Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Luận văn tốt nghiệp “Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (940.31 KB, 108 trang )




---XW---
















Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu
hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ












1

LỜI NÓI ĐẦU

Ngành dệt may là một trong những ngành công nghiệp quan trọng của
Việt Nam có đóng góp đáng kể vào sự phát triển của nền kinh tế. Song, trong
xu thế hội nhập và phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, Việt Nam vẫn
chưa khai thác được hết những tiềm năng và thế mạnh của ngành công nghiệp
này. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, khi Hiệp định thương mại Việ
t - Mỹ
đã có hiệu lực được hơn một năm, quan hệ thương mại giữa hai nước đã có
nhiều thay đổi và sự kiện Trung Quốc gia nhập WTO năm 2001 đã tạo ra một
môi trường cạnh tranh quyết liệt và khó khăn hơn đối với hàng hoá Việt Nam
nói chung và hàng dệt may nói riêng khi thâm nhập vào thị trường Mỹ. Với
hy vọng đóng góp một phần nhỏ vào sự phát triển của ngành dệt may Vi
ệt
Nam, em đã chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng
dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ”, đề cập tới thực trạng và những giải
pháp tổng thể nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị
trường Mỹ trong thời gian tới - một thị trường cạnh tranh gay gắt và có nhiều
qui định pháp lý phức tạp hàng đầu th
ế giới. Trong quá trình nghiên cứu, các
phương pháp được vận dụng tổng hợp là phương pháp thu thập thông tin số
liệu từ các nguồn, nghiên cứu thực tiễn doanh nghiệp và phương pháp chuyên
gia là sự hướng dẫn chuyên môn của giáo viên hướng dẫn.
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận
gồm 3 chương:
- Chương 1: Tổng quan về thị trường hàng dệt may Mỹ và tiềm năng

xuất khẩu hàng d
ệt may Việt Nam.
- Chương 2: Tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị
trường Mỹ trong thời gian qua.


2
- Chương 3 : Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may
Việt Nam sang thị trường Mỹ.
Nhân dịp này, em xin chân thành cảm ơn cô giáo, TS.Vũ Thị Kim
Oanh đã dành nhiều thời gian, tận tình hướng dẫn để em hoàn thành thật tốt
khoá luận tốt nghiệp này. Em cũng xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, các
thầy cô giáo thuộc khoa Kinh tế Ngoại thương, khoa Đào tạo và Bồi dưỡng
Tại chức cùng toàn thể
các thầy cô giáo trong trường đã tạo mọi điều kiện tốt
nhất cho em trong quá trình học tập tại trường.
Sinh viên
Lê Thu Phương




















3

CHƯƠNG 1
: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG HÀNG DỆT MAY MỸ
VÀ TIỀM NĂNG SẢN XUẤT - XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT
NAM.

I/. ĐẶC ĐIỂM THỊ TRƯỜNG HÀNG DỆT MAY MỸ.
1. Qui mô thị trường hàng dệt may Mỹ.
Mỹ là một quốc gia có nền kinh tế phát triển hàng đầu thế giới. Kinh tế
Mỹ đặc biệt phát triển từ năm 1990 trở lại đây. Nếu năm 1992 GDP c
ủa Mĩ
chỉ có 7.100 tỷ USD thì đến năm 1998 là 8.500 tỷ USD, chiếm 21% GDP thế
giới. Với diện tích 9.629,09 km
2
và dân số 278,05 triệu người, Mỹ được xem
là thị trường tiêu thụ hàng dệt may lớn nhất thế giới cả về trị giá lẫn số lượng.
Theo ước tính, tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này vào Mỹ trong giai
đoạn 2002-2005 đạt vào khoảng 70 tỷ USD/năm. Mức tiêu thụ bình quân đầu
người là 27 kg/người/năm. Năm 2000, tổng trị giá nhập khẩu hàng dệt may
vào Mỹ lên tới 76 tỷ USD. Trong năm 2002, do tác
động của sự suy thoái nền
kinh tế Mỹ nói riêng và nền kinh tế thế giới nói chung, giá trị nhập khẩu hàng

dệt may vào thị trường Mỹ đến cuối tháng 3 năm 2002 đã giảm 11% so với
cùng kỳ năm trước nhưng đây vẫn là một trong những mặt hàng nhập khẩu
chủ lực của thị trường Mỹ.
Nhìn chung, người dân Mỹ có xu hướng tiêu dùng ngày càng nhiều các
mặt hàng dệt và may mặc trong
đó nhóm hàng có giá trị tiêu thụ lớn nhất là
quần áo may sẵn, chiếm tỷ trọng 89% kim ngạch hàng dệt may được nhập
khẩu vào Mỹ (tương đương 68 tỷ USD). Nhập khẩu bông, sợi (thực vật và
nhân tạo), vải vóc, nguyên phụ liệu chỉ chiếm 11%, hầu hết là những loại mà
Mỹ không sản xuất hoặc những loại hàng chất lượng cao mua về phục vụ gia
công cho sản xuất trong nước.


4
Có thể nói rằng Mỹ là nước tiêu thụ hàng dệt may nhiều nhất trên thế
giới, và đây là thị trường đầy tiềm năng đối với các quốc gia phát triển cũng
như đang phát triển trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Tuy
nhiên, chiếm lĩnh được thị trường Mỹ là một điều không dễ dàng. Những việc
cần phải làm đối với những nướ
c xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ nói chung
và Việt Nam nói riêng là phải đáp ứng được yêu cầu của người tiêu dùng Mỹ,
thâm nhập và thích nghi với tập quán buôn bán ở Mỹ, nâng cao khả năng cạnh
tranh cũng như phải vượt qua được những rào cản thương mại mà Mỹ đặt ra.
Đó là mục tiêu mà mỗi doanh nghiệp xuất khẩu đều hướng tới nhằm đẩy
mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang th
ị trường Mỹ cũng như khẳng
định vị thế của ngành dệt may Việt Nam .
2. Đặc điểm thị trường tiêu thụ hàng dệt may Mỹ.
Thị trường hàng dệt may Mỹ rất phong phú và đa dạng. Nhu cầu của
người dân có thể được hệ thống hoá thành 3 cấp độ chính: bình dân, trung và

