Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Luận văn thạc sĩ tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo pháp luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (997.51 KB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN MINH DIỆU

TỘI GIẾT NGƯỜI TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN
BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN MINH DIỆU

TỘI GIẾT NGƯỜI TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN
BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS CAO THỊ OANH

HÀ NỘI, 2020




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
này là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận
văn này đã được cám ơn và các thơng tin trích dẫn trong luận văn đều
đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày

tháng năm 2020

Tác giả luận văn

Nguyễn Minh Diệu


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

TTHS: Tố tụng hình sự
PLHS: pháp luật hình sự
QĐHP: quyết định hình phạt
CTTP: cấu thành tội phạm
TNHS: trách nhiệm hình sự
VKSND: Viện Kiểm sát nhân dân
TAND:Tịa án nhân dân
HSST: Hình sự sơ thẩm.


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ...........................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI
GIẾT NGƯỜI TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH
ĐỘNG MẠNH THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ......................7
1.1. Những vấn đề lý luận về tội giết người trong trạng thái tinh thần
bị kích động mạnh ......................................................................................7
1.2. Các yếu tố cấu thành tội phạm tội giết người trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh ............................................................................10
1.3. Lịch sử lập pháp các quy định của tội giết người trong trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh .....................................................................24
1.4. Phân biệt tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh với các tội phạm khác.....................................................................32
Chương 2: THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH
PHẠT ĐỐI VỚI TỘI GIẾT NGƯỜI TRONG TRẠNG THÁI TINH
THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH .......36
2.1. Thực tiễn định tội danh tội giết người trong trạng thái bị kích
động mạnh trên địa bàn tỉnh Nam Định ...................................................36
2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội giết người trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh trên địa bàn tỉnh Nam Định ................48
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH .............56
3.1. Quan điểm của Đảng và chính sách hình sự của Nhà nước Việt
Nam trong xử lý các tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh ........................................................................................56
3.2. Hồn thiện pháp luật hình sự về các tội phạm thực hiện trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ....................................................61


3.3. Nâng cao năng lực cán bộ áp dụng pháp luật về tội giết người

trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ...........................................66
3.4. Các giải pháp tổng kết thực tiễn áp dụng PLHS về tội Giết người
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ...........................................68
KẾT LUẬN .....................................................................................................71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................73


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Tổng số vụ án, bị cáo Tòa án tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm từ năm
2015 đến năm 2019 ..........................................................................................38


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong Tun Ngơn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng
hoà (nay là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định “... tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc
nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” và Tuyên ngôn
nhân quyền thế giới ngày 10/12/1948, tại Điều 3 Quy định: “Mọi người đều
có quyền sống, được tự do và bảo đảm an ninh”. Hiến pháp năm 2013 của
Việt Nam cũng đã quy định tại Chương II về Quyền con người, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân. Trong đó đặc biệt nhấn mạnh “Mọi người đều
có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước
đoạt tính mạng trái luật” (Điều 19).
Con người là vốn quý, là giá trị cao nhất của xã hội, quyết định sự tồn tại
và phát triển của xã hội. Trong đó, quyền sống là quyền thiêng liêng và quan
trọng nhất trong các quyền cơ bản của con người. Chính vì thế, pháp luật quốc tế
và pháp luật các quốc gia đều ghi nhận và bảo vệ quyền sống của con người. Ở
nước ta, từ khi Hiến pháp năm 1946 được ban hành đến nay, quyền sống luôn
được ghi nhận là quyền thiêng liêng và quan trọng nhất trong các quyền cơ bản

của con người. Theo pháp luật Việt Nam, hành vi trái pháp luật xâm phạm đến
tính mạng con người, tước đi quyền được sống của họ luôn được coi là một tội
ác cần phải trừng trị nghiêm khắc nhất và phải bị loại bỏ.
Trong những năm gần đây, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước,
cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế - xã hội, quyền con người
ở nước ta ngày càng được tôn trọng và đảm bảo. Bên cạnh những thành tựu đã
đạt được, cũng còn nhiều khó khăn, hạn chế, đã nảy sinh nhiều vấn đề xã hội,
trong đó có các vấn đề về việc làm, tệ nạn xã hội, q trình đơ thị hoá nhanh...
ảnh hưởng đến sự gia tăng tội phạm nói chung và tội Giết người nói riêng.

