khu vực kinh tế Ngoài quốc doanh và Nội dung của
quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế Ngoài quốc
doanh
I. Đặc điểm của khu vực kinh tế Ngoài quốc doanh
1.Sự tồn tại khách quan của khu vực kinh tế Ngoài quốc doanh
Thời kỳ quá độ lên CNXH theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin sẽ trải
qua một thời gian dài trong lịch sử. Trong suốt thời kỳ đó vẫn tồn tại các thành
phần kinh tế phi CNXH cạnh tranh gay gắt với thành phần kinh tế CNXH. Nhà n-
ớc XHCN có vai trò to lớn trong việc làm cho các thành phần kinh tế XHCN ngày
càng phát triển và chiếm u thế, đảm bảo thắng lợi của CNXH.
Vậy quá độ đi lên CNXH bỏ qua phát triển TBCN không thể không quan tâm
đến sự tồn tại và phát triển tất yếu khách quan của các thành phần kinh tế khác
trong đó có các thành phần kinh tế của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh (NQD).
Nớc ta quá độ lên CNXH từ một nớc nông nghiệp lạc hậu, tiềm lực kinh tế còn
cha mạnh, cơ sở vật chất còn nghèo nàn không đồng nhất giữa các ngành các
vùng, trình độ quản lý kinh tế còn thấp kém lại vừa qua khỏi chiến tranh. Mâu
thuẫn giữa nhu cầu cải tiến đời sống nhân dân với khả năng của sức sản xuất đang
hết sức gay gắt. sự lựa chọn có phát triển kinh tế nhiều thành phần trong đó có
kinh tế NQD hay không có tính chất quyết định. Tuy nhiên chấp nhận sự tồn tại
của kinh tế NQD không có nghĩa là để quan hệ sản xuất TBCN xác lập thống trị
xã hội mà chỉ để quan hệ sản xuất tồn tại phục vụ cho các mục đích phát triển
kinh tế, đẩy mạnh sự phát triển của các lực lợng sản xuất, tăng nhanh năng xuất
lao động, tăng trởng kinh tế. Do đó bỏ qua chế độ TBCN là bỏ qua việc xác lập vị
trí thống trị của quan hệ sản xuất chứ không có nghĩa xoá bỏ hoàn toàn kinh tế
NQD. Nhng muốn quan hệ sản xuất TBCN không trở thành thống trị trong nền
kinh tế của xã hội thì không phải bằng con đờng bóp nghẹt nh đã làm trớc đây, mà
phải bằng cách xoá bỏ dần dần bằng sự tác động của các nhân tố khác trong đó
kinh tế nông nghiệp là quan trọng nhất.
Vậy sự tồn tại khách quan của khu vực kinh tế NQD trong thời kỳ quá độ
đã đợc khẳng định và nó tiếp tục phát triển trong nền kinh tế thị trờng, kinh tế
NQD là thành phần kinh tế không thể thiếu đợc và đóng vai trò ngày càng quan
trọng đối với nền kinh tế quốc dân. Hiện nay nớc ta đang trong quá trình chuyển
đổi sang nền kinh tế thị trờng, một số định kiến xã hội trớc đây đối với khu vực
kinh tế NQD vẫn còn khá nặng nề. Khuôn khổ pháp luật để phát triển kinh tế
NQD đang xây dựng, cha hoàn chỉnh. Song từ khi có Luật Doanh nghiệp (DN) có
hiệu lực, môi trờng kinh doanh đã bớc đầu đợc cải thiện, các loại giấy phép bất
hợp lý đã đợc xoá bỏ, nhiều doanh ngiệp đã phát huy đợc tính chủ động sáng tạo,
tận dụng đợc hết năng lực vốn có và tăng vốn đầu t, mở rộng địa bàn để phát triển
sản xuất, kinh doanh...
Vậy định hớng đi lên XHCN, bỏ qua chế độ TBCN tất yếu khách quan phải
trải qua thời kỳ quá độ bên cạnh đó khẳng định sự tồn tại tất yếu khách quan của
kinh tế NQD và xu hớng nền kinh tế này phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh
tế của đất nớc trong thời nền kinh tế thị trờng theo định hớng XHCN.
