toà án nhằm giúp đỡ những người khơng có khả năng chỉ trả cho các dịch vụ pháp
lý (Điều 2). Luật về trợ giúp pháp lý năm 1997 của Nepal quy định: trợ giúp pháp lý
là giúp đỡ pháp lý cho người nghèo, được áp dụng trong tư vấn và các dịch vụ pháp
lý khác như thực hiện thay cho người nghèo những việc bào chữa tương ứng và
các thủ tục tại Tồ án hoặc tại các văn phịng luật (Điều 2). Luật trợ giúp pháp lý
của Anh năm 1988 quy đinh: trợ giúp pháp lý là sự trợ giúp trong việc sử dụng bất
kỳ biện pháp nào mà một người có thể sử dụng, gồm cả biện pháp đối với thủ tục tố
tụng, liên quan đến việc áp dụng pháp luật [5, tr.20-21].
Để định nghĩa trợ giúp pháp lý, cần chỉ ra những thuộc-tính cơ bản, chỉ ra
các quy, luật cơ bản nhất trong hệ thống các quy luật tạo thành bản chất. Thuật ngữ
"trợ giúp pháp lý" được biểu là sự giúp đỡ về pháp lý cho một cá nhân (người) hoặc

10


một tổ chức đang cần chính sự giúp đỡ này từ phía các chủ thể có kiến thức, hiểu
biết pháp luật. Như vậy, trợ giúp pháp lý có thể được nhìn nhận như một chính sách
pháp luật mang tính nhân đạo và kinh tế (hỗ trợ cả về mặt tỉnh thần, tài chính, nghề
nghiệp) nhưng đối tượng điều chỉnh lại mang tính chính trị - pháp lý (vì mục tiêu
bình đẳng, minh bạch, công lý).

Người được thực hiện trợ giúp pháp lý là: luật sư nhà nước (luật sư công),
luật sư hành nghề tự do, chuyên gia pháp lý, người hành nghề luật bán chuyên (para
- legal) ở Việt Nam gọi là cộng tác viên. Tính chất nghề luật thể hiện ở chỗ, trợ giúp
pháp lý lấy pháp luật làm công cụ và c đối tượng là các vụ việc pháp luật. Nếu
thiếu pháp luật, pháp luật không đầy đủ, khơng quy định thì khơng có khách thể để
trợ giúp. Hình thức trợ giúp pháp lý là tư vấn, đại diện, bào chữa trong phạm vi và
theo trình tự luật định. Từ g c độ này tạo thành mặt khách quan của quan hệ pháp
luật về trợ giúp pháp lý, là phạm vi lĩnh vực pháp luật được trợ giúp pháp lý. Phạm
vi này có thể rộng, hẹp khác nhau (như chỉ trợ giúp pháp lý về pháp luật hình sự,
hoặc cả dân sự, lao động, v.v.).
Trợ giúp pháp lý là một phương thức tổ chức thực hiện đường lối của Đảng
đ được thể chế hố thành pháp luật, thơng qua việc vận dụng pháp luật vào từng
trường hợp cụ thể của cơng dân, nhằm góp phần thực hiện đúng các quy định về
quyền và lợi ích của cơng dân, duy trì trật tự pháp luật. Qua đ , đưa chủ trương,
đường lối của Đảng vào cuộc sống, khắc phục sự bất cập trong hoạt động công vụ,
tăng niềm tin của dân chúng vào pháp luật, là cơ chế để phát huy vai trị và tính
đúng đắn của đường lối, chính sách đ được luật hố. Cơng dân là chủ thể đại diện
của quyền lực của nhà nước, khi một bộ phận chủ thể này bị rơi vào tình thế cần
được bảo đảm về mặt pháp lý thì Nhà nước phải tổ chức thực hiện để họ được
hưởng công bằng trong giải quyết tranh chấp, khiếu kiện hoặc xét xử. Qua trợ giúp
pháp lý, Nhà nước điều tiết, giải quyết các mối quan hệ xã hội cụ thể đang c sự bất
ổn, nhằm khắc phục tình trạng bất cập của cơng vụ hoặc tình trạng quẫn bách phải
tự “ ử lý”, phải “chạy chọt” tốn kém do thiếu hiểu biết, dễ gây mất ổn định xã hội.
Mặc khác, trợ giúp pháp lý là cơng cụ chính trị góp phần hạn chế tối đa sự bất bình