1


Giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác. Tuy
nhiên đối với hành vi giết người luật hình sự phân chia thành các trạng thái
như là giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, giết người do
vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi
bắt giữ người phạm tội. Trong đó, người bị kích động mạnh về tinh thần là
người khơng cịn nhận thức được hành vi của mình, khơng có khả năng làm
chủ hành vi của mình và chỉ diễn ra trong khoảnh khắc tức thời, sau đó thì
người này trở lại trạng thái bình thường. Bởi vậy, đây là nhóm tội phạm khá
phức tạp trong việc cân nhắc, xem xét để có kết luận cũng như hình phạt
tương xứng. Vì cậy, cần phải có những quy định riêng và cụ thể cho tội Giết
người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
Trên địa bàn tỉnh Nam Định thời gian gần đây cũng có sự diễn biến
phức tạp của tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội Giết người trọng
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh nói riêng. Trong vịng 5 năm từ 2015
đến 2019 trên địa bàn tỉnh Nam Định có 03 vụ khởi tố và 03 vụ xét xử với 03
bị can phạm tội Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh bị
truy tố. Nhiều vụ án giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh

xảy ra mang tính chất cơn đồ, hung hãn và ảnh hưởng tiêu cực đến thái độ,
tâm lý và đời sống của người dân.
Nghiên cứu các vấn đề từ thực tiễn để tổng kết thành kinh nghiệm, nêu
lên một số tồn tại, bất cập trong quy định về tội giết người trong Bộ luật Hình
sự. Để từ đó đưa một số đề xuất nhằm khắc phục hạn chế, bất cập.
Cơng tác đấu tranh phịng ngừa và chống tội phạm nói chung và tội
Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh nói riêng trên địa bàn
tỉnh Nam Định đã đạt được những kết quả nhất định nhưng vẫn đang diễn
biến phức tạp. Nhằm góp phần tích cực trong cơng tác đấu tranh phịng và
chống tội phạm giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh hiện
nay, tác giả chọn đề tài: “Tội Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích

2


động mạnh theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nam Định”
làm đề tài nghiên cứu luận văn Thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh vừa là
dấu hiệu định tội vừa là hình thức hoạt động thể hiện sự đánh giá về mặt pháp
lý đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội. Do đó, ở trong và ngồi nước đã có
nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học ở những mức độ khác nhau, những khía
cạnh, những phương diện khác nhau về vấn đề này. Ở cấp độ luận văn thạc sỹ
có các đề tài của các tác giả Đoàn Văn Lâm “Các tội xâm phạm tính mạng
con người trong luật hình sự Việt Nam, Hà Nội, 2013.Ở cấp độ luận án tiến sĩ
có các đề tài của các nhà nghiên cứu Đỗ Đức Hồng Hà “Tội giết người trong
Bộ luật hình sự Việt Nam” luận án tiến sĩ. Tiến sĩ Trần Văn Luyên (2000)
“Các tội xâm phạm tính mạng con người trong luật hình sự Việt Nam” Nxb
chính trị quốc gia.Bên cạnh đó, về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có
các cơng trình sau: Lê Cảm (chủ biên 2001), Giáo trình luật hình sự Việt Nam

(Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, (tái bản lần thứ nhất – 2003);
Lê Cảm (chủ biên 2003), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội
phạm), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Đỗ Ngọc Quang, Trịnh Quốc Toản,
Nguyễn Ngọc Hòa (1997) Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung),
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội; Võ Khánh Vinh (chủ biên) giáo trình luật
hình sự Việt Nam (phần các tội phạm) Nxb Công an nhân dân, Hà Nội 2005;
Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học luật hình sự (phần các tội phạm) tập I,
Nxb TP. HCM 2003; Lê Cảm “một số vấn đề lý luận chung về định tội danh
Chương XXXI – giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nxb CAND, Hà Nội;
Trường đại học Luật Hà Nội (2008) giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần
các tội phạm) Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
Trên cơ sở khảo sát cho thấy ở nước ta đã có một số cơng trình
nghiên cứu về tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động

3


mạnh nhưng chưa được xem xét riêng với tư cách là một dấu hiệu định tội
mà chỉ tập trung phân tích các cấu thành tội phạm cũng như hình phạt áp
dụng hoặc nghiên cứu chúng trong hệ thống các tội phạm xâm phạm về
tính mạng, sức khỏe. Các nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở khái niệm mà
chưa đi sâu nghiên cứu các dấu hiệu nhận biết thực hiện tội phạm trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh.
Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây một lần nữa cho phép khẳng
định việc nghiên cứu đề tài “Tội giết người trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh theo Luật Hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nam
Định” là địi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận vừa có tính thực
tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu của luận văn này là làm rõ những dấu hiệu pháp

lý, đường lối xử lý và phân tích những cơ sở lý luận và thực tiễn cùng với những
hạn chế, vướng mắc xung quanh tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh từ đó góp phần hoàn thiện những quy định của pháp luật hình sự
Việt Nam về tội phạm này cũng như rút ra nguyên nhân, từ đó tìm ra đóng góp
khắc phục, làm giảm tình hình tội phạm tại địa bàn tỉnh Nam Định.
- Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn:
Về lý luận: Nghiên cứu các dấu hiệu pháp lý, đường lối xử lý của tội
giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh đồng thời phân biệt tội
này với một số tội phạm khác.
Về thực tiễn: phát hiện những vướng mắc, phân tích những cơ sở lý
luận và thực tiễn đồng thời đề xuất các kiến nghị để hồn thiện quy định luật
hình sự về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh tại địa
bàn tỉnh Nam Định.