2. Vai trò của khu vực kinh tế NQD trong nền kinh tế
Khu vực kinh tế NQD bao gồm các doanh nghiệp NQD (Công ty TNHH, công
ty Cổ phần, công ty Hợp danh, doanh nghiệp t nhân) và các hộ cá nhân có hoạt
động sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trờng, kinh tế NQD là thành phần
kinh tế không thể thiếu và đóng vai trò ngày càng mạnh mẽ, tơng xứng với tiềm
năng và đóng góp xứng đáng vào sự tồn tại vào sự phát triển nền kinh tế thị trờng
theo định hớng XHCN đòi hỏi Nhà nớc phải có các chính sách, điều kiện thuận
lợi để khu vực này phát huy đợc vai trò của mình trong tình hình kinh tế hiện nay.
2.1. Khu vực kinh tế NQD phát triển góp phần làm tăng của cải vật chất
cho xã hội, thúc đẩy tăng trởng kinh tế
Nớc ta là nớc có nền kinh tế đang trên đà phát triển, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần do vậy mục tiêu phát triển kinh tế là hàng đầu. Khu vực
kinh tế NQD là khu vực có nhiều đặc điểm thuận lợi cho quá trình làm tăng của
cải vật chất cho xã hội, thúc đẩy tăng trởng kinh tế nh là: khu vực thu hút nhiều
lao động, đối tợng hoạt động rộng tạo thuận lợi cho việc phát triển kinh tế ở mọi
nơi trong nớc rút ngắn khoảng cách về thu nhập giữa thành thị và nông thôn, đồng
thời góp phần khai thác những tiềm năng to lớn của nền kinh tế nh tài nguyên, sức
lao động, thị trờng...mà vẫn cha đợc khai thác một cách hiệu quả. Bên cạnh đó do
đặc thù rất linh hoạt, nhanh nhậy trong sản xuất để thu lợi nhuận cao nhất nên khu
vực này có khả năng phát huy nội lực, mở rộng sản xuất kinh doanh phù hợp với
nhu cầu của thị trờng. Vậy khu vực kinh tế NQD là khu vực có vai trò hết sức
quan trọng đồng thời là khu vực góp phần vào việc thực hiện các chỉ tiêu về tăng
trởng kinh tế do Nhà nớc đề ra.
2.2. Khu vực kinh tế NQD phát triển góp phần giải quyết công ăn việc
làm cho ngời lao động
Nớc ta là nớc có dân số hơn 80 triệu dân, do đó đối tợng lao động là rất lớn.
Vấn đề thất nghiệp đợc đặt ra cần đợc giải quyết. Trong khi khu vực kinh tế Nhà
nớc và khu vực kinh tế có vốn đầu t nớc ngoài luôn đòi hỏi lao động phải có văn
hóa, trình độ kỹ thuật nhất định thì mới có thể làm việc trong khu vực trên dẫn
đến một khối lợng lớn lao động đang ở tuổi lao động không thể làm việc ở trong
hai khu vực này. Vậy điều đáng nói ở đây là so với 2 khu vực trên thì khu vực kinh
tế NQD có vai trò thu hút nhiều thành phần lao động, từ những lao động có trình
độ cao đến những lao động thủ công, từ những hợp đồng ngắn hạn đến những hợp
đồng dài hạn, theo mùa vụ hoặc theo thời gian nhất định... Do đó khu vực này góp
phần giải quyết thất nghiệp và tạo ra sự phát triển cân đối cho nền kinh tế.
2.3. Khu vực kinh tế NQD phát triển tạo cho ngân sách có nguồn thu ổn
định và ngày càng tăng
Trớc hết phải khẳng định các khoản nộp ngân sách của khu vực kinh tế NQD
mới đúng bản chất là thuế. Vì khác với các doanh nghiệp Nhà nớc, Nhà nớc
không phải chủ sở hữu t liệu sản xuất, Nhà nớc thu thuế của khu vực này mà
không phải đầu t trực tiếp vào khu vực này. Nguồn thu từ khu vực này rất lớn ngày
càng tăng và đợc dùng chủ yếu để đầu t vào các ngành nghề kinh tế mũi nhọn,
xây dựng cơ sở hạ tầng, hỗ trợ các ngành kinh tế yếu kém...đồng thời khu vực này
còn tham gia đóng góp tài chính cho đất nớc nhiều hơn nữa thông qua các hoạt
động tự nguyện hởng ứng các phong trào do Nhà nớc, đoàn thể phát động nh ủng
hộ đồng bào bị lũ lụt, thơng binh, gia đình liệt sĩ, xây dựng trờng học, đờng xá
đóng góp vào các quỹ an ninh, đền ơn đáp nghĩa....Vậy khu vực kinh tế NQD có
vai trò điều hoà thu nhập và đóng góp vào ngân sách Nhà nớc rất lớn.