11


đẳng do chênh lệch giàu, nghèo, làm giảm bớt mâu thuẫn trong xã hội, từ đ thiết
lập sự ổn định chính trị, trật tự, an tồn xã hội, bảo vệ chế độ và định hướng các

quan hệ xã hội theo ý chí của Nhà nước.
Trợ giúp pháp lý là việc Nhà nước và xã hội tạo cơ chế để một người được
nhận tư vấn pháp luật, được đại diện, bảo vệ quyền lợi hoặc được bào chữa miễn
phí hoặc giảm phí (khơng phải trả chi phí hoặc trả chỉ phí thấp hơn giá trị thực tế
của dịch vụ). Để thực hiện trợ giúp pháp lý, Nhà nước có thể lựa chọn: cấp kinh phí
cho tổ chức nghề nghiệp (như: văn phịng luật sư, cơng ty luật,...); th luật sư theo
vụ việc; lập ra các tổ chức hưởng lương hoặc trực tiếp cấp tài chính cho người dân
để họ chỉ trả theo vụ việc hoặc tạo thiết chế để có mơ hình hỗn hợp. Sự cung ứng tài
chính này của Nhà nước thực tế l có giá trị xã hội và lợi ích kinh tế lớn khi góp
phần giữ ổn định trật tự xã hội, tránh được chỉ phí giải quyết khiếu kiện, kháng cáo
không cần thiết để người dân yên tâm lao động, sản xuất tạo ra nhiều của cải, vật
chất cho xã hội [5, tr.26-27]
Ở Việt Nam, ngày 6/9/1997 Thủ tướng chính phủ đ ban hành Quyết định số
734/TTg về việc thành lập tổ chức Trợ giúp Pháp lý cho người nghèo và các đối tượng
chính sách. Từ đ trợ giúp pháp lý được ghi nhận và sử dụng phổ biến trong các văn
bản pháp luật, sách báo, tạp chí…. Trợ giúp pháp lý đang được theo hai cách sau:
Theo nghĩa rộng: TGPL được hiểu là sự giúp đỡ miễn phí của Nhà nước và
xã hội cho người nghèo, đối tượng chính sách và đồng bào dân tộc thiểu số tiếp cận
với các dịch vụ pháp lý (tư vấn pháp luật, bào chữa, bảo vệ, đại diện), nhằm bảo
đảm cho mọi cơng dân đều bình đẳng trước pháp luật và thực hiện công bằng xã hội
Theo nghĩa hẹp: TGPL là việc thực hiện các dịch vụ pháp lý miễn phí của
các tổ chức TGPL cho người nghèo và người được hưởng chính sách ưu đ i và một
số đối tượng khác. Ngoài ra cũng c quan niệm cho rằng TGPL là việc giúp đỡ
pháp luật miễn phí cho người nghèo và đối tượng được hưởng chính sách ưu đ i của
Nhà nước để họ c điều kiện tiếp cận, sử dụng pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình.
Qua các khái niệm được ghi nhận trong các văn bản pháp luật của các nước,