4


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các vấn đề liên quan đến tội giết người trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh dưới góc độ của luật hình sự và tìm
hiểu thực trạng tội phạm tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh tại địa bàn tỉnh Nam Định .
Để đạt được các mục đích nghiên cứu trên đây, luận văn thực hiện các
nhiệm vụ sau đây:
+ Tìm hiểu lịch sử quy định và hoàn thiện các quy phạm pháp luật hình
sự nước ta về tội Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
+ Phân tích khái niệm và các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội Giết
người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
+ Phân tích, đánh giá thực tiễn định tội danh tội giết người trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh trên địa bàn tỉnh Nam Định.

+ Phân tích, đánh giá thực tiễn định hình phạt tội giết người trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh trên địa bàn tỉnh Nam Định.
+ Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm định tội danh và quyết định hình
phạt đúng đối với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
trên địa bàn tỉnh Nam Định.
Đề tài luận văn được nghiên cứu dưới góc độ luật hình sự và luật
tố tụng hình sự. Các số liệu phục vụ nghiên cứu được thu thập tại Viện kiểm
sát nhân dân và Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định đối với các vụ án giết người
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh xảy ra trên địa bàn tỉnh từ năm
2015 đến năm 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận khoa học
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp sử dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp phân tích, tổng hợp,
phương pháp lịch sử...

5


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Việc nghiên cứu thành công đề tài có ý nghĩa quan trọng về lý luận và
thực tiễn.
- Về lý luận: Luận văn góp tiếng nói khoa học và nhận thức chung về
tội giết người trong khoa học luật hình sự Việt Nam, đồng thời góp phần làm
phong phú thêm cơ sở lý luận và hoàn thiện các quy định của BLHS về tội
giết người trong trạng thái tinh thần kích động mạnh. Làm tài liệu cho học tập
và nghiên cứu.
- Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn, những vấn đề lý luận
nêu trong luận văn góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong xử lý
tơi phạm giết người trong trạng thái tinh thần kích động mạnh và những tội

phạm khác có liên quan. Đồng thời, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham
khảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Nam Định nói riêng và cả nước
nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
- Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội giết người trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo pháp luật hình sự Việt Nam.
- Chương 2: Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với
tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trên địa bàn tỉnh
Nam Định.
- Chương 3: Các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định của pháp
luật Hình sự về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH THEO
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Những vấn đề lý luận về tội giết người trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh
•Khái niệm tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh:
Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được hiểu là
hành vi giết người trong tình trạng khơng tự chủ, khơng kiềm chế được hành
vi phạm tội của mình(tức sự phản đối của người phạm tội) do hành vi trái
pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với chính người phạm tội hoặc
người thân của người phạm tội.
Là một trường hợp đặc biệt của tội giết người, vì vậy, để hiểu rõ khái
niệm của “tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” (Điều
125 BLHS) thì trước hết chúng ta tìm hiểu về khái niệm “tội giết người”.

Về khái niệm của tội giết người hiện nay có nhiều quan điểm khác
nhau. Cụ thể:
Hiện nay, các nước trên thế giới có hai xu hướng để đưa ra về tội giết
người. Một là, định nghĩa tội giết người và không định nghĩa tội giết người.
Các nước theo xu hướng định nghĩa về tội giết người trong BLHS của mình
nhưng mỗi nước lại có các cách định nghĩa khác nhau. Luật Hình sự Liên
bang Nga năm 1966, tại Điều 106, tội giết người được định nghĩa: “… là cố ý
làm chết người khác” ; Trong BLHS Trung Quốc năm 1997, tại Điều 232 tội
giết người được định nghĩa “là hành vi cố ý giết người khác; Bộ luật Bang