cao cấp. Phục vụ cho nhóm khách hàng bình dân là nhóm hàng giả rẻ được
bán trong các cửa hàng hạ giá (gọi là discounters), thường bán sản ph
ẩm với
nhãn mác riêng của mình, ngoài ra còn một số sản phẩm có thương hiệu riêng
nhưng không nổi tiếng. Nhóm hàng này phục vụ cho tầng lớp người bình dân
có thu nhập thấp hoặc số người lao động là dân cư với điều kiện sống thấp.
Nhãn mác nổi tiếng không phải là mối quan tâm hàng đầu của họ. Điểm nổi
bật ở phân khúc thị trường này chính là làm thế nào để đáp ứng
được nhu cầu
luôn thay đổi của người tiêu dùng ở mức giá thấp nhất có thể.
Hai nhóm hàng còn lại, trung và cao cấp chủ yếu được bán trong các
cửa hiệu sang trọng (đôi khi cũng được bán trong quầy hàng các trung tâm
thương mại) là các mặt hàng giá cao đi đôi với chất lượng. Ngoài ra, một số
đại siêu thị có quầy hàng may mặc cũng kinh doanh hàng hoá và vật liệu với
trữ lượng tương đối lớn.


5
Thị trường Mỹ hiện nay cũng đã bắt đầu phát triển hình thức đặt hàng
qua thư trong hệ thống kinh doanh bán lẻ, ngay cả đối với công ty nhỏ và các
đại gia trong ngành may mặc Mỹ. Hình thức đặt mua trực tuyến cũng đang là
một lĩnh vực kinh doanh mới đối với mặt hàng thiết yếu này.
3. Các kênh phân phối chủ yếu trên thị trường hàng dệt may Mỹ.
Tại Mỹ có rất nhi
ều công ty lớn nhỏ với các kênh thị trường khác nhau.
Đối với các công ty lớn, họ có hệ thống phân phối riêng và tự làm lấy tất cả
các khâu từ nghiên cứu, sản xuất, tiếp thị, phân phối và tự nhập khẩu sản
phẩm về để bán. Các công ty loại này thường tác động mạnh đến các chính
sách của chính phủ. Còn các công ty vừa và nhỏ được sự hỗ trợ từ phía chính
phủ và vận động xung quanh hệ

thống thị trường.
Các công ty vừa và nhỏ có nhiều cách bán hàng nhập khẩu tại Mỹ. Họ
thường nhập khẩu hàng hoá về để bán theo các hình thức phổ biến sau đây:
1. Bán sỉ cho các cửa hàng bán lẻ: Các loại quần áo thời trang đều có thể
bán trực tiếp cho các nhà bán lẻ thông qua các nhà nhập khẩu hay những
người bán hàng có tính chất cá nhân và các công ty nhập khẩu hay các tổ chức
buôn bán hàng hoá chuyên nghiệp. Đây là một trong những cách bán hàng có
hiệu quả
đối với hàng hoá có nhu cầu mạnh, đặc biệt trong trường hợp ngành
hàng đa dạng, có thể đáp ứng được hết các chủng loại có liên quan.
2. Bán cho nhà phân phối: Thay thế cho hình thức bán lẻ, người ta có thể
bán hàng cho các nhà phân phối vì họ có hệ thống phân phối rộng khắp một
khu vực nào đó hoặc nằm trong một nhóm ngành công nghiệp nào đó. Tuy
nhiên, với hệ thống phân phối này, người ta phải chia sẻ bớt một ph
ần lợi
nhuận của mình cho nhà phân phối.
3. Bán trực tiếp cho các nhà công nghiệp: Đây là cách mà các nhà máy,
công xưởng trực tiếp mua hàng của một số thương nhân nhỏ ở nước sở tại khi


6
họ không có điều kiện để mua trực tiếp của các nhà xuất khẩu nước ngoài
hoặc mua qua các nhà nhập khẩu trong nước.
4 Bán sỉ qua đường bưu điện: Đây là phương pháp được sử dụng đối với
một số sản phẩm nhỏ không đắt lắm. Lợi điểm của phương pháp này là không
phải qua khâu trung gian phân phối hay bán buôn. Tuy nhiên, những sản
phẩm hàng dệt may tiêu thụ hàng lo
ạt thường không thích hợp khi sử dụng
phương pháp này.
5. Bán lẻ qua đường bưu điện: Các nhà nhập khẩu sẽ gửi trực tiếp bưu

kiện đến tay người mua mà không cần phải qua khâu trung gian. Song, để
thực hiện một cách có hiệu quả thì công ty phải có hệ thống nghiên cứu thị
trường chuẩn xác và thiết kế thị trường một cách chi tiết.
6. Bán hàng qua catalogue: Một số nhà nhập khẩ
u thường bán hàng qua
các nhà buôn theo kiểu này hoặc trực tiếp lập công ty để bán hàng theo
catalogue. Chìa khoá cho phương thức này là phải biết được địa chỉ của người
hay công ty có nhu cầu thường xuyên về mặt hàng mà mình kinh doanh.
7. Bán lẻ: Nhà nhập khẩu sẽ tự tổ chức việc nhập khẩu và bán lẻ hàng hoá
theo khả năng về thị trường, tài chính của mình và tự gánh chịu mọi rủi ro về
nhu cầu của thị trường, bù lạ
i, họ sẽ thu được toàn bộ lợi nhuận do hoạt động
nhập khẩu mang lại. Hình thức này chứa đựng nhiều rủi ro vì nó đòi hỏi nhà
nhập khẩu phải nắm rõ xu hướng của thị trường, đồng thời phải tiến hành mọi
hoạt động trong các khâu buôn bán và nhập khẩu.
8. Bán hàng qua các cuộc trưng bày hàng hoá trên các kênh truyền hình:
Đây là hình thức mới và có thể áp dụng đối với hàng may mặc thời trang, do
loại hình quảng cáo này dễ dàng thu hút được đông đảo người tiêu dùng.
Phương pháp náy đòi hỏi phải có hàng tức thời và bán theo giá công bố.
9. Bán hàng trực tiếp cho các nhà máy, công xưởng với các điều kiện
tương tự như bán cho các nhà bán lẻ.


