Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

PHÁP LUẬT VỀ VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.45 KB, 29 trang )

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

Hoàng Văn Nam

PHÁP LUẬT VỀ VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

NIÊN LUẬN TỐT NGHIỆP

Hà Nội – 2020

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI


Hồng Văn Nam

PHÁP LUẬT VỀ VỆ SINH AN TỒN THỰC PHẨM
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

NIÊN LUẬN TỐT NGHIỆP

Hà Nội – 2020

MỤC LỤC

2


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ATTP


:

An toàn thực phẩm

VSATTP

:

Vệ sinh an tồn thực phẩm

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vấn đề về vệ sinh an toàn thực phẩm đang là một vấn đề hết sức cấp thiết, có
tính thời sự cao, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay. Nó khơng chỉ diễn ra ở các
nước đang phát triển, kém phát triển mà còn ở cả những nước phát triển, có
trình độ khoa học tiên tiến. Việc bảo đảm VSATTP là một trong những nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu mà các cơ quan nhà nước luôn quan tâm đặc biệt, coi
đây là một vấn đề có ý nghĩa to lớn về kinh tế, an toàn xã hội, bảo vệ môi
trường, sức khỏe nhân dân và đặc biệt là tiến trình hội nhập của Việt Nam. Tuy
nhiên hiện nay, tình trạng mất VSATTP đang trở thành vấn đề lớn gây bức xúc
cho toàn xã hội. Các loại thực phẩm sản xuất, chế biến trong nước và nước
ngồi khơng rõ nguồn gốc nhập vào Việt Nam ngày càng nhiều. Ngộ độc tập thể
liên tục xảy ra. Việc sử dụng các chất phụ gia trong sản xuất trở nên phổ biến.
Tình hình sản xuất thực phẩm giả, không đảm bảo chất lượng và không theo
đúng thành phần nguyên liệu cũng như quy trình cơng nghệ đã đăng ký với cơ
quan quản lý. Nhãn hàng và quảng cáo không đúng sự thật vẫn xảy ra. Ngồi ra,
việc sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật không theo đúng quy định gây ô nhiễm
nguồn nước cũng như hệ quả của tồn dư các hóa chất này trong thực phẩm là vơ
cùng lớn.
Chính vì vậy, nhằm có những cái nhìn về nhưng mặt hạn chế của pháp luật về

VSATTP tại nước ta, theo đó đưa ra các định hướng và giải pháp hoàn thiện về
3


mặt pháp luật, tôi chọn đề tài “Pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm, thực
trạng và giải pháp” để làm niên luận của mình.
2. Tóm tắt tình hình nghiên cứu đề tài
Trước và trong quá trình nghiên cứu đề tài này, tác giả đã tìm hiểu, tham khảo
một số bài viết, tác phẩm có liên quan đến phạm vi của niên luận như sau:
- Đặng Công Hiến, Pháp luật an toàn thực phẩm trong hoạt động thương mại ở
Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội, năm 2019.
- Đinh Thị Quế, Pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực an toàn thực phẩm,
Luận văn thạc sĩ luật học Trường Đại học Luật - Đại học Huế, năm 2018.
- Nguyễn Nữ Linh Tâm, Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh
doanh - qua thực tiễn tại tỉnh quảng trị, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại
học Luật - Đại học Huế, ăm 2018.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Để hồn thiện đề tài này, luận văn xác định các mục đích nghiên cứu cơ bản như
sau:
- Phân tích, đánh giá một cách chi tiết và có hệ thống về mặt lý luận đối với
các quy phạm pháp luật và tác động của những quy định đó vào vấn đề vệ
sinh an toàn thực phẩm.
- Làm rõ một số cơ sở lý luận về vệ sinh an toàn thực phẩm. Tập trung nghiên
cứu, phân tích, đánh giá thực trạng quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn
thực hiện pháp luật. Bên cạnh đó cần tìm và chỉ ra được ưu điểm, đánh giá
hạn chế, bất cập còn tồn tại.
- Nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật và áp dụng
pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Đề xuất giải pháp hồn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp

luật về vệ sinh an toàn thực phẩm tại nước ta.
3.2. Nhiệm vụ
4


- Nghiên cứu một số vấn đề pháp lý về pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm;
đặc điểm của vệ sinh an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh. Từ đó
nêu bật được ý nghĩa và vai trị của an toàn thực phẩm.
- Làm sáng tỏ thực tiễn thực thi pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm tại
nước ta, những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân và hướng giải quyết.
- Đề xuất phương án và một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện cơ chế pháp
lý và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Niên luận tập trung nghiên cứu về pháp luật xử lý trong vấn đề an toàn thực
phẩm được quy định trong các văn bản quy phạm như Luật An toàn thực phẩm,
các nghị định, thông tư liên quan,..
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu các chế định về vệ sinh an toàn thực phẩm, bao gồm:
+ Nghiên cứu về mặt pháp luật.
+ Nghiên cứu về mặt thực tiễn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được tác giả sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, trong
đó bao gồm chủ yếu là các phương pháp sau: Hệ thống, phân tích, tổng hợp, so
sánh, khảo sát thực tiễn và tư duy logic.
6. Kết cấu của niên luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của niên
luận gồm:
Chương 1: Khái quát hệ thống các văn bản pháp luật về VSATTP
Chương 2: Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật và thực tiễn thực hiện

pháp luật về VSATTP
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về VSATTP