12



cũng như các khái niệm đang tồn tại ở nước ta có thể nhận thấy, TGPL được hiểu là
sự giúp đỡ về mặt pháp lý, bằng nhiều hình thức khác nhau của Nhà nước và xã hội
cho những người không có khả năng chi trả cho các chi phí pháp lý. TGPL, trước
hết về mặt ngữ nghĩa thì “trợ giúp” là sự giúp đỡ, hỗ trợ, giúp cho ai việc gì, đem
cho ai cái gì trong lúc kh khăn, đang cần đến hoặc cũng c thể là giúp để làm giảm
bớt kh khăn, nghĩa là làm cho một ai đ một việc mà người đ đang cần. Còn thuật
ngữ “pháp lý” được hiểu là lý lẽ, lẽ phải theo pháp luật nói một cách khái quát; pháp
lý là lý luận, luận điểm cơ bản đối với pháp luật của một chế độ. Trong điều kiện
hiện nay, pháp luật là hệ thống các quy phạm do Nhà nước ban hành để quản lý xã
hội. Mọi người dân phải lấy pháp luật làm chuẩn mực để thực hiện quyền và nghĩa
vụ của mình. Theo hướng tiếp cận này, TGPL là sự giúp đỡ thực hiện một việc, hay
nói cách khác là cung cấp một dịch vụ pháp lý cho những người đang cần sự giúp
đỡ về mặt pháp lý bảo vệ các quyền và lợi ích của mình theo quy định của pháp luật
Như vậy, TGPL là việc nhà nước thông qua các tổ chức và cá nhân thực hiện
đại diện, bào chữa, bảo vệ, tư vấn pháp luật và kiến nghị, tham gia hòa giải cho một
số đối tượng nhất định bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, giúp họ nâng cao hiểu biết
pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần bảo đảm quyền con
người, quyền cơng dân trong tiếp cận cơng lý và bình đẳng trước pháp luật.
Có rất nhiều khái niệm cũng như nhiều cách hiểu về trợ giúp pháp lý khác
nhau giữa các quốc gia, tuy nhiên trong phạm nghiên cứu của đề tài về tổ chức và
hoạt hoạt động của trung tâm trợ giúp pháp lý ở Việt Nam qua thực tiễn ở tỉnh Lào
Cai thì khái niệm thuộc Điều 2, Luật trợ giúp pháp lý số 11/2017/QH2014 ban hành
ngày 20 tháng 6 2017 về “trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn
phí cho người được trợ giúp pháp lý trong vụ việc trợ giúp pháp lý theo quy định
của luật này, góp phần đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận
công lý và bình đẳng trước pháp luật” là phù hợp hơn cả. Theo đ , nhà nước c
những chính sách cụ thể về trợ giúp pháp lý gồm:Trợ giúp pháp lý là trách nhiệm
của Nhà nước; Nhà nước c chính sách để bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý
phù hợp với điều kiện kinh tế -


hội; Nhà nước c chính sách nâng cao chất lượng

13


trợ giúp pháp lý, thu hút các nguồn lực thực hiện trợ giúp pháp lý; Nhà nước hỗ trợ,
khuyến khích, ghi nhận và tôn vinh các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia, đ ng
g p cho hoạt động trợ giúp pháp lý.
Trợ giúp pháp lý khác với tư vấn pháp luật trong các dịch vụ có thu phí:
- Trợ giúp pháp lý khác với tư vấn pháp luật trong các dịch vụ c thu phí đ
là trong các dịch vụ pháp lý c thu phí thì tư vấn pháp luật là việc giải đáp pháp
luật, hướng dẫn cá nhân, tổ chức thực hiện đúng pháp luật; giúp cho các cá nhân, tổ
chức bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình, là việc hướng dẫn, đưa ra ý kiến, giúp họ
soạn thảo các giấy tờ liên quan đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Cịn
TGPL chỉ giải đáp pháp luật, hướng dẫn cá nhân thực hiện đúng pháp luật, đưa ra ý
kiến, soạn thảo các giấy tờ liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân.
- Xét về mục đích TGPL và tư vấn pháp luật là cung cấp thông tin pháp lý
cho các đối tượng được TGPL hiểu, thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình
trong các quan hệ pháp luật. Tuy nhiên, tư vấn pháp luật trong các dịch vụ pháp lý
c thu phí thì người được tư vấn pháp luật phải trả một khoản chi phí nhất định theo
quy định của pháp luật hoặc theo sự thỏa thuận của hai bên khơng trái với quy định
pháp luật, cịn TGPL thì người được TGPL được miễn phí hồn tồn.
- Xét về đối tượng và lĩnh vực được tư vấn pháp luật trong các dịch vụ pháp
lý c thu phí thì đối tượng rộng r i, trên các lĩnh vực pháp luật điều chỉnh so với
TGPL thì đối tượng là những người “yếu thế” trong