7


California (Hoa Kỳ) năm 1998 tại Điều 187 tội giết người được định nghĩa “là
hành vi cố ý giết người khác hoặc giết bào thai một cách hiểm độc và bất hợp
pháp” . Một số nước theo xu hướng thứ hai, không định nghĩa tội giết người,
nhưng trong khoa học pháp lý hình sự cũng có nhiều định nghĩa khác nhau.
Trong đó có các định nghĩa: “Tội giết người là hành vi cố ý tước đoạt trái
pháp luật tính mạng người khác” , hoặc “Tội giết người là hành vi trái pháp
luật của người đủ năng năng lực trách nhiệm hình sự cố ý tước đoạt quyền
sống của người khác” . Hoặc “Tội giết người là hành vi làm chết người khác
một cách cố ý và trái pháp luật” . Phân tích, đánh giá các định nghĩa trên cho
thấy về nội dung, các định nghĩa không đề cập đến dấu hiệu năng lực trách
nhiệm hình sự và dấu hiệu độ tuổi của chủ thể hoặc có đề cập đến trách nhiệm
hình sự mà khơng đề cập đến độ tuổi. Về sử dụng thuật ngữ giết người là
hành vi “cố ý tước đoạt tính 8 mạng” của người khác là chưa phù hợp, chính
xác theo ý nghĩa từ ngữ trong tiếng Việt. Cuốn Đại từ điển Tiếng Việt cho rằng
“tước đoạt” là “tước và chiếm lấy sự sống của người khác” và “tước đoạt” đã
bao gồm sự cố ý nên không cần thiết phải quy định “tội giết người là hành vi cố
ý tước đoạt tính mạng”. Theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam được

quy định tại Điều 8, Khái niệm Tội phạm thì “Tội phạm là hành vi nguy hiểm
cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự thực hiện bởi người có năng lực
trách hình sự thực hiện một cách cố ý, hoặc vơ ý… xâm phạm tính mạng… của
cơng dân…” . Trên cơ sở phân tích các định nghĩa trên về tội giết người, tác giả
đưa ra khái niệm về tội giết người như sau: Tội giết người là hành vi cố ý tước
đoạt tính mạng người khác một cách trái pháp luật, thực hiện bởi người có năng
lực trách nhiệm hình sự, độ tuổi theo quy định của pháp luật.
Theo bản chuyên đề tổng kết thực tiễn xét xử loại tội giết người ban
hành kèm theo Công văn số 452-HS2 ngày 10/08/1970 của Tịa án nhân dân
tối cao thì: “Tội giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người
khác một cách trái pháp luật” [31, tr.83]; [15, tr.12]. Tuy nhiên cũng có
quan điểm khác cho rằng “tội giết người là hành vi trái pháp luật của người

8


đủ năng lực trách nhiệm hình sự cố ý tước bỏ quyền sống của người khác”
[11, tr.67].
Cả hai quan điểm đưa ra đều chưa hợp lý ở chỗ: Chưa đề cập đến dấu
hiệu năng lực trách nhiệm hình sự và dấu hiệu độ tuổi của chủ thể “tội giết
người” (quan điểm thứ nhất) hoặc chỉ đề cập đến dấu hiệu năng lực trách
nhiệm hình sự mà khơng đề cập đến dấu hiệu độ tuổi (quan điểm thứ hai), để
khắc phục những hạn chế này, quan điểm thứ ba cho rằng: “Tội giết
người là hành vi cố ý gây ra cái chết cho người khác một cách trái pháp
luật, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định
thực hiện” [6, tr.38].
“Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” được quy
định tại Điều 125, BLHS năm 2015 như sau:
“1. Người nào giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc

đối với người thân thích của người đó, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Giết nhiều người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, thì bị
phạt tù từ ba năm đến bảy năm” [21]
Từ quy định tại Điều 125 BLHS cho thấy “tội giết người trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh” địi hỏi người phạm tội khi thực hiện hành
bi phạm tội phải ở trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh là tình trạng ý thức bị hạn chế tức thời ở mức độ
cao do không chế ngự được tình cảm dẫn đến sự hạn chế đáng kể khả năng
kiểm sốt và điều khiển hành vi. Tình trạng tinh thần bị kích động mạnh có thể
là tình tiết làm giảm nhẹ một cách đáng kể mức độ của tính nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội. Do vậy tình tiết này có thể được quy định là tình tiết
định khung hình phạt giảm nhẹ hoặc có thể là tình tiết định tội cho tội nhẹ hơn so
với tội của trường hợp bình thường. BLHS 1985 quy định tình trạng tinh thần bị
kích động mạnh là trường hợp định khung hình phạt giảm nhẹ của “tội giết