5


CHƯƠNG 1 Khái quát hệ thống các văn bản pháp luật về VSATTP
1.1 Các văn bản pháp luật hiện hành
- Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng;
- Luật An toàn thực phẩm năm 2010;
- Nghị định 15/2018/NĐ-CP về hướng dẫn chi tiết Luật An toàn thực phẩm
(hiệu lực 02/02/2018; thay thế Nghị định 38/2012/NĐ-CP);
- Nghị định 115/2018/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính về an tồn
thực phẩm (hiệu lực 20/10/2018; thay thế Nghị định 1778/2013/NĐ-CP);
- Các thông tư của Bộ Công thương, Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và phát triển
nông thôn quy định về việc quản lý, trình tự, thủ tục cấp các giấy chứng nhận về
an tồn thực phẩm
Ví dụ:
+ Thơng tư 43/2018/TT-BCT QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ AN TOÀN
THỰC PHẨM THUỘC TRÁCH NHIỆM CỦA BỘ CƠNG THƯƠNG
+ Thơng tư số 24/2019/TT-BYT quy định về quản lý và sử dụng Phụ gia
thực phẩm
1.2 Những nội dung cơ bản của Luật VSATTP 2010
Luật VSATTP 2010 được Quốc hội khố XII thơng qua tại kì họp thứ 7,
bộ luật cũng được xây dựng trên những quan điểm chỉ đạo như sau:
-Thể chế hoá quan điểm của Đảng về phát triển sự nghiệp bảo vệ, chăm
sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân nói chung và trong lĩnh vực ATTP nói
riêng.
-Tổng kết kinh nghiệm, kế thừa có chọn lọc các quy định hiện hành của

pháp luật về ATTP.

6


-Nâng cao trách nhiệm của tất cả các cấp, các ngành, mọi tổ chức, cá
nhân trong công tác bảo đảm ATTP, trong đó ngành y tế giữ vai trị đầu mối,
phối hợp liên ngành và huy động sự tham gia của cộng đồng.
-Đổi mới phương thức quản lý đối với sản phẩm thực phẩm, chuỗi sản
xuất, chế biến, tiêu dùng thực phẩm phù hợp với pháp luật quốc tế về ATTP và
đáp ứng yêu cầu hội nhập.
-Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất và đồng bộ của hệ
thống pháp luật, tính khả thi trong thực tế và bảo đảm yếu tố về bình đẳng
giới.

*Luật gồm 11 chương và 72 điều, gồm các nội dung cơ bản sau:
1. Chương I. Những quy định chung gồm 6 điều (từ Điều 1 đến Điều 6)
quy định về phạm vi điều chỉnh; giải thích từ ngữ; nguyên tắc quản lý an tồn
thực phẩm; chính sách của Nhà nước về an tồn thực phẩm; những hành vi bị
cấm; xử lý vi phạm pháp luật về an toàn thực phẩm. Như vậy, phạm vi điều
chỉnh của Luật tập trung vào việc giải quyết những vấn đề liên quan nhằm bảo
đảm an toàn thực phẩm đối với những sản phẩm đã là thực phẩm chứ khơng
điều chỉnh đối với q trình sản xuất nơng, lâm sản, giống cây trồng, giống vật
nuôi.
Nhằm làm rõ khái niệm, từ đó giúp người đọc có cách hiểu chung thống
nhất về các quy phạm được quy định trong Luật, các thuật ngữ quan trọng được
sử dụng nhiều lần đã được giải thích trên cơ sở cập nhật các thuật ngữ mới theo
quy định của Codex và Quốc tế; đưa ra nguyên tắc quản lý an toàn thực phẩm
xuyên suốt chuỗi thực phẩm từ trang trại đến bàn ăn và dựa trên phân tích nguy
cơ. Đối với xử phạt vi phạm hành chính thì ngồi việc áp dụng mức phạt theo

hành vi vi phạm còn áp dụng theo giá trị thực phẩm trong trường hợp mức quy
định xử phạt hành vi còn thấp hơn giá trị của thực phẩm vi phạm.
7


2. Chương II. Quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong bảo đảm
ATTP gồm 3 điều (từ Điều 7 đến Điều 9).
Chương này quy định về quyền và nghĩa vụ đối với an tồn thực phẩm
của 3 nhóm đối tượng chính, đó là: tổ chức, cá nhân sản xuất thực phẩm; tổ
chức, cá nhân kinh doanh thực phẩm và người tiêu dùng thực phẩm.
3. Chương III. Điều kiện bảo đảm an toàn đối với thực phẩm gồm 9
điều (từ Điều 10 đến Điều 18): Đây là một chương hoàn toàn mới so với Pháp
lệnh vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2003.
Để quản lý đối với sản phẩm, dù là sản phẩm ở dạng nào cũng phải bảo
đảm các điều kiện chung nhất. Chính vì vậy, để tránh quy định trùng lắp trong
Luật, Điều 10 đã đưa ra một số điều kiện mà sản phẩm phải đáp ứng nhằm bảo
đảm an toàn cho sản phẩm.
Ngoài các điều kiện chung ở Điều 10, đối với các nhóm thực phẩm cụ
thể, đặc thù như: thực phẩm tươi sống, thực phẩm đã qua chế biến; thực phẩm
tăng cường vi chất dinh dưỡng; thực phẩm chức năng; thực phẩm biến đổi gen;
thực phẩm đã qua chiếu xạ; phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến; bao gói,
chứa đựng thực phẩm cần phải bảo đảm thêm một số điều kiện riêng khác nữa.
4. Chương IV. Điều kiện bảo đảm an toàn trong sản xuất, kinh doanh
thực phẩm gồm 15 điều (từ Điều 19 đến Điều 33)
Tương tự như Chương III, đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh thực
phẩm cũng có những điều kiện chung, ngồi ra cịn có thêm những điều kiện
riêng đối với từng sản phẩm và từng quá trình như: sản xuất, kinh doanh thực
phẩm tươi sống, điều kiện trong sơ chế, chế biến, kinh doanh thực phẩm đã
qua chế biến, điều kiện trong kinh doanh dịch vụ ăn uống. Bên cạnh đó, do
thức ăn đường phố là một loại hình kinh doanh đặc biệt và hiện là đối tượng