2.4. Khu vực kinh tế NQD phát triển góp phần tăng vốn đầu t cho xã hội
Khu vực này tạo ra một thị trờng vốn tín dụng lớn và hứa hẹn nhiều tiềm
năng cho sự phát triển của các ngân hàng ở nớc ta do sự đổi mới kinh tế, nhờ
chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần nên khu vực NQD đã hình thành và
huy động một lợng vốn đầu t lớn cho xã hội. Đây là một nguồn vốn quan trọng,
song khai thác cha hiệu quả. Bên cạnh đó khu vực kinh tế NQD càng phát triển thì
nhu cầu về vốn ngày càng gia tăng và có mối quan hệ mật thiết với các ngân hàng,
đóng góp vào sự lớn mạnh của hệ thống ngân hàng trong công tác huy động vốn.
2.5. Ngoài những vai trò trực tiếp nêu trên, khu vực kinh tế NQD tồn tại
và phát triển còn có tác dụng trên nhiều mặt sau
- Khu vực NQD phát triển thoả mãn một phần nhu cầu tiêu dùng xã hội,
giúp cho Nhà nớc trong điều kiện vốn còn hạn hẹp, có thể tập trung đầu t vào
những ngành nghề mũi nhọn, có tác dụng đến toàn bộ nền kinh tế và đời sống xã
hội, tránh đầu t phân tán, dàn trải...Thực tiễn cho thấy có khu vực này nhiều
ngành nghề, mặt hàng và lĩnh vực kinh doanh Nhà nớc không cần phải đầu t hoặc
chỉ đầu t có hạn còn về cơ bản khu vực kinh tế NQD đã đảm đơng các chức năng
bán lẻ các mặt hàng tiêu dùng và tổ chức các dịch vụ tiêu dùng cho xã hội, đặc
biệt ở địa bàn nông thôn và miền núi.
- Khu vực kinh tế NQD tồn tại và phát triển góp phần thúc đẩy sự hình
thành và phát triển kinh tế hàng hóa, tạo ra sự cạnh tranh sống động trên thị trờng,
thúc đẩy kinh tế Nhà nớc tăng cờng hạch toán kinh doanh, đổi mới công nghệ,
nâng cao năng lực sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Trớc đây trong điều kiện chỉ
có kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác, sản phẩm hàng hóa dù sản xuất ra với
bất kỳ chất lợng nào, giá cả ra sao đều đợc tiêu thụ. Nhng từ khi có kinh tế NQD
với đặc điểm t hữu cao, khu vực này rất linh hoạt năng động với tinh thần trách
nhiệm rất cao trong sản xuất, tìm kiếm thị trờng đồng thời luôn tập trung cao độ
tinh thần làm việc, phát huy mọi khả năng sẵn có của mình. Để cạnh tranh với khu
vực NQD thì buộc khu vực kinh tế quốc doanh phải cải tiến hàng hoá sản xuất ra
nếu không sẽ không đợc thị trờng chấp nhận. Bên cạnh sự cạnh tranh đó thì nếu
hai khu vực này không còn hợp tác, thúc đẩy nhau để sản phẩm sản xuất ra đợc
hoàn thiện với chất lợng cao hơn. Vậy hợp tác và cạnh tranh chính là động lực
thúc đẩy sự phát triển của hai khu vực kinh tế này.
- Khu vực kinh tế NQD hình thành và phát triển còn tác động cả vào cơ
chế quản lý làm thay đổi phơng thức quản lý sản xuất kinh doanh, thay đổi tác
phong, lề lối làm việc của cán bộ công chức nhà nớc, của ngời lao động.
Trớc hết đối với các cơ quan quản lý và cán bộ công chức Nhà nớc, phát
triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, cơ chế quản lý tập trung bao cấp không
còn thích hợp nữa vì Nhà nớc không thể ra lệnh cho các đơn vị kinh tế NQD phải
sản xuất cái gì, phải bán theo giá quy định, mà cho quy luật giá trị, do thị trờng do
nhu cầu xã hội quyết định. Với khu vực kinh tế NQD các cơ quan quản lý, công
chức Nhà nớc không thể can thiệp vào quá trình sản xuất kinh doanh của họ. Đây
chính là những tiền đề đặt ra cần phải đổi mới cơ chế quản lý và phải luôn hoàn
thiện cơ chế quản lý của nền kinh tế thị trờng theo định hớng XHCN.