9


người” và “tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác”. Trong BLHS năm 1999 và BLHS 2015 các trường hợp này được tách ra
thành các tội danh riêng, đó là “tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh” và “tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”
Theo Nghị quyết 04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán
TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định phần các tội phạm của BLHS
năm 1985 thì “tình trạng tinh thần bị kích động mạnh là tình trạng người
phạm tội khơng hồn tồn tự chủ, tự kiềm chế được hành vi phạm tội của
mình. Sự kích động mạnh đó phải là tức thời do hành vi trái pháp luật nghiêm
trọng của nạn nhân gây nên”. Cá biệt, có trường hợp, do hành vi trái pháp
luật của nạn nhân có tính chất đè nén áp bức tương đối nặng nề, lặp đi lặp lại,

sự kích động đó đã âm ỉ, kéo dài, đến thời điểm nào đó hành vi trái pháp luật
của nạn nhân lại tiếp diễn làm cho người bị kích động khơng tự kiềm chế
được, nếu tách riêng sự kích động mới này thì khơng coi là kích động mạnh
nhưng nếu xét cả q trình phát triển của sự việc thì lại được coi là mạnh hoặc
rất mạnh.
Từ những phân tích ở trên có thể đưa ra định nghĩa về tội giết người
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh như sau:
Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là hành vi
cố ý tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác trong trạng thái
người phạm tội khơng hồn tồn tự chủ, tự kiềm chế được hành vi phạm tội
của mình do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người
phạm tội hoặc người thân thích của người đó.
1.2. Các yếu tố cấu thành tội phạm tội giết người trong trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh
Theo quy định tại Điều 125 BLHS “tội giết người trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh” có những dấu hiệu pháp lý đặc trưng như sau:

10


1.2.1. Khách thể của tội phạm
Trong bất cứ chế độ xã hội có giai cấp nào, Nhà nước cũng đều xác
lập, bảo vệ, củng cố và thúc đẩy sự phát triển của những quan hệ xã hội, phù
hợp với lợi ích của giai cấp thống trị bằng sự hỗ trợ của các quy phạm pháp
luật, trong đó có các quy phạm pháp luật hình sự. Trong Luật Hình sự Việt
Nam, những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và có thể bị tội phạm
xâm hại là những quan hệ được xác định trong khái niệm tội phạm, đó là:
“Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội,
quyền, lợi ích hợp pháp khác của cơng dân, những lĩnh vực khác của trật tự

pháp luật xã hội chủ nghĩa” (khoản 1 Điều 8 BLHS 2015). Trong số những
quan hệ xã hội đã được xác định này tính mạng con người là một trong những
khách thể có tầm quan trọng đặc biệt. Hành vi giết người trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh là một trong những hành vi xâm phạm trực tiếp đến
tính mạng của con người, đến quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ
tính mạng của người khác từ đó có thể xác định khách thể của tội giết người
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh đó là quyền sống của con người.
Đây là một trong những khách thể quan trọng nhất được luật hình sự bảo vệ.
1.2.2. Mặt khách quan của tội phạm
Cũng giống như các tội phạm khác khi được thực hiện đều có những
biểu hiện diễn ra hoặc tồn tại ra bên ngoài thế giới khách quan mà con người
có thể nhận biết được. “Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh” cũng có những biểu hiện diễn ra hoặc tồn tại ở ngoài thế giới khách
quan, đó là:
- Hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác;
- Hậu quả chết người;
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi tước đoạt trái pháp luật tính
mạng của người khác và hậu quả chết người.

11


Ngồi ra cịn có các điều kiện bên ngồi của việc thực hiện hành vi
phạm tội như: công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa
điểm phạm tội… Những dấu hiệu này không được quy định là dấu hiệu bắt
buộc trong mặt khách quan của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh nhưng việc xác định nó có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá
tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.
* Hành vi khách quan của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh:

Hành vi khách quan của tội phạm là xử sự của con người gây ra hoặc
đe doạ gây ra cho xã hội, hành vi phạm tội chỉ có thể được biểu hiện qua hai
hình thức đó là hành động hoặc khơng hành động. Theo quy định của BLHS
2015, hành vi khách quan của “tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh” là hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác.
Hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác được hiểu là
hành vi có khả năng gây ra cái chết cho con người, chấm dứt sự sống của con
người. Hành vi đó có thể được thực hiện bằng những cách thức khác nhau
như bắn, đâm, chém...
Hành vi tước đoạt tính mạng của người khác được coi là hành vi khách
quan của “tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” khi
người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh. Đặc điểm này vừa phản ánh tính nguy hiểm của hành vi phạm tội
đồng thời cũng là đặc điểm cho phép chúng ta phân biệt tội này với các tội
khác mà trước hết là tội giết người (Điều 123 BLHS).
Theo hướng dẫn của Nghị quyết 04/HĐTP, ngày 29/11/1986 của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì người bị kích động mạnh về tinh
thần là người khơng cịn nhận thức đầy đủ về hành vi của mình như lúc bình
thường nhưng chưa mất hẳn khả năng nhận thức. Lúc đó họ mất khả năng tự
chủ và khơng thấy hết được tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của