gây ngộ độc thực phẩm cao nhất, chính vì vậy Chương IV đưa ra một mục

8


riêng quy định về điều kiện bảo đảm an toàn trong kinh doanh thức ăn đường
phố.
Một điểm khác biệt của Chương này so với Pháp lệnh Vệ sinh an toàn
thực phẩm năm 2003 là quy định riêng đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh thực
phẩm nhỏ lẻ và giao Bộ chuyên ngành quy định điều kiện cho từng loại hình
cho phù hợp và khả thi.
5. Chương V. Chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm
trong sản xuất, kinh doanh thực phẩm gồm 4 điều (từ Điều 34 đến Điều
37) bao gồm các quy định về đối tượng, điều kiện, thủ tục, hồ sơ, trình tự,
thẩm quyền và thời hạn Cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP. Thời
hạn của Giấy chứng nhận là 03 năm (theo Pháp lệnh VSATTP năm 2003 thì
giấy này khơng có thời hạn).
6. Chương VI. Xuất khẩu và Nhập khẩu thực phẩm gồm 5 điều (từ
Điều 38 đến Điều 42)
Để kiểm soát chặt chẽ đối với thực phẩm nhập khẩu, bao gồm cả phụ gia
thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến và bao bì, vật liệu chứa đựng thực phẩm,
Chương này đưa ra các điều kiện đối với các đối tượng này, đặc biệt là đối với
thực phẩm lần đầu nhập khẩu vào Việt Nam mà Việt Nam hiện chưa có quy
chuẩn kỹ thuật tương ứng.
Đối với thực phẩm xuất khẩu, mặc dù đã có rào cản chặt chẽ từ nước
nhập khẩu, nhưng để bảo đảm giữ gìn uy tín cho quốc gia trên thị trường các
nước, Luật vẫn đưa ra các quy định về điều kiện an toàn đối với thực phẩm
xuất khẩu cũng như những yêu cầu trong trường hợp có u cầu từ phía nước
nhập khẩu.
7. Chương VII. Quảng cáo và Ghi nhãn thực phẩm gồm 2 điều (Điều

43 và Điều 44)

9


Về cơ bản, việc quảng cáo và ghi nhãn thực phẩm phải tuân thủ pháp
luật về quảng cáo, ghi nhãn thực phẩm. Tuy nhiên, do tính chất đặc thù của
sản phẩm, hàng hóa là thực phẩm, Luật đưa ra các quy định về nội dung
quảng cáo thực phẩm, đồng thời phải thông báo nội dung quảng cáo trước khi
được quảng cáo trên các phương tiện quảng cáo phải được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền về y tế kiểm tra và xác nhận. Ngồi ra, Chương này cịn quy
định cả trách nhiệm của người phát hành quảng cáo, người kinh doanh dịch
vụ quảng cáo.
Về ghi nhãn thực phẩm, quy định các yêu cầu đối với việc ghi nhãn thực
phẩm nói chung và quy định riêng đối với các loại thực phẩm đặc biệt như thực
phẩm biến đổi gen, thực phẩm chức năng, thực phẩm đã qua chiếu xạ.
8. Chương VIII. Kiểm nghiệm thực phẩm, phân tích nguy cơ đối với
ATTP, phòng ngừa, ngăn chặn và khắc phục sự cố về ATTP gồm 11 điều (từ
Điều 45 đến Điều 55) và chia thành 4 mục.
Trước yêu cầu từ thực tiễn công tác kiểm nghiệm và sự khác biệt giữa
từ ngữ kiểm nghiệm được sử dụng trong Luật An toàn thực phẩm và các thuật
ngữ được sử dụng trong Luật Chất lượng, sản phẩm hàng hóa, Chương này
đưa các quy định về yêu cầu đối với cơ sở kiểm nghiệm, kiểm nghiệm phục
vụ giải quyết tranh chấp về ATTP và chi phí lấy mẫu và kiểm nghiệm thực
phẩm. Theo tinh thần của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa, chỉ những cơ
sở kiểm nghiệm được chỉ định mới được tham gia kiểm nghiệm phục vụ quản
lý nhà nước.
Về phân tích nguy cơ đối với an toàn thực phẩm, đây là nội dung hoàn
toàn mới so với Pháp lệnh năm 2003. Để quản lý tốt về an toàn thực phẩm trong
thời kỳ mới và đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế, cần phải tiến hành các

hoạt động phân tích nguy cơ đối với an toàn thực phẩm bao gồm: đánh giá nguy
cơ, quản lý nguy cơ và truyền thông về nguy cơ.

10


Với khái niệm sự cố về an toàn thực phẩm đã được nêu tại Điều 2 về giải
thích từ ngữ, Chương này đưa ra các quy định về các biện pháp phòng ngừa,
ngăn chặn và khắc phục sự cố về an toàn thực phẩm, trách nhiệm của các tổ
chức, cá nhân trong việc thực hiện việc phòng ngừa, ngăn chặn sự cố về an toàn
thực phẩm.
Truy xuất nguồn gốc thực phẩm, thu hồi và xử lý đối với thực phẩm
không bảo đảm an toàn là những hoạt động mà tất các các tổ chức, cá nhân có
trách nhiệm thực hiện khi có yêu cầu và khi tự phát hiện sự cố. Chương này quy
định rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm và
trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc truy xuất nguồn
gốc, thu hồi và xử lý đối với thực phẩm khơng an tồn.
9. Chương IX. Thơng tin, giáo dục truyền thông về ATTP gồm 5 điều
(từ Điều 56 đến Điều 60) quy định về mục đích, yêu cầu, nội dung, đối tượng
tiếp cận, hình thức và trách nhiệm trong thông tin giáo dục truyền thông về
ATTP.
Công tác truyền thơng có vai trị quan trọng đối với việc bảo đảm an toàn
thực phẩm nhằm nâng cao nhận thức của người dân để dẫn đến việc thay đổi
hành vi. Chính vì vậy Luật đã quy định:
Thơng tin, giáo dục, truyền thơng về an tồn thực phẩm nhằm nâng cao
nhận thức về an toàn thực phẩm, thay đổi hành vi, phong tục, tập quán sản
xuất, kinh doanh, sinh hoạt, ăn uống lạc hậu, gây mất an tồn thực phẩm, góp
phần bảo vệ tính mạng, sức khỏe của con người; đạo đức kinh doanh, ý thức
trách nhiệm của người sản xuất, kinh doanh với sức khỏe, tính mạng của người
tiêu dùng.