hội thuộc diện người

có cơng với cách mạng, người nghèo, trẻ em, người dân tộc và một số đối tượng

khác theo quy định của pháp luật về TGPL; lĩnh vực pháp luật mà TGPL thực hiện
bị hạn chế như không được TGPL trong lĩnh vực kinh doanh thương mại.
1.1.2. Đặc trưng cơ bản và Ý nghĩa của hoạt động trợ giúp pháp lý
1.1.2.1. Đặc trưng cơ bản của hoạt động trợ giúp pháp lý
Từ những phân tích về khái niệm trợ giúp pháp lý thì trợ giúp pháp lý có các
thuộc tính cơ bản như sau:
Một là, trợ giúp pháp lý là hoạt động chứa đựng thuộc tính chính trị - pháp lý
do khách thể của quan hệ trợ giúp pháp lý là dịch vụ pháp lý và có mục đích là bảo

14


đảm công bằng trong tiếp cận pháp luật của công dân, bảo đảm cơng lý. Vì để quản
lý xã hội và giải quyết các vấn đề của xã hội, Nhà nước phải ban hành pháp luật và
phải có trách nhiệm tạo ra các cơ chế giúp người dân hiểu biết pháp luật, sử dụng và
tuân thủ pháp luật. Từ đ , trật tự xã hội mới được bảo đảm, duy trì ổn định và
khơng có nội biến. Đây cũng là một trong những thành quả của tiến bộ xã hội (thời
La M , người dân phải tự tìm biểu và biết luật để tuân thủ, nếu vi phạm, không
được lấy lý do khơng biết luật và phải chịu hình phạt). Tuy nhiên, khi đ

ác định

trợ giúp pháp lý là quyền của công dân, sẽ phát sinh trách nhiệm bảo đảm thực hiện
quyền này từ phía Nhà nước. Nhà nước đ ng vai trò là người điều phối chung, xây
dựng lực lượng của Nhà nước, đồng thời, huy động lực lượng xã hội tham gia (việc
tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức xã hội và luật sư tham gia trợ giúp pháp lý ở mức
độ và phạm vi nào, đ ng g p nhiều hay ít cho hoạt động này phụ thuộc vào sự điều
tiết thông qua quy phạm pháp luật của Nhà nước).
Ở một số nước, trợ giúp pháp lý thể hiện bản chất của pháp luật, được coi như
là hệ thống tư pháp (Canada) [21] hay thước đo về nhân quyển (Trung Quốc),... hoặc

để dung hoà quyền lợi chính trị của các giai cấp, giảm bớt sức ép phân tầng giàu,
nghèo, mâu thuẫn giai cấp, hạn chế bất bình đẳng và bất ổn xã hội, bảo đảm cho cơng
dân yếu thế khơng chỉ bình đẳng trên phương diện vật chất mà cịn được bình đẳng về
tinh thần, danh dự, nhân phẩm. Thực tế cho thấy: dù ở triều đại, thời đại nào; dù dưới
chế độ xã hội nào, “người nghèo” vẫn thường phải được sự “cứu giúp” và “bênh vực”
của những người c “lương tri” [4, tr.5] vì họ là một bộ phận của cộng đồng. “Thực
hiện tốt chức năng bảo đảm trật tự và an toàn xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu
quả thực hiện các chức năng khác và trong con mắt của người dân đ là biểu hiện rất
cụ thể, rõ ràng về sức mạnh và uy tín của Nhà nước” [8, tr.47]
Hai là, trợ giúp pháp lý chứa đựng thuộc tính kính tế khi Nhà nước và xã hội
thực hiện giúp đỡ pháp luật miễn phí cho cơng dân (vì tình trạng tài chính, pháp lý,
khiếm khuyết của nhân thân hoặc hồn cảnh xã hội), khi những người này bị kém so
với cơng dân bình thường, khơng có khả năng tự mình thực hiện hoặc sử dụng dịch
vụ có thu phí của luật sư, trợ giúp pháp lý bảo đám cho họ c cơ hội được thụ