12


hành vi của mình. Trạng thái tinh thần này của họ chỉ xẩy ra trong chốc lát.
Người phạm tội khi thực hiện tội phạm trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh thường xuất hiện cơn bùng phát về tinh thần, thường biểu hiện các trạng
thái tâm lý như: Quá lo sợ, quá hốt hoảng, quá kinh hãi, quá căm tức và quá
phẫn nộ. Nguyên nhân dẫn tới trạng thái tâm lý này xuất phát từ những hành
vi trái pháp luật của nạn nhân, dưới đây, chúng tôi xin phân tích một số hành

vi chủ yếu để thấy rõ biểu hiện tâm lý của người phạm tội khi có hành vi trái
pháp luật của nạn nhân dối với họ hoặc người thân thích của họ:
- Hành vi sỉ nhục hay vu khống người khác: Đây là dạng hành vi xúc
phạm tới nhân phẩm, danh dự của người khác, tác động mạnh tới trạng thái
tâm lý của của người phạm tội. Ví dụ, trường hợp A và B là hàng xóm của
nhau, A vu khống cho rằng B lấy trộm gà nhà A, B đã nhiều lần đính chính là
B khơng làm điều đó nhưng A vẫn một mực nghi ngờ và đi nói với nhiều
người khác và B cũng đã nhắc nhở A nhiều lần. Một lần, nhà B có khách đến
chơi, B có làm gà tiếp khách thì A có nói bóng gió rằng B là thằng ăn trộm, gà
đấy là nhà A, quá tức giận, B liền nhặt đá ném vào đầu A làm A chết. Như
vậy, hành vi vu khống của A đã tác động vào tâm lý của B, đỉnh điểm là khi
nhà B có khách làm cho B cảm thấy bị xúc phạm, căm phẫn dẫn tới hành vi
ném đá vào A.
- Hành vi dùng bạo lực một cách thô bạo với người khác: Đây là dạng
hành vi tác động vào tính mạng, sức khoẻ người khác một cách trái pháp luật.
Ví dụ, trường hợp của anh Lương Văn Thanh (người phạm tội) là công nhân
may của Công ty may Youngone khi đang trên đường trở về nhà sau khi tăng
ca vào buổi đêm thì bị anh Vân (nạn nhân) bất ngờ từ trong hẻm nhảy ra chặn
đánh (do anh Vân nhầm lẫn, nhận sai người). Do bị đánh đau nên anh rút dao
ra đâm vào ngực trái của nạn nhân làm nạn nhân chết trên đường đi cấp cứu.
Hành vi của anh Vân là quá bất ngờ lại vào đêm khuya nên đã làm cho anh

13


Thanh hoảng sợ dẫn tới tinh thần bị kích động mạnh nên đã dùng dao đâm
chết anh Vân.
- Những mâu thuẫn trong cuộc sống hơn nhân và gia đình: Trong thực
tế, có rất nhiều vụ giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
xuất phát từ mâu thuẫn gia đình, chồng hoặc vợ ngoại tình, chồng đánh đập

vợ, đánh đập con cái, người vợ khơng làm trịn trách nhiệm làm mẹ, làm vợ…
Ví dụ, trường hợp của ơng Hoàng Văn Thái (thành phố Nam Định, tỉnh Nam
Định), do bị bà Mai Thị Thu (vợ) thường xuyên lăng mạ, khinh thường vì thu
nhập thấp, ngồi ra, bà Thu cịn ngoại tình với người khác nên vợ chồng ơng
Thái, bà Thu đã nhiều lần xảy ra mâu thuẫn. Trong một lần cãi vã, bị bà Thu
mắng nhiếc nặng lời và dùng đồ đạc ném về phía ơng Thái, do q tức
giận,ông Thái cầm cuốc dài 1,2m, đánh liên tiếp vào người bà Thu làm bà
chết tại chỗ. Hành vi thường xuyên hành hạ, coi thường chồng của bà Thu đã
làm cho ông Thái tức giận dồn nén lâu ngày đặc biệt là khi bà dùng lời lẽ,
hành động ném đồ đạc làm ông Thái căm phẫn nên đã dùng cuốc đập liên tiếp
vào người bà Thu. TAND tỉnh Nam Định cũng đã xác định ơng Hồng Văn
Thái do sự dồn nén, ức chế lâu ngày trong quá trình chung sống vì thường
xuyên bị bà Thu chửi bới, coi thường nên khi thấy bà Thu chửi bới, ném đồ,
thì ơng Thái đã bị kích động mạnh mà dùng cuốc đánh bà Thu tới chết.
- Hành vi xâm phạm tới tài sản của người khác như đốt cháy, cướp giật,
đập phá. Đây là hành vi xâm phạm tới tài sản của người phạm tội của nạn
nhân, tài sản ở đây thường là tài sản có giá trị lớn về vật chất hoặc tình thần.
Ví dụ, trường hợp do mâu thuẫn trong quan hệ xóm giềng nên một lần, nhân
lúc thấy xe ô tơ của A dựng ngồi sân mà khơng có người nên B đã lấy một
thanh sắt đập vào kính, vào gương và cốp xe của A, A đi bên nhà C về thì
thấy B đang đập phá ơ tơ của mình nên tức giận nhảy vào đánh B làm cho B
chết trên đường đi cấp cứu. Hành vi phá hoại tài sản có giá trị lớn của B đã
làm cho A tức giận và có hành động nhảy vào đánh B.