Việc cung cấp thông tin, giáo dục, truyền thông về an toàn thực phẩm
phải bảo đảm các yêu cầu sau đây: chính xác, kịp thời, rõ ràng, đơn giản, thiết
thực; phù hợp với truyền thống, văn hoá, bản sắc dân tộc, tôn giáo, đạo đức xã
11


hội, tín ngưỡng và phong tục tập quán; phù hợp với từng loại đối tượng được
tuyên truyền.
10. Chương X. Quản lý Nhà nước về an toàn thực phẩm gồm 10 điều
(từ Điều 61 đến Điều 70) được chia thành 3 mục: Mục 1. Trách nhiệm quản lý
nhà nước về ATTP; Mục 2. Thanh tra ATTP; Mục 3. Kiểm tra ATTP
Để giải quyết chồng chéo và giảm bớt gánh nặng cho các Bộ trong quản
lý nhà nước về an toàn thực phẩm, Luật đã phân công trách nhiệm quản lý nhà
nước theo nguyên tắc từ A đến Z theo các nhóm thực phẩm/ngành hàng cho 3
Bộ: Y tế, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Công thương. Đồng thời quy
định cụ thể hơn trách nhiệm quản lý nhà nước về ATTP cho UBND các cấp. Bộ
Y tế chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về an tồn
thực phẩm, Bộ Y tế có trách nhiệm thanh tra, kiểm tra tất cả các khâu trong quá
trình sản xuất, kinh doanh thực phẩm khi cần thiết.
11. Chương XI. Điều khoản thi hành gồm 2 điều (Điều 71 và Điều 72)
quy định hiệu lực thi hành và hướng dẫn thi hành Luật.
Luật An toàn thực phẩm đã được Quốc hội thông qua ngày 17/6/2010 là
một sự kiện quan trọng thể hiện được quan điểm của Đảng và Nhà nước ta, tạo
hành lang pháp lý thuận lợi cho công tác bảo đảm ATTP trong giai đoạn tới, góp
phần tích cực vào việc thực hiện thành công sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và
nâng cao sức khỏe nhân dân.

1.3 Xử lí hình sự các tội phạm về VSATTP
Trong trường hợp đủ yếu tố cấu thành tội phạm, người vi phạm có thể bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực

phẩm theo quy định tại Điều 317 Bộ luật hình sự với mức phạt tiền từ 50 triệu
đến 200 triệu hoặc phạt tù đến 5 năm; với những vi phạm nghiêm trọng hơn,
mức phạt có thể lên đến 20 năm tù.
12


Điều 317 Bộ luật hình sự
" “1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây vi phạm các quy
định về an tồn thực phẩm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000
đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Sử dụng chất cấm trong sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo quản thực phẩm hoặc
bán, cung cấp thực phẩm mà biết rõ là thực phẩm có sử dụng chất cấm;
b) Sử dụng hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật cấm sử
dụng trong trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, làm muối, sơ chế, chế
biến, bảo quản nông, lâm, thủy sản và muối tạo ra dư lượng vượt ngưỡng cho
phép trong sản phẩm;
c) Sử dụng các loại hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật,
chất xử lý cải tạo mơi trường ngồi danh mục được phép sử dụng hoặc không rõ
nguồn gốc xuất xứ hoặc không đúng quy định trong sản xuất, sơ chế, chế biến,
bảo quản thực phẩm trong trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, làm muối
tạo ra dư lượng vượt ngưỡng cho phép trong sản phẩm hoặc đã bị xử phạt vi
phạm hành chính về một trong các hành vi tại điểm này hoặc điểm a khoản này
mà còn vi phạm;
d) Chế biến, cung cấp hoặc bán thực phẩm mà biết rõ là thực phẩm không bảo
đảm quy chuẩn kỹ thuật, quy định về an tồn thực phẩm; sử dụng hóa chất, phụ
gia, chất hỗ trợ chế biến ngoài danh mục được phép sử dụng hoặc không rõ
nguồn gốc xuất xứ trong sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo quản thực phẩm: gây
tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ
thể của những người này từ 31% đến 60% hoặc thu lợi bất chính từ 50.000.000

đồng đến 100.000.000 đồng.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ
200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù 03 năm đến 07 năm:
a) Phạm tội có tổ chức;
13


b) Làm chết 01 người hoặc gây tổn hại sức khỏe cho 01 người với tỷ lệ tổn
thương cơ thể 61% trở lên;
c) Gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi
người từ 31% đến 60%;
d) Gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ
thể của những người này từ 61% đến 121%.
đ) Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
e) Phạm tội 02 lần trở lên;
g) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm
đến 15 năm:
a) Làm chết 02 người;
b) Gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi
người 61% trở lên;
c) Gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ
thể của những người này từ 122% đến 200%;
d) Thu lợi bất chính từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm
đến 20 năm:
a) Làm chết 03 người trở lên;
b) Gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên với tỷ lệ tổn thương cơ thể của
mỗi người 61% trở lên;
c) Gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ

thể của những người này 201% trở lên;
d) Thu lợi bất chính 1.000.000.000 đồng trở lên.
5. Người phạm tội cịn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000
đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ
01 năm đến 05 năm”.