15


hưởng những giá trị pháp lý của dịch vụ cộng đồng ngang bằng với những người
khác mà không phải trả chỉ phí. Vì vậy, trợ giúp pháp lý là hoạt động cân có sự đầu
tư tài chính của Nhà nước và nguồn lực từ xã hội. Về phần mình, bộ phận cộng
đồng được nhận trợ giúp pháp lý là một lực lượng lao động xã hội, khi vướng mắc,
tranh chấp, khiếu kiện đ được giải tỏa, được xử lý công bằng, họ lại yên tâm trở về
lao động sản xuất và đ ít nhiều được trang bị thêm kiến thức pháp luật, có thêm
hiểu biết pháp luật, có ý thức xã hội cao hơn.
Ba là, trợ giúp pháp lý là hoạt động mang tính dịch vụ, nghề nghiệp địi hỏi
cường độ lao động trí tuệ cao, có lịch sử ra đời và phát triển gắn liền với nghề luật
sư. Do nghề luật sư là nghề của xã hội văn minh, hoạt động chuyên nghiệp, chuyên
cung cấp dịch vụ pháp luật cho người giàu (tầng lớp giàu có cần chuyên gia pháp
luật để đại diện trong việc bảo vệ an toàn cho bản thân, tài sản). Nghề luật sư không

phát triển thì khó có thể khởi động và phát triển trợ giúp pháp lý, trừ khi Nhà nước
c đủ điều kiện về nhân lực cung ứng. Chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý phụ
thuộc chủ yếu vào nguồn nhân lực có đủ năng lực nên đời hỏi người thực hiện trợ
giúp pháp lý c trình độ pháp lý, kỹ năng hành nghề cao, chun nghiệp hố chun
mơn hố lĩnh vực pháp luật, c đạo đức nghề nghiệp, có thời gian tích luỹ kinh
nghiệm và uy tín nghề nghiệp nhất định.
Như vậy, qua các đặc điểm và thuộc tính nêu trên, có thể rút ra định nghĩa:
trợ giúp pháp lý là các dịch vụ pháp lý miễn phí hoặc có giảm phí và các hoạt động
giúp đỡ pháp luật khác do Nhà nước và xã hội tổ chức thực hiện cho những người
do điều kiện lài chính, pháp lý, hồn cảnh xã hội hoặc năng lực cá nhân khơng thể
tự mình hoặc nhân danh mình thực hiện, nhằm bảo đảm cho họ công bằng trong tiếp
cận và sử dụng pháp luật để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân,
đơng thời góp phần bảo vệ lợi ích của cộng đồng và xã hội.
Hoạt động TGPL là hoạt động của tổ chức, cá nhân nhằm cung cấp dịch vụ
pháp lý cho các đối tượng được TGPL theo quy định của pháp luật và các hình thức
thiện nguyện của tổ chức, cá nhân trong việc cung cấp dịch vụ pháp lý cho người
dân. Chính vì vậy, TGPL có một số đặc điểm đặc trưng như sau:

16


Về chủ thể thực hiện trợ giúp pháp lý là các Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà
nước và các tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật của các tổ chức
chính trị - xã hội, chính trị - xã hội nghề nghiệp. Như vậy, xét về chủ thể thực hiện
thì vừa mang tính chất nhà nước, vừa mang tính chất xã hội. Theo quy định tại Luật
TGPL năm 2017, tại Khoản 1, Điều 4 c nêu “Trợ giúp pháp lý là trách nhiệm của
Nhà nước”. Chính vì vậy, quy định về chủ thể thực hiện theo quy định tại Luật này
khẳng định được trách nhiệm của Nhà nước trong việc thực hiện chính sách TGPL
trên thực tế. Về người thực hiện trợ giúp pháp lý, theo quy định tại Điều 17 Luật
TGPL năm 2017, đ là: Trợ giúp viên pháp lý; Luật sư thực hiện TGPL theo hợp đồng

với Trung tâm hoặc luật sư thực hiện TGPL theo sự phân công của tổ chức tham gia
TGPL; Tư vấn viên pháp luật c 02 năm kinh nghiệm tư vấn pháp luật trở lên làm việc
tại tổ chức tham gia TGPL; Cộng tác viên trợ giúp pháp lý. Những quy định của Nhà
nước về người TGPL yêu cầu sự chặt chẽ về trình độ, về kinh nghiệm, về kiến thức
pháp luật và đặc biệt là sự quản lý của tổ chức thực hiện TGPL. Có sự thay đổi yêu cầu
trong các tiêu chuẩn về người thực hiện TGPL qua thời gian để đáp ứng yêu cầu về
chất lượng TGPL cho người được TGPL. Đây là một quá trình tất yếu.
Về đối tượng được TGPL: có sự thay đổi khác nhau qua các thời kỳ và thời
điểm hiệu lực của pháp luật về TGPL, song bản chất hoạt động TGPL hướng tới đối
tượng là người nghèo, người có công với cách mạng, trẻ em, người dân tộc thiểu số,
người khuyết tật, người cao tuổi, phụ nữ, nạn nhân của bạo lực gia đình và người
nhiễm HIV. Đây là những người có thiệt thịi hơn trong

hội về thể chất, tinh thần

và kinh tế. Quy định những đối tượng thụ hưởng chính sách TGPL đ phán ánh
đúng thực trạng về những người c kh khăn hơn trong

hội. Đánh giá được tính

khách quan của những đối tượng mà Nhà nước cần hướng tới trong việc đảm bảo
quyền bình đẳng và tiếp cận công lý của công dân.
Về lĩnh vực TGPL: Hoạt động TGPL được thực hiện đối với tất cả các vụ
việc c liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL trong hầu
hết các lĩnh vực pháp luật, trừ các vụ việc c liên quan đến lĩnh vực kinh doanh,

17


thương mại. Quy định này cũng phản ánh bản chất của hoạt động TGPL là giúp đỡ

những người c kh khăn về tài chính hoặc là người yếu thế trong quan hệ dân sự.
Về hình thức thực hiện TGPL bao gồm: Tham gia tố tụng, Tư vấn pháp luật
và đại diện ngồi tố tụng. Đây là những hình thức TGPL thực hiện thường xuyên,
chủ yếu từ khi Nhà nước ban hành chính sách TGPL cho đến nay. Mục tiêu của
hoạt động TGPL cũng oay quanh các quy định liên quan đến các chế định pháp
luật, đặc biệt là quan điểm về tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án. Do đ ,
hình thức tham gia tố tụng đang được quan tâm và đẩy mạnh hơn nữa cả về chất
lượng và số lượng vụ việc.
Về lệ phí: Người được TGPL khơng phải trả bất kỳ một khoản lệ phí hay thù
lao nào dưới bất kỳ hình thức nào. Kinh phí hoạt động TGPL do ngân sách Nhà
nước cấp; nguồn tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngồi nước.
Về mục đích: Hoạt động TGPL nhằm giúp người được TGPL bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tơn trọng và chấp
hành pháp luật; góp phần bảo vệ cơng lý, đảm bảo cơng bằng xã hội, phịng ngừa, hạn
chế tranh chấp và vi phạm pháp luật xảy ra. Góp phần đảm bảo cho mọi cơng dân đều
bình đẳng trước pháp luật và đảm bảo công bằng xã hội trong tiếp cận pháp luật.
Trợ giúp pháp lý là trách nhiệm của nhà nước giữ vai trò nòng cốt trong việc
thực hiện, tổ chức thực hiện, khơng thu phí, lệ phí, thù lao từ người được; hoạt động
TGPL phải tuân thủ pháp luật và quy tắc nghề nghiệp trợ giúp pháp lý, đảm bảo tính
kịp thời, độc lập, trung thực, tơn trọng sự thật khách quan và bảo vệ tốt nhất quyền,
lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý. TGPL không chỉ giúp người được
TGPL bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình mà cịn giúp họ nâng cao hiểu biết
pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần phổ biến, giáo dục
pháp luật, bảo vệ công lý, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật, bảo đảm quyền
con người, quyền công dân trong tiếp cận cơng lý và bình đẳng trước pháp luật. Đối
tượng được hưởng các quyền và lợi ích từ TGPL phần lớn là những người yếu thế
trong xã hội như: “Người có cơng với cách mạng; người thuộc hộ nghèo; trẻ em;
người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng c điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt kh khăn;