Phát triển khu vực kinh tế NQD cũng có tác động và làm thay đổi ý thức,
tác phong làm việc của công chức các cơ quan quản lý Nhà nớc. Vì khu vực kinh
tế NQD toàn bộ vốn và tài sản thuộc sở hữu t nhân, họ có quyền quyết định phơng
án sản xuất kinh doanh và chỉ chịu sự quản lý của Nhà nớc thông qua pháp luật.
Cán bộ công chức Nhà nớc không có quyền can thiệp vào công việc kinh doanh
của họ. Quan hệ giữa đơn vị kinh tế NQD và công chức Nhà nớc là quan hệ bình
đẳng trớc pháp luật.
Đối với ngời lao động và những ngời quản lý sản xuất kinh doanh, câu hỏi
đặt ra là làm sao thu đợc lợi nhuận cao nhất. Muốn vậy phải cải tiến sản xuất, kinh
doanh, nâng cao trình độ chuyên môn để sản xuất ra hàng hoá chất lợng cao, giá
thành hạ.
Quan hệ giữa ngời bán hàng dịch vụ và ngời mua hàng dịch vụ đợc thay đổi
từ quan niệm bán nh cho thời bao cấp bằng quan niệm coi khách hàng là thợng
đế đã đợc hình thành.
Khu vực kinh tế NQD phát triển tác động cả vào các cơ quan quản lý trong
việc hoạch định chính sách và cải cách hành chính.
Vậy chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần trong đó vai trò của khu vực
kinh tế NQD đã đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn và phản ánh đúng quy luật khách
quan của thời kỳ qua độ. Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ VII của Đảng (tháng
6/1991) đã đánh giá: Chính sách này đợc nhân dân hởng ứng rộng rãi và đã đi
nhanh vào cuộc sống chính sách ấy đã góp phần phát huy quyền làm chủ của nhân
dân về kinh tế, khơi dậy đợc nhiều tiềm năng va sức sáng tạo của nhân dân để
phát triển sản xuất, dịch vụ, tạo việc làm và sản phẩm cho xã hội, thúc đẩy sự hình
thành và phát triển nền kinh tế hàng hoá, tạo ra sự cạnh tranh sống động trên thị
trờng. Ngoài ra góp phần vào phát triển và tăng trởng kinh tế ngoài quốc doanh
có sự tham giam tích cực của các cơ quan quản lý trong việc hoạch định chính
sách và cải cách hành chính đồng thời Nhà nớc đã ban hành 51 luật, pháp lệnh và
các Nghị định, quyết định, chỉ thị của Chính phủ điều chỉnh và quản lý mọi hoạt
động kinh tế xã hội của đất nớc nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế phát
triển và lành mạnh hoá các quan hệ kinh tế xã hội.
3. Quan điểm của Đảng ta về phát triển kinh tế NQD và các chính sách kinh
tế của Nhà nớc
3.1.Quan điểm của Đảng về phát triển khu vực kinh tế NQD
Nớc ta đi lên CNXH từ một nớc nông nghiệp lạc hậu, các luận điểm của
Mác - Ang ghen - Lênin về thời kỳ quá độ có thể vận dụng vào nớc ta vì giai đoạn
này là giai đoạn Nhà nớc của giai cấp công nhân đang đảm nhận nhiệm vụ lịch sử
phát triển sức sản xuất, một nhiệm vụ đáng lẽ ra giai cấp t bản phải làm. Mặt khác
do lực lợng sản xuất phát triển không đồng đều giữa các ngành, các vùng, vì vậy
tất yếu tồn tại kinh tế NQD.
Tuy nhiên để có đợc nhận thức đúng đắn về sự tồn tại của các thành phần
kinh tế trong thời kỳ quá độ không phải là dễ dàng, đã có thời kỳ ta chủ trơng sớm
xoá bỏ kinh tế NQD bằng làn sóng quốc doanh hóa, hợp tác hoá, tạo nên bức tờng
ngăn cách giữa kinh tế XHCN và kinh tế NQD dẫn đến những hậu quả tiêu cực
làm cho tiềm lực kinh tế của đất nớc không đợc khai thác, lực lợng sản xuất bị
lãng phí, kinh tế bị kìm hãm không phát triển đợc, đời sống nhân dân gặp khó
khăn.