7
10. Làm đại lý bán hàng: Đối với những thương nhân hay công ty ở Mỹ có
quan hệ tốt cả hai chiều với thương nhân, các nhà xuất khẩu nước ngoài và hệ
thống bán buôn, bán lẻ trong nước thì họ thường đứng ra làm đại lý cho bên
nước ngoài. Điểm thuận lợi là ở chỗ họ không phải đảm nhận vấn đề tài chính
cho kinh doanh. Điều khoản L/C chuyển nhượng có thể giúp giải quyết được
đ

iều này.
11. Bán hàng qua buổi giới thiệu bán hàng (Ball Imports Party): Một số
nhà nhập khẩu mua một lượng nhỏ hàng hoá về và mời những người thân
quen đến dự buổi giới thiệu bán hàng tại chỗ. Cũng có trường hợp những nhà
nhập khẩu sẽ trả hoa hồng cho những người đứng ra tổ chức và giới thiệu bạn
hàng cho họ.
12. Bán ở chợ ngoài trời (Flea Market): Cách thức này đòi h
ỏi công ty phải
có quan hệ rộng với những người bán ở nhiều nước khác nhau và phải trả một
phần lợi tức cho người bán hàng, đồng thời phải đặt giá trực tiếp đến người
tiêu dùng.
13. Bán hàng qua các hội chợ, triển lãm tại Mỹ: Có những công ty mua
hàng về kho của mình và quanh năm đi tham dự các hội chợ triển lãm trên
khắp mọi miền đất nước để tìm kiếm các đơn đặ
t hàng tại quầy rồi gửi hàng
cho người mua qua bưu điện hoặc phát chuyển nhanh. Cách này chỉ mới có
thể vận dụng ở qui mô nhỏ với hàng đặc chủng, hàng mới và giá cao.
14. Cuối cùng là bán hàng qua Internet như Amazon.com.
Nghiên cứu hệ thống phân phối ở Mỹ sẽ giúp các nhà xuất khẩu hàng
dệt may vào thị trường này có khái niệm chung về cách thức buôn bán, nhập
khẩu hàng hoá vào Mỹ và cách đưa hàng đến tay người tiêu dùng. Đối vớ
i
từng loại sản phẩm trong từng điều kiện cụ thể, các nhà xuất khẩu sẽ cân nhắc
giữa các cách thức trên và lựa chọn hệ thống phân phối sao cho phù hợp với
sản phẩm và đặc điểm riêng của doanh nghiệp mình.


8
4. Tình hình cạnh tranh trên thị trường hàng dệt may Mỹ.
Mỹ là một thị trường rất lớn với nhiều tác nhân tham gia nên cạnh tranh

diễn ra rất gay gắt. Làm thế nào để tạo được chỗ đứng trên thị trường Mỹ là
một vấn đề được đặt ra với tất cả các doanh nghiệp muốn xuất khẩu hàng hoá
sang thị trường này. Vì vậy, việc tìm hiểu một số nước nhập khẩ
u chủ yếu của
Mỹ sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về áp lực cạnh tranh trên thị trường Mỹ nói
chung và thị trường hàng dệt may nói riêng.
Hiện nay hai nước trong khối NAFTA (Mexico, Canada) vẫn là hai đối
tác nhập khẩu chính của Mỹ, chiếm tới 50% giá trị nhập khẩu vào Mỹ, tiếp
đến là Trung Quốc với kim nghạch xuất khẩu sang Mỹ năm 2001 đạt 136
triệu USD, tăng 21,4% so với năm 2000 (112 triệu USD). Tính đến tháng
3/2002, nh
ập khẩu hàng dệt may từ Trung Quốc vào Mỹ tăng 20% và là một
trong hai nước có mức tăng lớn, trong đó Hàn Quốc tăng 3,61% cùng kỳ
tương ứng. Việc nhập khẩu từ Trung Quốc tăng xuất phát từ vấn đề điều tiết
chung trong quan hệ song phương về dệt may giữa Trung Quốc và Mỹ.
Bên cạnh đó trong khuôn khổ chiến lược phát triển hợp tác kinh tế giữa
Mỹ và các n
ước vùng vịnh Caribê, một số hàng dệt may từ vùng vịnh Caribê
và Châu Phi được hưởng chế độ ưu đãi phi hạn nghạch và không thu thuế
nhập khẩu từ năm 2000. Đó là nguyên nhân thu hút khá nhiều nhà đầu tư và
khách hàng vào khu vực này. Hội nghị 34 nước Châu Mỹ đã thống nhất thành
lập khối mậu dịch tự do Châu Mỹ (FTAA) có hiệu lực từ năm 2005 sẽ làm
cho khả năng nhập khẩu hàng dệt may t
ừ các nước Châu Á trong đó có Việt
Nam bị thu hẹp.
Điểm qua một số nước xuất khẩu chính hàng dệt may sang thị trường
Mỹ, vị trí và những điểm mạnh mà những quốc gia này đang khai thác sẽ giúp
tìm kiếm những giải pháp nhằm tối ưu hoá việc xuất khẩu hàng dệt may Việt
Nam sang thị trường này.