14


1.4 Trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực VSATTP
Pháp luật hiện hành chưa quy định cụ thể việc bồi thường thiệt hại trong
lĩnh vực ATTP. Tuy nhiên trên cơ sở pháp luật dân sự hiện hành, ta có thể xem
xét việc bồi thường trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực này theo các bước sau:
- Trước hết, hai bên có thể tự thoả thuận mức bồi thường thiệt hại, Nhà
nước ln khuyến khích việc thỏa thuận này.
- Nếu khơng thể thoả thuận được, người bị thiệt hại có quyền khởi kiện
vụ án dân sự yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại đến Tịa án để được xem xét giải
quyết.
Có thể thấy một thực tế rằng, việc yêu cầu bồi thường thiệt hại trong lĩnh
vực VSATTP cịn tương đối ít trên phạm vi cả nước. Điều này đến từ nhiều yếu
tố nhưng tựu chung lại do việc giải quyết bằng con đường Tồ án rất phức tạp,
tốn nhiều cơng sức thời gian để có thể theo đuổi một vụ kiện, nên người tiêu
dùng Việt Nam thường bỏ qua việc khởi kiện, đòi đền bù theo Luật Bảo vệ
người tiêu dùng.

15


CHƯƠNG 2 Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật và thực tiễn thực hiện
pháp luật về VSATTP

2.1 Ưu điểm
Trong những năm qua, hệ thống pháp luật về VSATTP của nước ta đã có rất
nhiều những bổ sung cần thiết cho "cuộc chiến" với thực phẩm khơng an tồn.
Thực tế, hệ thống pháp luật về an toàn thực phẩm đã có những mặt tích cực có
thể nhận thấy sau:
Thứ nhất, hệ thống văn bản pháp luật kiểm soát về ATTP ở Việt Nam hiện
nay tương đối toàn diện và phong phú, bao gồm các lĩnh vực như:
-Tiêu chuẩn - quy chuẩn kĩ thuật được điều chỉnh bởi Luật Tiêu chuẩn và
quy chuẩn kỹ thuật 2018
-An toàn sức khỏe cộng đồng
-Quy định về kiểm dịch động, thực vật
-Hệ thống quy định về kinh doanh xuất, nhập khẩu thực phẩm do Luật
ATTP và hàng loạt các văn bản dưới luật điều chỉnh.
Bên cạnh đó, các phương thức quản lý đối với hàng hóa là thực phẩm cịn được
điều chỉnh theo Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa\, Luật Thủy sản, Luật
Thương mại, Luật Cạnh tranh,...

16


Từ đó, tạo hành lang pháp lý vững chắc cho cơng tác kiểm sốt VSATTP, đáp
ứng u cầu hội nhập quốc tế.
Thứ hai, pháp luật về ATTP đã xây dựng được hệ thống cơ quan tổ chức
quản lý ATTP từ TW đến địa phương. Trong ngành y tế có Cục ATTP, các Chi
cục, phịng y tế huyện; trong ngành nơng nghiệp có các cục chuyên ngành ở
TW, tuyến tỉnh có các chi cục; trong ngành cơng thương có các vụ, cục chuyên
ngành và các sở chuyên ngành ở tuyến tỉnh. Hệ thống kiểm nghiệm bước đầu đi
vào hoạt động đã đáp ứng được công tác quản lý với 1 Viện Kiểm nghiệm An
toàn vệ sinh thực phẩm quốc gia - là cơ quan trọng tài trong lĩnh vực kiểm
nghiệm ATTP, 3 trung tâm kiểm nghiệm khu vực, 14 cơ quan kiểm tra nhà nước

về thực phẩm nhập khẩu và phòng kiểm nghiệm thuộc 63 trung tâm y tế dự
phòng các tỉnh/thành phố. Đến nay, 42/63 tỉnh/thành phố có phịng kiểm nghiệm
được công nhận phù hợp ISO/IEC 17025
Thứ ba, những quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật đã được
tiếp cận theo hướng mới, chuyển từ phương thức quản lý tiền kiểm sang hậu
kiểm (dựa trên tiêu chuẩn, quy chuẩn công bố áp dụng); từ quản lý theo công
đoạn sang quản lý theo quá trình, chuỗi cung cấp thực phẩm.
Thứ tư, về mặt hình thức pháp lý, hệ thống văn bản pháp luật về kiểm
soát ATTP ngày càng được nâng cao về hiệu lực pháp lý.
Từ khi Luật An tồn thực phẩm đã được thơng qua tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội
khố XII, ngày 17-6-2010 và có hiệu lực từ ngày 01-7-2011, đánh dấu một bước
phát triển của pháp luật về ATTP, giúp tạo một nguồn khung pháp lý quan trọng
cho các cơ quan, tổ chức thậm chí các cá nhân có thể kiểm sốt, theo dõi các
hoạt động về an toàn vệ sinh thực phẩm trên phạm vi cả nước.
Trước đây, để kiểm soát ATTP, các văn bản pháp luật được các cơ quan chức
năng ban hành dưới hình thức như quyết định, thơng tư, chỉ thị…
17