Qua đánh giá quá trình cải tạo các thành phần kinh tế và vận dụng luận
điểm của Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nớc ta. Đại hội đại biểu Đảng
toàn quốc lần thứ VI đã đề ra chủ trơng đổi mới toàn diện và sâu sắc để đi tới
CNXH một cách vững chắc. Trọng tâm là đổi mới kinh tế, mà trớc hết là đổi mới
t duy kinh tế. Điều quan trọng là phải nhận thức và tính toán lại hình thức, và bớc
đi của quá trình cải tạo XHCN, làm sao để phát huy đợc sức mạnh của các thành
phần kinh tế trong công cuộc xây dựng đất nớc giầu mạnh và cái đích vẫn là
CNXH. Từ những phê bình về những biểu hiện nóng vội muốn xoá bỏ ngay các
thành phần kinh tế phi XHCN, từ thực tế của đất nớc và vận dụng quan điểm của
Lênin coi nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc trng của thời kỳ quá độ, Đảng
ta đã đề ra chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác.
Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI đã chỉ ra nhiệm vụ đẩy mạnh cải tạo
XHCN là một nhiệm vụ thờng xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ đi lên
CNXH với những bớc đi thích hợp làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất
và trình độ của lực lợng sản xuất. Cần phải phát huy tác dụng tích cực của cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần.
Đờng lối phát triển kinh tế nhiều thành phần còn đợc tiếp tục xác định tại
Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VII, VIII, IX. Báo cáo chính trị tại Đại
hội Đảng CSVN lần IX khẳng định.
Kinh tế cá thể ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài. Nhà n-
ớc tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển, khuyến khích các hình thức HTX tự
nguyện làm vệ tinh cho các doanh nghiệp phát triển lớn hơn, khuyến khích phát
triển kinh tế t nhân rộng rãi, trong những ngành nghề sản xuất kinh doanh mà
pháp luật không cấm. Tạo môi trờng kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý
để kinh tế NQD phát triển trên những hớng u tiên của Nhà nớc.
Ngoài ra còn nêu rõ ở nớc ta hiện nay có các thành phần kinh tế sau:
+ Kinh tế t bản Nhà nớc.
+ Kinh tế cá thể, tiểu chủ.
+ Kinh tế t bản t nhân.
+ Kinh tế Nhà nớc.
+ Kinh tế Hợp tác.
Thành phần kinh tế Nhà n ớc : là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu
nhà nớc về t liệu sản xuấtchủ yếu, gồm những đơn vị kinh tế mà toàn bộ số vốn
thuộc về Nhà nớc hoặc phần của Nhà nớc chiếm phần khống chế.
Kinh tế quốc doanh hiện nay vẫn giữ vững vai trò chủ đạo trong nền kinh tế
nớc ta, đợc hình thành do Nhà nớc đầu t xây dựng các cơ sở kinh tế trong tất cả
các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, ngoài ra còn đợc hình thành
bằng con đờng quốc hữu hoá các xí nghiệp t nhân.
Thành phần kinh tế tập thể: là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tập thể,
gồm các dơn vị kinh tế do nhũng ngời lao động tự nguyện góp vốn, góp sức kinh
doanh theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, bình đẳng và cùng có lợi.
Hợp tác xã là hình thức chủ yếu của nền kinh tế tập thể, bao gồm hợp tác xã
nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, hợp tác xã mua bán, tín dụng. Những loại hình
hợp tác xã trên đợc hình thành với quy mô và mức độ khác nhau phù hợp với sự
phát triển của lực lợng sản xuất, yêu cầu của sản xuất và đời sống. Xu hớng vận
động và phát triển của kinh tế tập thể theo hớng kinh thành những cơ sở, tổ hợp
kinh tế công nông nghiệp để đi lên sản xuất lớn.
Thành phần kinh tế t bản t nhân : là thành phần kinh tế dựa trên chế độ t hữu
t bản chủ nghĩa và bóc lột lao động làm thuê, mặc dù không còn nguyên nghĩa nh
xã hội cũ. Nó tồn tại trong những ngành có lợi trong quốc kế dân sinh, đợc Nhà n-
ớc khuyến khích, kiểm soát và hớng theo con đờng kinh tế t bản Nhà nớc.