9
1. Mexico luôn đứng đầu về xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường Mỹ.
Rất nhiều nhà đầu tư Mỹ đã đầu tư vào ngành may ở nước này để tận dụng
nguồn nhân công rẻ, địa điểm gần Mỹ và nằm trong Khu vực Thương mại Tự
do Bắc Mỹ (NAFTA).
2. Sau đó là Trung Quốc đứng thứ hai về xuất khẩu hàng may mặc sang thị
trường Mỹ. L
ợi thế lớn nhất của quốc gia này là giá nhân công và được các
nhà đầu tư quan tâm nhiều sau khi gia nhập WTO. Hàng xuất khẩu Trung
Quốc sang Mỹ ngày càng tăng và Trung Quốc đang trở thành một đối thủ
đáng gờm của những nước muốn xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ.
3. Onđurat là một quốc gia tuy dân số không đông nhưng đứng thứ tư về
xuất khẩu hàng may mặc sang Mỹ - đó là nhờ thoả
thuận thương mại song
phương và ưu thế nằm gần Mỹ nên giảm được chi phí vận chuyển.
4. Ấn Độ đứng thứ tám về xuất khẩu hàng may mặc sang Mỹ vì nước này
biết khai thác thế mạnh về nguồn lao động dồi dào để tạo lợi thế cạnh tranh về
giá, lập riêng Bộ dệt may để chuyên trách về công tác thị trường. Ngoài ra
còn có Viện thời trang quốc gia hỗ trợ
cho việc thiết kế mẫu mã và nắm bắt
nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng. Tuy nhiên, thị phần hàng may mặc của
Ấn Độ tại Mỹ chưa thật ổn định.
5. Đứng thứ 11 về xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ là Thái Lan
với thị phần khoảng 3%. Song Mỹ lại là thị trường số một, nhập 55,7% hàng
may mặc xuất khẩu của Thái Lan.
6. Xuấ
t khẩu hàng may mặc của Pakixtan vào thị trường Mỹ thời gian gần
đây có chiều hướng liên tục tăng, đáng lưu ý là thái độ hợp tác toàn diện của
Pakixtan với Mỹ ở cuộc chiến Apganixtan nên được Mỹ dành cho những ưu

đãi về thuế quan.
7. Đôminica là nước tiếp nhận di chuyển địa điểm gia công của các nhà
sản xuất hàng may mặc Mỹ. Hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ được hưở
ng qui chế


10
ưu đãi về thuế quan, đặc biệt với những mặt hàng dùng nguyên liệu là vải sản
xuất ở Mỹ.
8. Đứng đầu trong các nước ASEAN về giá trị hàng may mặc xuất khẩu
vào Mỹ là Indonexia với lợi thế về nhân công và nguyên liệu.
Thực tế cho thấy thâm nhập vào thị trường Mỹ là một điều không dễ
dàng nên mỗi quốc gia phải biết tận dụng những ư
u thế riêng của mình, biết
kết hợp nội lực và ngoại lực để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thế giới
đang có nhiều biến động. Chính vì thế việc tìm hiểu hệ thống pháp lý cũng
như những qui định tiêu chuẩn đối với hàng hoá xuất khẩu vào Mỹ sẽ hỗ trợ
cho quá trình đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá sang thị trường này một cách hiệu
quả.
5. Những qui định pháp lý đối với hàng dệt may nhập khẩu vào Mỹ.
Hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ được kiểm soát rất chặt chẽ bởi một hệ
thống luật pháp tương đối hoàn bị, nếu không nói là phức tạp. Một số hàng
hoá bị cấm nhập hoặc hạn chế nhập khẩu để bảo vệ lợi ích kinh tế và an ninh
quốc gia, bảo đảm an toàn, vệ sinh cho người tiêu dùng, bả
o vệ môi trường,...
một số hàng phải xin hạn ngạch hoặc visa nhập khẩu và phải tuân thủ những
qui định về nhãn mác, những qui chế đối với sản phẩm hoặc chịu sự điều tiết
của những Hiệp định thương mại song phương và đa phương. Nhiều mặt hàng
còn phải tuân theo những yêu cầu khác của hải quan, các luật lệ và qui định
của các cơ

quan Chính phủ. Các luật lệ và qui định này có thể cấm nhập, giới
hạn nhập vào một số cửa khẩu nhất định, qui định vận chuyển theo tuyến và
nơi lưu kho nhất định, yêu cầu xử lý, dán nhãn lại hoặc tái xử lý trước khi
được làm thủ tục hải quan và nhận hàng. Chính sự phức tạp này đã gây không
ít khó khăn cho các nước muốn xuất khẩu hàng sang Mỹ. Hàng dệt may với
kim ngạch 70 t
ỷ USD là một trong những mặt hàng chịu sự điều tiết của khá
nhiều các biện pháp quản lý cũng như các qui chế pháp lý của chính phủ Mỹ.


11
Trong khuôn khổ mối quan hệ thương mại song phương Việt - Mỹ, ngoài
những qui định chung đối với hàng dệt may nhập khẩu vào Mỹ còn những
tiêu chuẩn và biện pháp quản lý áp dụng riêng đối với hàng dệt may Việt Nam
xuất khẩu sang thị trường này. Đây là điều mà các doanh nghiệp Việt Nam
cần quan tâm nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu sang thị trường Mỹ.
5.1. Các biện pháp quản lý nhập khẩu c
ủa Mỹ đối với hàng dệt may.
5.1.1. Nhóm các biện pháp thuế quan.

Thuế quan là biện pháp quản lý nhập khẩu đầu tiên và cơ bản nhất. Mọi
hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ sẽ bị đánh thuế hay được miễn thuế theo phân
loại trong biểu thuế nhập khẩu HTS của Mỹ (Harmonized Tarrif System of
the U.S - HTUSA). Hệ thống phân loại mức thuế này sử dụng một hệ thống
mã số quốc tế tiêu chuẩn gồm 6 chữ số để xác định loại hàng hoá.
M
ặc dù đã thực hiện việc giảm mức thuế nhập khẩu theo thoả thuận
vòng đàm phán Uruguay và theo xu thế tự do mậu dịch trên toàn thế giới
nhưng Mỹ vẫn là một trong những nước áp dụng mức thuế nhập khẩu cao đối
với nhiều hàng khác nhau trong đó có hàng dệt may. Từ sau khi Hiệp định

thương mại Việt - Mỹ chính thức có hiệu lực, hàng hoá Việt Nam xuất khẩu
sang M
ỹ được hưởng qui chế tối huệ quốc (MFN), do đó thuế suất đã giảm từ
40% xuống còn 4%.
Ngoài hệ thống thuế quan thông thường, Mỹ còn áp dụng nhiều loại
hình thuế khác đối với hàng hoá xuất khẩu trong đó có thuế chống bán phá giá
và thuế đối kháng.
Những hàng hoá nhập khẩu được kết luận là bán phá giá hay được bù
giá sẽ phải chịu một mức thuế suất nhất đị
nh theo qui định của chính phủ Mỹ
để ngăn chặn tình trạng cạnh tranh không lành mạnh gây thiệt hại cho nền
kinh tế Mỹ.
5.1.2. Nhóm các biện pháp phi thuế quan.