18



người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi; người bị buộc tội thuộc hộ cận
nghèo; người c kh khăn về kinh tế (người thuộc hộ cận nghèo hoặc là người đang
hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng theo quy định của pháp luật) được TGPL bao gồm:
cha đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người c cơng ni dưỡng khi liệt sĩ cịn
nhỏ, người nhiễm chất độc da cam, người cao tuổi, người khuyết tật, người từ đủ 16
tuổi đến dưới 18 tuổi là bị hại trong vụ án hình sự, nạn nhân trong vụ việc bạo lực
gia đình, nạn nhân của hành vi mua bán người theo quy định của Luật Phòng, chống
mua bán người, người nhiễm HIV”
1.1.2.2. Ý nghĩa của hoạt động Trợ giúp pháp lý
Xét về bản chất của hoạt động TGPL chính là nhằm mục tiêu đảm bảo quyền
con người, lấy người được TGPL làm trung tâm của mọi hoạt động. Từ đ , chúng ta
em ét ý nghĩa của TGPL từ những khía cạnh sau đây:
Đối với người thụ hưởng chính sách (người được TGPL): Hoạt động TGPL
thực hiện mục tiêu

a đ i, giảm nghèo, chính sách “đền ơn đáp nghĩa” của Nhà

nước ta. Qua các thời kỳ khác nhau, người được TGPL c thay đổi về diện đối tượng,
nhưng về bản chất thì vẫn là người nghèo và người có cơng với nước. Đây là một
quan điểm xun suốt trong q trình thực hiện chính sách TGPL từ năm 1995 đến
nay. Khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 734/TTg về việc thành lập tổ
chức TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách cho đến Luật TGPL năm
2006 và Luật TGPL năm 2017 thì hơn 20 năm qua, chính sách này đ được nhân
dân đồng tình ủng hộ và đặt niềm tin theo thời gian. Hoạt động TGPL đ nâng cao
hiểu biết cho nhân dân, giúp họ nhận thức được đầy đủ quyền và nghĩa vụ của
mình, tạo niêm tin cho người dân để từ đ c thể lựa chọn cho mình cách ứng xử
phù hợp nhất với các quy định của pháp luật, không tốn kém về thời gian, tiền bạc,
đảm bảo tình trạng ổn định an ninh trận tự và an toàn xã hội khi ổn định tình đồn

kết xóm giềng, anh em, họ tộc. Có niềm tin về những chính sách ưu việt của Nhà
nước trong từng thời kỳ. Qua quá trình được TGPL, với những kiến thức được
cung cấp người được TGPL tự tin hơn với các ứng xử của mình, từ đ tự giác
chấp hành pháp luật, tuân thủ pháp luật, đưa ra những quyết định đúng đắn góp

19


×