Thành phần này bao gồm các đơn vị kinh tế phần lớn vốn của t nhân (cả
trong và ngoài nớc) đầu t, hoạt động dới hình thức xí nghiệp t doanh, hoặc công ty
cổ phần đợc luật pháp quy định. Thành phần này có u điểm mạnh về vốn, kỹ
thuật, công nghệ, kinh nghiệm và trình độ quản lý. Nó có vai trò to lớn trong việc
phát triển lực lợng sản xuất, giải quyết việc làm, tăng thu nhập kinh tế quốc dân,
nâng cao đời sống.
Thành phần kinh tế cá thể: là thành phần kinh tế dựa trên chế độ t hữu về t
liệu sản xuất và lao động của bản thân ngời sản xuất.
Đặc điểm cơ bản của thành phần kinh tế này là t liệu sản xuất và sức lao
động đợc kết hợp trực tiếp bởi cùng một chủ thể. Mặc dù ngời sản xuất đợc tự do
sản xuất kinh doanh, nhng vẫn chịu tác động trực tiếp của các thành phần kinh tế
khác và của thị trờng. Trong suốt thời kỳ quá độ, đặc biệt chặng đờng đầu, thành
phần kinh tế cá thể có vai trò rất quan trọng trong việc sản xuất dịch vụ, t liệu sinh
hoạt phục vụ đời sống và sản xuất. Kinh tế cá thể tồn tại độc lập, có thể liên doanh
liên kết với các đơn vị kinh tế của các thành phần kinh tế khác bằng nhiều hình
thức, hoặc tham gia hợp tác xã tự nguyện nếu ngời lao động thấy cần thiết.
Thành phần kinh tế t bản Nhà n ớc: là thành phần kinh tế mà chủ thể của nó
là t bản Nhà nớc cùng góp vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh; gồm các đơn vị
kinh tế ở các ngành, các lĩnh vực dới các hình thức công ty hợp doanh, gia công,
thuê tài sản...Có thể khẳng định rằng trong thời kỳ quá độ, đây là hình thức kinh
tế trung gian thích hợp nhất để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nớc ta.
Các thành phần kinh tế cơ bản trên tồn tại trên cơ sở ba loại sở hữu chủ
yếu: sở hữu Nhà nớc, sở hữu tập thể và sở hữu t nhân. Ngoài ra, còn có những
hình thức tổ chức kinh tế hoạt động không thuộc thành phần kinh tế nào nh hình
thức kinh tế hỗn hợp nhiều loại sở hữu công ty, xí nghiệp cổ phần, liên doanh, liên
kết hai bên và nhiều bên giữa các chủ thể, giữa các thành phần kinh tế trong và
ngoài nớc.
Trên giác độ nghiên cứu, có thể phân chia khu vực kinh tế trong nớc thành
hai khu vực nhỏ hơn: khu vực kinh tế quốc doanh và khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh cho phù hợp với những thuật ngữ đang đợc sử dụng phổ biến trong nhiều
văn bản của Nhà nớc và trong các cuộc hội thảo.
Điểm khác biệt căn bản giữa thành phần kinh tế quốc doanh (KTQD) và
thành phần kinh tế NQD là tính chất sở hữu về t liệu sản xuất chủ yếu. Kinh tế
quốc doanh dựa trên sở hữu của Nhà nớc, kinh tế ngoài quốc doanh dựa trên sở
hữu t nhân, sở hữu tập thể, sở hữu hỗn hợp giữa t nhân với tập thể hay giữa các t
nhân với nhau. Đảng và Nhà nớc ta qua các kỳ Đại hội đã khẳng định kinh tế
quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, kinh tế ngoài quốc doanh giữ vai trò mở đuờng
cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nớc trong thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội.
3.2.Các chính sách kinh tế của Nhà nớc để phát triển kinh tế NQD
Quán triệt đờng lối đổi mới kinh tế của Đảng nêu tại đại hội Đảng Cộng
sản Việt nam lần thứ VI, lần thứ VII, lần thứ VIII và Nghị quyết các hội nghị
Trung ơng. Nhà nớc đã nhanh chóng cụ thể hóa thành những chính sách cụ thể và
luật hoá để thực hiện. Trớc hết cần phải đợc thể chế thành điều luật trong hiến
pháp, điều 15 Hiến pháp năm 1992 đã qui định Nhà nớc phát triển kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc, theo định
hớng XHCN. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất,
kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu t
nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng.