12
a/. Hạn ngạch nhập khẩu.
Nhìn chung, Mỹ không có giới hạn về hạn ngạch trừ phi trong một
Hiệp định hàng dệt may có qui định về hạn ngạch. Tuy nhiên, Luật thương
mại Mỹ cho phép chính phủ Mỹ đơn phương áp đặt các hạn ngạch mang tính
hành chính đối với các loại hàng dệt may. Có hai loại hạn ngạch: Hạn ngạch
tuyệt đối và hạn ngạch tính theo thuế suất.
* Hạn ng
ạch tuyệt đối: Là hạn ngạch hạn chế về số lượng nên trong suốt
thời gian áp dụng hạn ngạch, chỉ một số lượng hàng hoá đã được ấn định mới
được phép nhập khẩu. Một số hạn ngạch tuyệt đối được áp dụng trên toàn thế
giới, còn một số chỉ áp dụng đối với một vào quốc gia nào đó. Số hàng nhập
kh
ẩu nào vượt hơn hạn ngạch sẽ bị giữ lại tại một khu “ngoại thương” để bổ

sung cho phần hạn ngạch sau đó hoặc được đưa vào khu ngoại quan hoặc
cũng có thể bị trả về, hoặc tiêu huỷ dưới sự giám sát của hải quan. Các Hiệp
định về hàng dệt may có qui định gia tăng hạn ngạch theo từng thời điểm.
* Hạn ngạ
ch tính theo thuế suất: Áp dụng cho một số lượng hàng nhập
khẩu được qui định với mức thuế thấp trong một thời hạn nào đó. Không có
giới hạn về số lượng hàng nhập khẩu trong suốt thời hạn này nhưng nếu hàng
nhập khẩu vượt quá số lượng cho phép hưởng mức thuế thấp thì số hàng dư
đó sẽ phải chịu mức thuế suất cao h
ơn.
b/. Visa đối với hàng dệt may.
Hàng dệt may cần có “visa” mới được nhập khẩu vào Mỹ. Một visa
hàng dệt may là dấu xác nhận trên một hoá đơn hoặc “một giấy phép kiểm
soát nhập khẩu” do chính phủ nước ngoài cấp được dùng để kiểm soát việc
xuất khẩu hàng dệt may và sản phẩm từ hàng dệt từ nước ngoài vào Mỹ. Một
visa hàng dệt may có thể bao gồm hàng có hạn ngạch hoặc không có hạ
n
ngạch. Trong đó hàng dệt có hạn ngạch có thể cần hoặc không cần visa tuỳ
thuộc vào nước xuất xứ. Tuy nhiên, một visa hàng dệt may không đồng nghĩa


13
là một sự bảo đảm cho việc nhập khẩu vào Mỹ. Nếu thời gian hạn ngạch
chấm dứt mà visa cho hàng dệt may được cấp sau đó bởi chính phủ nước
ngoài và hàng đã nhập vào Mỹ thì lô hàng này sẽ không được giải phóng cho
nhà nhập khẩu cho đến khi hạn ngạch mới được cấp phép.
c/. Qui định về nhãn mác sản phẩm.
Luật áp dụng chủ yếu về nhãn hàng hoá đối với hàng dệt may nh
ập
khẩu vào Mỹ là Luật xác định sản phẩm sợi dệt. Trừ một số trường hợp ngoại

lệ, tất cả các sản phẩm sợi, dệt khi nhập vào Mỹ đều phải được đóng dấu,
niêm phong kín và ghi nhãn hoặc ghi những thông tin sau: tên riêng các loại
sợi và tỷ lệ phần trăm trọng lượng của các chất sợi trong sản phẩm, tên của
nhà sản xuất hoặc tên hay s
ố đăng ký “chứng minh” của một hay nhiều người
phụ trách tiếp thị hoặc điều hành sản phẩm sợi dệt do Uỷ ban Thương Mại
Liên Bang Hoa Kỳ cấp, tên quốc gia nơi sản phẩm được gia công hoặc sản
xuất . Ngoài ra đối với chuyến hàng sợi, dệt có giá trị trên 500 USD thì trên
hoá đơn thương mại phải ghi những thông tin sau: chất liệu sợi hoặc tổng hợp
các sợi, xác
định theo tên chủng loại cho mỗi loại sợi thiên nhiên hoặc sợi sản
xuất (nhân tạo) theo thứ tự tỷ lệ trọng lượng từ thấp đến cao nếu loại sợi đó có
trọng lượng từ 5% hoặc hơn trong tổng trọng lượng sản phẩm, tỷ lệ trọng
lượng của mỗi loại sợi có trong sản phẩm, tên hoặc đặc điểm nhận d
ạng khác
của nhà sản xuất hoặc của một hay nhiều người theo qui định phần 3 của Luật
xác định sản phẩm sợi dệt được cấp và đăng ký tại Uỷ ban Thương Mại Liên
Bang Hoa Kỳ, ký tên của quốc gia gia công hay sản xuất.
Luật xác định sản phẩm sợi dệt cũng qui định các chi tiết như : loại
nhãn hàng hoá, cách thức gắn, vị trí của nhãn hàng hóa trên sản phẩm và nhãn
hiệ
u trên bao bì.
d/. Qui định về chất lượng, tiêu chuẩn sản phẩm (ISO, SA 8000, tiêu chuẩn
hàng dễ cháy).