Thứ năm, đã có chế tài xử lý hình sự đối với tội phạm về VSATTP.
Trong bối cảnh thực trạng vi phạm ATTP đáng báo động như hiện nay, bên cạnh
Luật ATTP thì BLHS 2015 (sửa đổi bổ sung 2017) ra đời đã đáp ứng được sự
mong mỏi của đông đảo quần chúng nhân dân trong vấn đề kiên quyết xử lý
mạnh tay đối với những hành vi vi phạm về ATTP. Tất cả những hành vi vi
phạm từ các khâu sơ chế, chế biến, bảo quản, bán, cung cấp, sử dụng hóa chất,
thuốc kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật trong trồng trọt, chăn nuôi,
nuôi trồng thủy sản, làm muối… đều có thể bị xem xét xử lý hình sự theo quy
định tại Điều 317 BLHS 2015 (sửa đổi bổ sung 2017).
Tội vi phạm quy định về vệ sinh an tồn thực phẩm có mức xử phạt
nghiêm khắc hơn, khung hình phạt tối đa tới 20 năm tù (khoản 4). BLHS 2015

(sửa đổi bổ sung 2017) đã hình sự hóa trách nhiệm pháp nhân tại:
-Điều 2 (cơ sở chịu trách nhiệm hình sự),
-Điều 8 (khái niệm tội phạm), Điều 33 (các hình phạt đối với pháp nhân)
và chương XI (Những quy định đối với pháp nhân phạm tội).
Trong đó, liên quan trực tiếp đến vi phạm ATTP, pháp nhân có thể bị truy
cứu trách nhiệm hình sự theo:
-Điều 193 (Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm) và
Điều 316 (Tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm).
Đây thực sự là cơ sở pháp lý quan trọng để các Cơ quan tiến hành tố tụng xử lý
hành vi vi phạm về ATTP đang báo động hiện nay.
2.2 Những bất cập/hạn chế còn tồn tại trong lĩnh vực VSATTP
*Hoạt động thanh kiểm tra chưa thực sự hiệu quả
Một mặt, kinh phí phân bổ tuyến TW cho tới địa phương cho cơng tác
thanh kiểm tra VSATTP cịn chưa được chú trọng, chưa phân bổ kinh phí và
hướng dẫn sử dụng kinh phí cho các hoạt động, dự án đảm bảo VSATTP của địa
18


phương. Hầu hết các vụ việc vi phạm hiện nay đều do báo chí hoặc người dân
thơng báo, cơ quan quản lý rất thụ động
Nhân sự chuyên trách về ATTP ở tuyến phường, xã khơng có, chủ yếu là
kiêm nhiệm nên cơng tác kiểm tra, xử lý cịn hạn chế, chế tài xử phạt chưa đủ
mạnh.
Tại một số địa phương thời gian qua đã thí điểm thanh tra chuyên ngành
VSATTP, đơn cử như tại Hà Nội, từ ngày 10-7-2019 đến ngày 10-7-2020, thành
phố Hà Nội mở rộng thí điểm thanh tra chuyên ngành an toàn thực phẩm tại tất
cả 30 quận, huyện, thị xã và 584 xã, phường, thị trấn. Tuy nhiên, việc thí điểm
thanh tra chuyên ngành chưa thực sự hiệu quả, gặp khơng ít khó khăn do thiếu
nhân lực thanh tra chuyên trách về VSATTP, tâm lí nể nang "tình làng nghĩa
xóm" tại các xã vì đa phần các hộ kinh doanh là người quen biết, nên khi kiểm

tra, chủ yếu là nhắc nhở, chứ không xử phạt.
*Chế tài
Tuy rằng đã có chế tài xử lí hình sự các tội phạm về an toàn thực phẩm,
tuy nhiên việc đưa ra xử lí hình sự lại cần q nhiều yếu tố và khó thực hiện.
Hơn nữa, việc ngừoi bị thiệt hại khởi kiện đòi bồi thường lại tương đối phức
tạp, khó khăn từ thủ tục pháp lý đến việc thu thập chứng cứ chứng minh việc bị
thiệt hại. Vì vậy trên thực tế, người tiêu dùng dù quan tâm đến quyền lợi của
mình nhưng cũng rất khó để khiếu kiện đòi bồi thường.
Chế tài xử lý các vi phạm trong lĩnh vực an tồn thực phẩm hiện nay cịn
q nhẹ, hầu hết mới chỉ dừng lại ở mức xử lý vi phạm hành chính là phạt tiền,
chưa đủ sức răn đe. Hầu hết chế tài xử lý mới chỉ dừng lại ở mức phạt tiền hoặc
đình chỉ hoạt động sản xuất kinh doanh từ 1-6 tháng.

19


*Quản lý nhà nước
Hệ thống quản lý chuyên ngành từ TW đến địa phương còn thiếu và yếu,
chưa đáp ứng yêu cầu thực tế. Năng lực hệ thống kiểm nghiệm chất lượng vệ
sinh an tồn thực phẩm cịn rất hạn chế. Hệ thống cơ quan QLNN về ATTP còn
chưa tương xứng với nhiệm vụ; lực lượng còn phân tán ở nhiều bộ ngành, đơn
vị nên việc triển khai thực hiện còn thiếu sự đồng bộ, hiệu quả chưa cao.
Đơn cử, quản lý nhà nước về VSATTP tại nước ta hiện nay, được quy
định trong Luật ATTP 2010, thì có đến ba cơ quan quản lý là Bộ Nông nghiệp
và phát triển nông thôn, Bộ Y tế và Bộ Công Thương nhưng hiện vẫn còn một
số lĩnh vực thiếu sự phân định rõ ràng về trách nhiệm quản lý của từng cơ quan
gây nên sự chồng chéo về trách nhiệm quản lý, ban hành văn bản,..
-Lấy ví dụ một số chỉ tiêu ATTP như: Leucomalachite Green, Malachite
Green, Enrofloxacine, Chloramphenicol, Ciprofloxacin, Enrosulfan... là chất
cấm sử dụng trong sản xuất nông nghiệp theo quy định của Bộ NN&PTNT