14


Trường hợp người phạm tội có bị kích động về tinh thần nhưng chưa
đến mức mất khả năng tự chủ thì khơng gọi là tinh thần bị kích động mạnh,
khơng thuộc trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động

mạnh, đối với trường hợp này người phạm tội chỉ được giảm nhẹ hình phạt
theo quy định tại khoản 1, Điều 51 BLHS 2015.
Trên thực tế việc xác định một người có bị kích động mạnh về tinh thần
hay không là một vấn đề phức tạp. Bởi trạng thái tâm lý của mỗi người là
khác nhau, cùng một sự việc nhưng người này xử sự khác người kia, có người
bị kích động mạnh về tinh thần nhưng có người lại khơng bị kích động mạnh.
Ví dụ: Cùng một sự việc là thấy vợ có quan hệ bất chính với người
khác, anh A lao tới giết tình nhân của vợ, anh B đệ đơn ly hôn.
Như vậy, không có “thước đo” cụ thể nào để xác định một người bị
kích động hay kích động mạnh mà chúng ta phải căn cứ vào từng vụ án cụ
thể, xem xét từng tình tiết của vụ án, nhân thân người phạm tội, điều kiện
sống, quan hệ giữa nạn nhân và người phạm tội…
Nạn nhân của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh là người có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với người phạm tội
hoặc người thân thích của người phạm tội: Hành vi trái pháp luật của nạn
nhân đối với người phạm tội phải là hành vi trái pháp luật nghiêm trọng. Hành
vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân là những hành vi vi phạm pháp
luật hình sự, xâm phạm tới lợi ích của người phạm tội hoặc đối với những
người thân thích của người phạm tội. Thông thường, những hành vi trái pháp
luật của nạn nhân xâm phạm tới sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự như hành vi sỉ
nhục hay vu khống người khác, hành vi dùng bạo lực thô bạo đối với người
khác, những mâu thuẫn trong cuộc sống hôn nhân và gia đình, hành vi xâm
phạm tới tài sản của người khác như đập phá tài sản, đốt cháy, cướp giật hay
những hành vi khác trái với đạo đức xã hội [17, tr.57-58]

15


Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân có thể vi phạm pháp
luật hình sự, hành chính, lao động, hơn nhân và gia đình… Hành vi trái pháp

luật nghiêm trọng ở đây có thể cấu thành tội phạm hoặc chưa cấu thành tội
phạm nhưng dù trường hợp nào thì hành vi đó cũng phải có tính chất trái pháp
luật nghiêm trọng. Nếu hành vi của nạn nhân tuy là trái pháp luật nhưng
khơng nghiêm trọng, có tính chất nhỏ nhặt thì khơng thuộc trường hợp này.
Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân có thể chỉ là một
hành vi cụ thể và tức thì dẫn đến tình trạng tinh thần bị kích động mạnh của
người phạm tội. Nhưng cũng có trường hợp hành vi trái pháp luật nghiêm
trọng của nạn nhân là chuỗi những hành vi khác nhau diễn ra có tính lặp đi,
lặp lại trong suốt thời gian dài và liên tiếp tác động đến tinh thần người phạm
tội làm cho họ bị dồn nén về mặt tâm lý. Đến thời điểm nào đó khi có hành vi
trái pháp luật cụ thể xảy ra thì trạng thái tinh thần của người phạm tội bị đẩy
đến cao độ và người phạm tội lâm vào trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
Trong trường hợp này, nếu chỉ xét hành vi cụ thể ngay liền trước trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh sẽ khơng thấy được sự nghiêm trọng của hành vi
trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân [29].
Ví dụ, trường hợp A mở quán nước trước nhà B, thường xuyên vứt rác
trước cổng nhà B, B đã rất nhiều lần nhắc nhở nhưng A không thay đổi. Một
lần, cả nhà B đang ngồi ăn cơm ngồi sân thì A lại tiếp tục vứt rất nhiều rác
bẩn trước cổng nhà B, B ra mắng A thì bị A cãi lại, thách thức làm B tức giận
lấy thanh sắt ở sân đánh vào đầu A, làm A chết. Nếu xét từng hành vi cụ thể
của A thì sẽ khơng thấy được sự nghiêm trọng của hành vi trái pháp luật mà A
đã thực hiện nhưng hành vi này đã diễn ra thường xuyên, liên tục trong một
thời gian dài mặc dù đã được B nhắc nhở, đến thời điểm cả nhà B đang ăn
cơm, A lại vứt rác bẩn vào cổng, bị B mắng A lớn tiếng cãi lại, thách thức
thì B thực sự tức giận, bị kích động mạnh về tinh thần và dùng thanh sắt
đánh A chết.