14
Thị trường Mỹ cũng đặt ra hàng loạt những tiêu chuẩn và qui định về
chất lượng sản phẩm nhập khẩu vào Mỹ, phổ biến là tiêu chuẩn chất lượng
ISO (9000,14000). Hệ thống tiêu chuẩn chất lượng ISO đặt ra những chuẩn

mực về quản lý chất lượng sản phẩm nhằm đảm bảo sản phẩm tiêu thụ trên thị
trường phù hợp với nhữ
ng qui định được đề cập theo từng chuẩn mực ISO mà
doanh nghiệp đăng ký chứng nhận. Ngoài ra, tiêu chuẩn ISO 14000 còn đưa
ra những yêu cầu về môi trường, theo đó, các doanh nghiệp sản xuất phải đảm
bảo tuân thủ những yêu cầu nhất định về môi trường thì sản phẩm được tiêu
thụ mới được xem là đảm bảo chất lượng.
5.2. Các vấn đề luật pháp liên quan đến hàng dệt may nhập khẩ
u vào
thị trường Mỹ.
Trong môi trường kinh doanh hiện nay, việc nắm bắt thông tin cơ bản
về các vấn đề luật pháp liên quan tới xuất nhập khẩu sẽ góp phần đáng kể tạo
nên sự thành công của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp trang bị nguồn thông
tin phù hợp với nhu cầu, đồng thời giảm các chi phí có liên quan đến luật
pháp khi phải tham kiến các cơ quan có liên quan. Dưới đây là một số vấn đề
luậ
t pháp Hoa Kỳ mà các nhà xuất khẩu cần biết và thường gặp.
5.2.1. Luật pháp về bảo hộ sở hữu trí tuệ.

Các công ty và cá nhân ngày càng có nhiều nhận thức về các giá trị
được gọi là tài sản vô hình. Nó bao gồm: các phát minh, tên và mẫu mã nhãn
mác, mẫu mã sản phẩm và kiểu dáng thương mại, bí mật thương mại và bản
quyền. Loại hình tài sản này ngày càng trở nên quan trọng đối với công việc
kinh doanh và đối với các giao dịch thương mại lớn và có lợi nhuận.
Một yếu tố quan trọng trong việc bảo vệ tài sản vô hình đó là Luật sở
h
ữu trí tuệ. Luật này được sử dụng nhằm bảo vệ các tài sản vô hình để duy trì
và nâng cao giá trị của hoạt động kinh doanh và các lợi ích thương mại của
doanh nghiệp. Nó là vấn đề sống còn không chỉ trong các giao dịch thương



15
mại đặc biệt mà cả trong cơ chế xây dựng giá trị với cái nhìn mở rộng và
mong muốn tiếp tục phát triển. Nếu không có các phương pháp bảo vệ thích
hợp đối với các giá trị này thì lợi thế thương mại sẽ bị mai một nhanh chóng
thậm chí trước khi chúng ta nhận ra. Luật sở hữu trí tuệ ra đời nhằm bảo vệ
cho những giá trị vô hình đó, trong đó các nhà xuất nhập khẩ
u hàng dệt may
quan tâm nhất đến luật về nhãn hiệu thương mại.
Luật nhãn hiệu thương mại - Trademark Laws cung cấp một chức năng
quan trọng trong việc bảo vệ giá trị của logo/nhãn mác của công ty hoặc cá
nhân. Vai trò quan trọng của các luật về nhãn hiệu thương mại hiện nay trong
việc bảo vệ nhãn mác của các công ty là chống lại sự lạm dụng hoặc giả mạo
của các đối thủ c
ạnh tranh. Vì vấn đề nhãn mác ngày càng trở nên quan trọng
nên vai trò của Luật về nhãn hiệu thương mại trở thành trọng tâm của các
chiến lược kinh doanh. Tại nhiều nước như Mỹ, việc bảo vệ nhãn mác thương
mại được qui định trong các luật riêng và cả trong các luật chung. Các hình
thức bảo vệ được qui định và quyền của đối tượng sở hữu nhãn mác sẽ phụ
thuộc vào nhiều yếu tố bao g
ồm việc các nhãn mác có đăng ký hay không.
5.2.2. Quy định về luật xuất xứ của Mỹ.

Ngày 30/6/1996, Mỹ đã thay đổi qui định trước kia rằng khâu cắt cũng
liên quan đến xuất xứ. Luật mới qui định việc may ghép là tiêu chuẩn chính.
Trên thực tế, có 6 qui định xác nhận nước xuất xứ của các loại hàng dệt may
khác nhau.
Tuy nhiên trên thực tế vẫn diễn ra tình trạng chuyển tải bất hợp pháp
làm sai lệch xuất xứ sản phẩm. Hải quan Mỹ hết sức cảnh giác với những d
ấu

hiệu chuyển tải bất hợp pháp và sẽ tiến hành kiểm tra đối với những trường
hợp khả nghi nhằm đảm bảo tính công minh và tuân thủ một cách tuyệt đối
mọi qui định của pháp luật.


16
Việc xác định xuất xứ của hàng hoá dựa trên tờ khai xuất xứ đính kèm
với mọi lô hàng nhập khẩu vào Mỹ nộp cho hải quan ngay khi hàng nhập vào.
Nhưng nếu thông tin trên tờ khai không đầy đủ thì Hải quan có quyền yêu cầu
cung cấp thêm thông tin cần thiết, và lô hàng sẽ không được giải phóng cho
đến khi việc xác định được thực hiện xong. Tờ khai này phụ thuộc vào tính
chất của việc nhập khẩu và được chia làm 3 loạ
i: tờ khai xuất xứ đơn, tờ khai
xuất xứ kép và tờ khai phụ.
5.2.3. Luật thuế bù giá và thuế chống bán phá giá.