Về kinh tế NQD, điều 21 Hiến pháp năm1992 qui định: kinh tế ngoài
quốc doanh đợc chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, đợc thành lập doanh
nghiệp không bị hạn chế về qui mô hoạt động trong những ngành nghề có lợi cho
quốc kế dân sinh. Mục đích chính sách kinh tế của Nhà nớc là làm cho dân giàu,
nớc mạnh đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân.
Chính sách kinh tế của Nhà nớc còn nhằm giải phóng năng lực sản xuất, phát huy
mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nớc.
Bằng các qui định của Hiến pháp, Nhà nớc và xã hội đã chính thức thừa
nhận sự tồn tại của nền kinh tế NQD trong thời kỳ quá độ. Tuy nhiên, nếu chỉ
công nhận khu vực kinh tế NQD tồn tại thôi thì cha đủ mà cần phải định hớng cho
khu vực kinh tế NQD phát triển theo đúng đờng lối của Đảng, đúng mục đích đã
định ra không để kinh tế NQD phát triển tự phát, chệch hớng. Vì vậy cần tiếp tục
thể chế đờng lối của Đảng, Hiến pháp thành những chính sách cụ thể. Trong
những năm qua Nhà nớc đã nghiên cứu, ban hành các chính sách cụ thể tạo hành
lang pháp lý cho kinh tế NQD phát triển, đồng thời liên tục chỉnh lý cho các chính
sách thật phù hợp với đời sống thực tiễn, khơi dậy mọi tiềm năng của khu vực
kinh tế này. Trong các chính sách đó đáng chú ý là:
- Luật Công ty, Luật Doanh nghiệp t nhân đợc Quốc hội thông qua năm
1990 và đợc thay thế bằng Luật doanh nghiệp đợc Quốc hội khoá X thông qua
ngày 16/6/1999 và thống nhất thực hiện từ 1/1/2000.
- Luật doanh nghiệp ra đời qui định việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt
động của các doanh nghiệp. Từ Luật công ty, Luật doanh nghiệp t nhân nay là
Luật doanh nghiệp (Bao gồm các công ty Cổ phần, công ty TNHH, công ty Hợp
doanh và Doanh ngiệp t nhân) vừa thể hiện đợc tính nhất quán của Đảng và Nhà
nớc ta, vừa thể hiện sự phát triển về nhận thức và hành động nhằm khuyến khích
phát triển khu vực kinh tế này. So với Luật công ty, Luật doanh nghiệp t nhân ban
hành trớc đây, Luật doanh nghiệp mới có nhiều sửa đổi bổ xung cho phù hợp với
thực tiễn cuộc sống, tạo môi trờng thoáng cho doanh nghiệp thành lập và hoạt
động nên tuy mới chỉ sau một vài năm đã phát huy những tác dụng to lớn.
- Nghị định của Chính phủ về cá nhân và nhóm cá nhân kinh doanh công
thơng nghiệp dịch vụ: qui định về đăng ký kinh doanh, tổ chức quản lý và hoạt
động của cá nhân và nhóm cá nhân kinh doanh có vốn thấp hơn vốn pháp định để
thành lập doanh nghiệp. Theo Nghị định này mọi cá nhân, nhóm cá nhân có
nguyện vọng sản xuất kinh doanh chỉ thực hiện thủ tục khai báo đơn giản, cơ quan
quản lý Nhà nớc có trách nhiệm phải cấp đăng ký kinh doanh, nếu cá nhân và
nhóm cá nhân kinh doanh những ngành nghề không thuộc loại cấm.
- Ban hành các luật thuế xuất nhập khẩu, thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc
biệt, thuế lợi tức - sau này thuế doanh thu thay thế bằng thuế gía trị gia tăng, thuế
lợi tức thay bằng thuế thu nhập doanh nghiệp, đợc áp dụng thống nhất cho các
thành phần kinh tế.
Việc ban hành các luật thuế áp dụng cho mọi thành phần kinh tế là sự thể
hiện rõ nét nhất tính chất bình đẳng của các thành phần kinh tế trong cạnh tranh.
Trớc năm 1990 nhằm phục vụ công cuộc cải tạo XHCN, Nhà nớc ta áp dụng ba
chính sách thu ngân sách cho ba khu vực khác nhau: Khu vực kinh tế Nhà nớc áp
dụng chính sách thu quốc doanh và phân phối lợi nhuận, khu vực công thơng