nhưng lại chưa có quy định trong sản phẩm thực phẩm do Bộ Y tế ban hành.
Điều này đã và đang gây ra nhiều khó khăn cho công tác thanh, kiểm tra, giám
sát và xử lý vi phạm về ATTP.
-Việc quản lý chất lượng bún đang được cả 3 Bộ chịu trách nhiệm như:
nguyên liệu là bột gạo ướt để làm bún thuộc trách nhiệm của Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn; sản phẩm tinh bột thuộc về Bộ Cơng Thương. Việc
kiểm sốt sản phẩm bún trên thị trường có chứa chất Tinopal gây ngộ độc cho
người tiêu dùng lại liên quan tới Bộ Y tế. Bộ Y tế chỉ quản lý thực phẩm khi đã
đến tay người tiêu dùng. Khi kiểm tra nếu trong trường hợp khơng bảo đảm chất
lượng vệ sinh thì Bộ Y tế chỉ thu được mẫu thực phẩm.
Sự chồng chéo giữa các cơ quan quản lý ATTP đang là một thực tế tồn tại
từ lâu nhưng việc giải quyết vẫn chưa dứt điểm, đã gây khơng ít khó khăn cho
doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống. Chẳng hạn, cùng một chủ thể
kinh doanh 3 nhãn hàng thuộc về trách nhiệm quản lý về ATTP của cả ba ngành
Công thương, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Y tế thì một năm sẽ phải
20


lần lượt chịu sự thanh kiểm tra của cả 3 cơ quan trên. Hơn nữa, công tác phối
hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước về ATTP, nhất là tuyến cơ sở còn hạn
chế dẫn đến nhiều vụ việc các cơ quan xử lý khác nhau và khơng có sự phối hợp
trao đổi thông tin ảnh hưởng đến doanh nghiệp như vụ lơ xúc xích Vietfoods bị
Chi cục Quản lý thị trường Hà Nội tạm giữ vì trong sản phẩm nghi có chứa chất
tạo màu gây ung thư, nhưng Cục An toàn thực phẩm (ATTP) - Bộ Y tế đã chính
thức khẳng định chất đó trong ngưỡng an tồn.
*Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
Do việc có nhiều cơ quan quản lý nhà nước của nhiều cơ quan, bộ, ngành
nên việc ban hành văn bản pháp luật mang tính ổn định chưa cao. Có những văn
bản vừa được ban hành trong thời gian ngắn đã phải sửa đổi, bổ sung hoặc bãi
bỏ do nhiều lý do như:

-Không thuộc thẩm quyền quản lý (Từ Bộ Y tế sang Bộ Cơng Thương,...)
-Nhiều văn bản pháp luật cịn mâu thuẫn, chồng chéo do chịu sự quản lý
của nhiều cơ quan
-Việc ban hành các văn bản cịn chậm trễ, thiếu tính cấp thiết, chưa sát
với tình hình thực tế về VSATTP.

*Cơng tác tuyên truyền, phổ biến
Công tác truyền thông về thực phẩm an tồn, khơng an tồn, pháp luật về
ATTP cịn nhiều hạn chế, chưa đồng bộ và hiều quả chưa cao. Trong tuyên
truyền còn nặng về các nội dung tiêu cực, chưa có nhiều thơng tin, cách nhận
biết về thực phẩm an toàn dẫn đến tâm lý lo lắng, hoang mang trong xã hội.
Tình trạng nội dung thơng tin khơng chính xác hoặc chưa được kiểm chứng, thiếu
căn cứ khoa học, gây ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh và niềm tin của nhân
dân đối với công tác quản lý ATTP. Các cơ sở kinh doanh, sản xuất thực phẩm

21


chưa dù đã được tuyên truyền nhưng mức độ nắm được pháp luật khơng sát, gây
nên tình trạng đã phổ biến nhưng vẫn sai phạm cịn cao
Hơn nữa, cơng tác tuyên truyền pháp luật chưa được đẩy mạnh thường
xuyên mà chỉ tập trung chủ yếu vào các thời điểm phát động phong trào.

CHƯƠNG 3 Giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
về VSATTP
3.1 Chế tài
Tuân thủ pháp luật về ATTP là nghĩa vụ bắt buộc đối với các tổ chức, cá
nhân kinh doanh thực phẩm nhằm bảo đảm thực phẩm được an toàn. Trường
22



hợp, tổ chức, cá nhân kinh doanh thực phẩm không tuân thủ qui định của pháp
luật thì sẽ phải gánh chịu hậu quả pháp lý mà pháp luật quy định, trong trường
hợp này là chế tài mà các chủ thể phải chịu khi gây ra hậu quả tuỳ theo mức độ.
Tuy rằng, Bộ luật Hình sự 2015 đã quy định nhưng tội phạm về ATTP nhưng số
vụ án được xử lý theo luật chưa thực sự đáp ứng được với tinh thần của bộ luật.
Đa số các vi phạm về VSATTP tại nước ta hiện nay chỉ phạt hành chính, tước
giấy phép hoặc cấm kinh doanh sản xuất.
Tính cấp thiết hiện nay cần phải có một chế tài đủ sức răn đe đối với các hành vi
vi phạm VSATTP. Các chế tài đó khơng chỉ là biện pháp trừng phạt vi phạm
pháp luật bảo đảm ATTP, ngăn ngừa, giáo dục cải tạo chủ thể vi phạm mà còn
răn đe chủ thể khác để họ tự giác tuân theo các quy phạm pháp luật, qua đó
ngăn ngừa và hạn chế những hành động sai trái tác động đến sự an toàn của thực
phẩm. Bên cạnh đó, các chế tài xử phạt còn tạo ra sự đồng thuận cao, trách
nhiệm và tự giác trong việc thực hiện các biện pháp bảo đảm ATTP.
Việc đặt ra các chế tài về hành chính, hình sự cứng rắn, cũng như các biện pháp
khắc phục hậu quả của Nhà nước như trên là nhằm ngăn chăn, trừng trị và đủ
sức răn đe đối với những hành vi vi pham pháp luật về ATTP.