* Luật thuế bù giá hay còn gọi là luật thuế đối kháng (CVD): Được
dùng để làm vô hiệu hoá ưu thế cạnh tranh không bình đẳng của nhà sản xuất,
xuất khẩu nước ngoài với nhà sản xuất, xuất khẩu Mỹ nhờ có trợ cấp. Thuế
đối kháng được đánh đúng bằng trị giá tịnh của phần trợ cấp và được thu khi
nhập khẩu vào Mỹ nếu thoả mãn 2 đi
ều kiện: Một là Bộ Thương mại Mỹ phải
làm rõ là có trợ cấp đối kháng, trực tiếp hay gián tiếp, liên quan đến sản xuất,
xuất khẩu của nhóm, loại hàng nhập khẩu được bán vào Mỹ và phải xác định
trị giá của phần trợ cấp tịnh. Hai là, Uỷ ban Thương mại Mỹ phải xác định
được là nghành công nghiệp nước mình bị thiệt hại vật chất, hoặc có nguy cơ
bị thiệt hại vật chất. Luật được áp dụng cho nhập khẩu từ các nước WTO hoặc
các nước mà Mỹ có Hiệp định MFN vô điều kiện.
* Luật thuế chống bán phá giá (AD): Bán phá giá nói chung là một hình
thức phân biệt giá quốc tế, theo đó hàng được bán ở một nước với giá thấp

hơn của mặt hàng tương tự tại nước xuất khẩu hoặc ở thị trườ
ng xuất khẩu
khác của nước xuất khẩu đó hoặc thấp hơn giá cần thiết để thu hồi chi phí sản
xuất (bán dưới giá thành) hòng triệt tiêu đối thủ cạnh tranh trên cùng một mặt
hàng. Nếu được xác định rằng hàng nhập khẩu có hành vi bán phá giá gây
thiệt hại cho ngành sản xuất Mỹ thì lô hàng nhập khẩu sẽ phải chịu một hình
phạt bằng thuế chống phá giá. Luật này qui định các qui trình, thủ tụ
c tiến


17
hành các bước xác định thiệt hại, các cơ quan chức năng có liên quan đến thuế
đối kháng và bán phá giá, thời hạn tố tụng,...
5.2.4. Các hiệp định thương mại song phương và đa phương.

Cùng với hệ thống luật thương mại điều chỉnh các mối quan hệ thương
mại, tại Mỹ ngày càng có sự ảnh hưởng lớn và ngày càng tăng của các Hiệp
định thương mại đa phương khu vực, và nhất là của WTO. Đối với từng mặt
hàng cụ thể cũng có những qui định riêng, và các doanh nghiệp khi xuất khẩu
hàng hoá vào Mỹ cần tìm hiểu chi tiết những qui định
đó nhằm đảm bảo sự
tuân thủ về mặt luật pháp cũng như khai thác được những ưu đãi đối với
những mặt hàng nhất định mà Mỹ dành cho một nước.
Bên cạnh Hiệp định của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và Hiệp
định thương mại song phương Việt - Mỹ là hai văn bản pháp lý điều tiết vấn
đề xuất nh
ập khẩu vào Mỹ đối với nhiều mặt hàng, Mỹ còn ký các Hiệp định
thương mại song phương và đa phương khác trong khuôn khổ hội nhập quốc
tế và khu vực như : Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương
(APEC), Hiệp định tự do thương mại Bắc Mỹ (NAFTA),... Các Hiệp định

thương mại ngày càng có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động thương mại
gi
ữa Mỹ và các quốc gia khác trên thế giới. Do đó, mỗi doanh nghiệp, mỗi
quốc gia, cần nghiên cứu ở tầm vi mô cũng như vĩ mô để có những chiến lược
và chiến thuật kinh doanh phù hợp, tận dụng được lợi thế trong thương mại
quốc tế và đáp ứng được những yêu cầu mà thị trường này đặt ra.
II/. TIỀM NĂNG SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY
VI
ỆT NAM.
Trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, các nước phải
tìm ra các biện pháp thích hợp để thúc đẩy nền kinh tế nước mình phát triển,
đặc biệt là thông qua xuất khẩu hàng hoá. Việt Nam là một quốc gia đang
phát triển nhưng có những tiềm lực nhất định trong một số ngành công


18
nghiệp, đặc biệt là trong công nghiệp dệt may. Nếu có những biện pháp phù
hợp để khai thác tốt những tiềm lực này sẽ mang lại lợi thế lớn cho Việt Nam
khi xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ.
1. Dệt may là một trong những ngành nghề truyền thống của Việt
Nam.
Ngành dệt may đã xuất hiện ở Việt Nam hơn nửa thế kỷ qua. Lịch sử
từ
ng ghi lại không ít những triều đại Việt Nam đã dùng nhiều loại vải quí đem
cống nạp sang đất nước Trung Hoa, và cho đến nay, một số làng nghề truyền
thống cổ như Vạn Phúc (Hà Tây), Triều Khúc (Hà Nội), Làng Mèo (Thái
Bình) vẫn tồn tại và phát triển.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, ngành dệt may Việt Nam phát triển
mạnh mẽ, đặc biệt là ở miền Nam với những thiết bị công nghệ tiên tiế
n từ

Châu Âu và ở miền Bắc là công nghệ từ Trung Quốc, Liên Xô cũ và các nước
Đông Âu. Năm 1975, sau khi hoà bình lập lại, dưới chủ trương đổi mới của
Đảng và Nhà nước, ngành dệt may càng phát triển hơn nữa và giữ vai trò
quan trọng trong sản xuất công nghiệp ở Việt Nam.
Hiện nay, những sản phẩm dệt và may mặc Việt Nam đã được tiêu thụ
ở rất nhiều quốc gia trên thế giới như
Nhật Bản, các nước EU, Mỹ và nhiều
nước khác trong các khối Đông Âu và Nga. Điều này cũng góp phần chứng
minh rằng yếu tố truyền thống là một lợi thế để phát triển ngành dệt may Việt
Nam trong thời gian tới.
2. Tiềm năng về nguồn nhân lực.
Theo thống kê năm 2001, dân số Việt Nam vào khoảng 78 triệu người,
trong đó số người trong độ tuổi lao động chiếm khoảng 35% (t
ương đương
27,3 triệu người). Với nguồn nhân lực dồi dào cùng với việc sử dụng lao động
hợp lý sẽ tạo điều kiện thuận lợi để phát triển ngành dệt may Việt Nam.