16



Một người bị kích động mạnh về tinh thần ngồi trường hợp nạn nhân
có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với họ cịn có những trường hợp bị
kích động mạnh về tinh thần khi có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng với
người thân thích của người đó. Hiện nay chưa có văn bản nào giải thích chính
thức thế nào là người thân thích của người phạm tội nhưng theo thực tiễn xét
xử có thể hiểu những người thân thích với người phạm tội là những người có
quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng như: Vợ chồng,
cha mẹ - con cái, anh chị em ruột, anh chị em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác
cha với nhau, ông bà nội ngoại đối với các cháu, trong thực tiễn xét xử Tòa án
cũng đã công nhận một số trường hợp tuy không phải là quan hệ huyết thống hay
quan hệ hôn nhân mà chỉ là quan hệ thân thuộc giống như anh chị em ruột, cha
mẹ ruột cũng được xác định là người thân thích của nhau [17]. Như trong trường
hợp mẹ và con nuôi với nhau mặc dù không có quan hệ huyết thống nhưng cũng
có quan hệ ni dưỡng, tình cảm với nhau: Bố mẹ A chết sớm, A được bà C
nhận làm con nuôi từ nhỏ, một hôm đang đi làm đồng thì có người gọi “Về nhà
ngay! Mẹ của mày bị người ta đánh cho què chân rồi”. A vội cầm dao chạy về
nhà và biết mẹ mình bị M đánh đang nằm bất tỉnh ở sân trước, A liền chạy sang
nhà M chém liên tiếp vào đầu M làm M chết ngay tại chỗ. Tuy A và bà C không
phải có quan hệ huyết thống nhưng có quan hệ ni dưỡng, tình cảm với nhau
nên bà C có thể được xem là người có quan hệ thân thích với A.
Nguyên nhân của trạng thái tinh thần bị kích động mạnh của người
phạm tội là hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người
phạm tội hoặc người thân thích của người phạm tội. Khơng có hành vi trái
pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc người thân
thích của người đó thì khơng có trạng thái tinh thần bị kích động mạnh của
người phạm tội. Ví dụ trường hợp A đánh B (con của C) bị thương, C nghe tin
cầm gậy chạy đi tìm A để đánh nhưng khơng gặp A mà gặp bà M (mẹ của A)
nên C dùng gậy đánh bà M, do vết thương quá nặng nên bà M đã chết trên
đường đi cấp cứu. Trường hợp này, A mới là người có hành vi trái pháp luật
nghiêm trọng đối với người thân của C làm cho C bị kích động mạnh về tinh


17


thần chứ không phải bà M, nên hành vi giết người của C không phải là giết
người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
Trường hợp người phạm tội tự mình gây nên tình trạng tinh thần bị
kích động mạnh rồi giết người cũng không thuộc trường hợp giết người trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Ví dụ, A và B cãi nhau, B tức giận đi
uống rượu, say rồi về cầm dao đi giết A, trường hợp này B sẽ bị xử lý theo
Điều 123 BLHS chứ khơng áp dụng Điều 125 BLHS, vì hành vi giết A của B
là do B bị say rượu dẫn tới không nhận thức và điều khiển được hành vi chứ
không phải do A và B cãi nhau mà B bị kích động mạnh.
* Hậu quả của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh
Hậu quả được quy định là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP của tội giết người
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, đó là hậu quả chết người, cụ thể là
nạn nhân phải chết thì người thực hiện hành vi tước đoạt tính mạng của nạn nhân
mới bị coi là phạm tội này. Theo đó, tội giết người trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh chỉ được coi là hồn thành khi có hậu quả chết người xảy ra. Nếu
nạn nhân khơng chết mà chỉ bị thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe mà thương
tật từ 31% trở lên thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh” được quy định tại điều 126 BLHS. Cũng theo quy
định của BLHS, tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh khơng
có giai đoạn chuẩn bị phạm tội, vì trạng thái tinh thần bị kích động mạnh chỉ có
khi có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người phạm tội
hoặc đối với người thân thích của người đó, sự kích động đó phải có tính đột xuất,
nó đến rất nhanh và cũng qua đi rất nhanh.
* Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả của

tội phạm

18


×