3.2 Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về VSATTP
Năng lực của các cơ quan quản lý nhà nước về ATTP là yếu tố quyết định
hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về ATTP. Chính vì vậy, muốn nâng cao hiệu
lực hiệu quả quản lý ATTP trong hoạt động kinh doanh, trước hết phải kiện toàn
và nâng cao năng lực của các cơ quan này.
Hiện nay, trình độ cán bộ làm cơng tác vệ sinh ATTP được thuyên chuyển
từ nhiều ngành khác nhau, vì vậy, đối với cán bộ, cơng chức hiện đã và đang
làm cần đào tạo chuyên ngành, nâng cao, vì thực phẩm ln thay đổi theo nhu
cầu của con người, liên tục đổi mới. Mặt khác, kinh tế - xã hội ngày càng phát
23



triển, trình độ cán bộ địi hỏi phải nâng cao, thể chế hành chính trong quản lý
cũng dần được hồn thiện, việc kiểm tra, thanh tra, xử phạt cá nhân, doanh
nghiệp trong nước cũng như nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam đòi
hỏi đào tạo chuyên sâu cho cán bộ ngay ở trong nước cũng như đào tạo ở nước
ngồi. Do đó, cần tăng cường số lượng đội ngũ chuyên trách VSATTP tại các
tuyến phường xã để đảm bảo được các tuyến cơ sở phải có lực lượng chuyên
ngành được đào tạo bài bản về VSATTP. Thực tế cho thấy rằng, tuyến cơ sở
(phường, xã) là nơi giám sát, phát hiện quan trọng, nhanh nhất các vi phạm về
VSAATP vì tại nước ta hiện nay đa số vẫn là sản xuất và kinh doanh nhỏ lẻ, thủ
công theo hộ gia đình.
Thêm nữa, cần tiếp tục phân cấp mạnh cho chính quyền địa phương trong
quản lý ATTP, đảm bảo cho địa phương có thể tự xử lí các vụ việc trên địa bàn
mình, tránh thực tế hiện nay ln chờ đợi TW kết luật mới xử lí sẽ thiếu đi tính
cấp bách. Bên cạnh đó, chính chính quyền địa phương mới có thể nắm được rõ
nhất về tình hình xã hội, sản xuất kinh doanh tại địa phương mình, từ đó mới có
thể xây dựng được chương trình, kể hoạch bảo đảm VSATTP phù hợp
.
3.3 Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn quốc gia về ATTP đồng bộ, thống nhất
và phù hợp với khu vực và thế giới
Xây dựng và hoàn thiện các tiêu chuẩn về ATTP theo chuẩn quốc tế và
đặc thù của Việt Nam. Mục đích cuối cùng là áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế
vào thị trường trong nước. Tuy nhiên cần lưu ý rằng, những tiêu chuẩn của
Codex, IPPC, OIE, dù dựa trên cơ sở khoa học nhưng rất khó thực hiện trong
nước vì sẽ làm giá thực phẩm tăng ít nhất từ 5-10% và vì những tiêu chuẩn đó
dựa trên tập quán ăn uống của người phương Tây. Do đó nên lựa chọn cách
chuyển đổi từng bước sang tiêu chuẩn quốc tế.
Cần có sự phối hợp giữa các cơ quan soạn thảo và các doanh nghiệp,
tham khảo ý kiến của các chuyên gia trong việc xây dựng tiêu chuẩn và các quy
24



định quản lý để có thể bắt buộc doanh nghiệp thực hiện một cách có hiệu quả,
tránh tình trạng áp đặt hoặc xây dựng tiêu chuẩn không dựa trên những chứng
cứ khoa học.
Tranh thủ sự trợ giúp về kỹ thuật và chuyên gia của các tổ chức tiêu
chuẩn, môi trường quốc tế đồng thời tăng cương công tác đào tạo đội ngũ
chuyên gia trong lĩnh vực xây dựng hệ thống tiêu chuẩn quốc gia.
Việc hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn quốc gia về ATTP đồng bộ, thống
nhất là bước cực kì quan trọng trong cơng tác phát hiện và xử lí các vi phạm về
VSATTP tại nước ta, sẽ là cơng cụ hữu ích để các doanh nghiệp, cơ sở sản xuât
kinh doanh dựa vào đó để tuân thủ và đưa ra phương án kinh doanh sản xuất
hợp pháp và đảm bảo VSATTP.
Bên cạnh đó, cần tiếp tục đầu tư về hạ tầng, trang thiết bị cho các phòng
xét nghiệm của trung ương. Đầu tư kinh phí nâng cấp một số phịng thí nghiệm
để đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc tế, nâng cao năng lực các phịng thí nghiệm
phân tích hiện có; khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư mới các
phịng thí nghiệm...
3.4 Tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền, phổ biến kiến thức, pháp
luật về VSATTP
Công tác giáo dục, tuyên truyền, phổ biến kiến thức, pháp luật về
VSATTP cần triển khai quyết liệt và thường xuyên hơn cho cộng đồng với các
hình thức phương tiện tuyên truyền đa dạng, phong phú cả ở cấp Trung ương và
địa phương, đặc biệt chú trọng phổ biến cho cộng đồng về Luật ATTP và các
văn bản pháp luật liên quan. Đẩy mạnh xã hội hóa cơng tác giáo dục truyền
thơng, phải xã hội hóa thì mới phát huy được sức mạnh của doanh nghiệp, tổ
chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp, các tổ chức đoàn thể, nâng cao nhận thức và
thực hành cho mọi tầng lớp xã hội, tạo được phong trào dân trí cao.

25



×