19
Mặt khác, giá lương công nhân dệt may của Việt Nam thấp hơn nhiều
so với nhiều quốc gia trên thế giới.
Bảng 1: Lương công nhân ngành dệt may ở Việt Nam và một số
nước trên thế giới:
Đơn vị tính: USD/giờ
Nhật Pháp Mỹ Anh Đài
Loan
Hàn
Quốc
Hongkong Singapore
16,31 12,63 10,33 10,16 5 3,6 3,39 3,16


Malaysia Thái Lan Philippin
e
Ấn Độ Trung
Quốc
Indonesia Việt Nam
0,95 0,87 0,67 0,54 0,34 0,23 0,18

Đây là một lợi thế để phát triển nghành dệt may Việt Nam vì một số
nước trong khu vực ASEAN và nhiều nước khác vẫn nhập khẩu hàng dệt may
Việt Nam nên với giá nhân công rẻ hơn, hàng Việt Nam có có lợi thế cạnh
tranh hơn so với hàng của các nước khác. Tuy nhiên điều quan trọng là phải
nâng cao năng suất lao động và tay nghề của công nhân để tăng cường tính
cạnh tranh hơn nữa.
3. Khuynh hướng chuyể
n dịch ngành dệt may từ các nước phát triển
sang các nước đang phát triển.
Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc kế thừa những thành
tựu từ những quốc gia công nghiệp phát triển. Sự chuyển dịch nghành dệt
may từ các nước phát triển sang những nước đang phát triển, nơi có lợi thế
hơn về lực lượng lao động và chi phí nhân công đã mở ra những cơ
hội cho sự
phát triển nghành công nghiệp này ở Việt Nam. Nhưng điều này không có
nghĩa là nghành dệt may không còn tồn tại ở các nước phát triển mà nó sẽ tiến


20
lên một mức độ cao hơn với những sản phẩm có chất lượng cao và hàm lượng
công nghệ trong giá trị hàng hoá cũng cao hơn. Ngành dệt may thế giới xuất
hiện sớm nhất ở Anh vào cuối thế kỷ 18 và cũng là lần chuyển dịch thứ nhất

từ Anh sang những quốc gia khác ở Châu Âu. Lần chuyển đổi thứ hai từ Châu
Âu sang Nhật Bản vào năm 1950. Từ những năm 60, khi chi phí sả
n xuất ở
Nhật Bản rất cao và nguồn nhân lực bị thiếu hụt, nghành dệt may lại chuyển
đổi lần thứ ba từ Nhật Bản sang những nước công nghiệp mới Châu Á (NIC
S
)
như HongKong, Đài Loan, Hàn Quốc. Đến năm 80, khi những quốc gia Đông
Á tập trung vào sản xuất những sản phẩm công nghệ cao như ôtô, điện tử,...
thì lợi thế so sánh về nhân công và chi phí đã mất đi, đồng thời do sự tăng tốc
vốn đầu tư nước ngoài nên các nước NIC
S
và các nước phát triển khác buộc
phải chuyển dịch ngành dệt may sang các quốc gia đang phát triển như
ASEAN, Trung Quốc và các nước Nam Á.
Đây là một quá trình chuyển đổi có lợi cho ngành dệt may Việt Nam.
Khai thác được tối đa xu hướng này sẽ mang lại cho Việt Nam nhiều cơ hội
để phát triển.
4. Khả năng thu hồi vốn nhanh, không đòi hỏi vốn đầu tư lớn và trình
độ công nghệ tinh vi.
Ngành dệt may là một ngành công nghiệp nh
ẹ nên so với những ngành
công nghiệp khác như công nghiệp nặng thì tỷ lệ vốn đầu tư thấp hơn rất
nhiều, chỉ bằng 1/10 ngành năng lượng, 1/15 ngành cơ khí và 1/20 ngành
luyện kim. Mặt khác hàng dệt may là hàng tiêu dùng ngắn hạn nên thời gian
thu hồi vốn của ngành cao hơn nhiều các ngành công nghiệp khác. Đối với
ngành dệt, thời gian thu hồi vốn từ 12 đến 15 năm, ngành may từ 5 đến 7 năm
trong khi những ngành công nghiệp khác phả
i mất trên 15 năm, thậm chí hàng
chục năm như ngành sản xuất thép.



21
So với các ngành sản xuất hàng tiêu dùng, để tạo ra một chỗ làm mới,
ngành dệt chỉ cần đầu tư 15.000 USD và ngành may cần khoảng 1.000 USD,
trong khi đó, mức độ vốn đầu tư cho ngành giấy phải lên đến gần 30.000 USD
(theo bài nghiên cứu "Ngành dệt may Việt Nam: Chính sách phát triển trong
bối cảnh hội nhập quốc tế" do nhóm nghiên cứu Việt - Nhật và nhóm chuyên
gia Nhật trình bày trong cuộc hội thảo ngày 8-9/2000 tại Hà Nội)
Mặt khác, cũng do không
đòi hỏi công nghệ quá phức tạp nên lao động
trong ngành dệt may dễ đào tạo nên dễ dàng trong việc sản xuất theo mô hình
các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đây chính là tiềm năng để phát triển sản xuất
hàng dệt may Việt Nam trong thời gian tới.
5. Nhà nước ban hành nhiều đường lối, chính sách thuận lợi cho sự
phát triển của ngành dệt may Việt Nam.
Trước hết, ngành dệt may được xem là một trong những ngành công
nghiệp then chố
t, đóng vai trò quan trọng trong công cuộc CNH-HĐH đất
nước. Có thể khẳng định như vậy, vì như đã phân tích ở trên, Việt Nam có
những lợi thế và cơ sở nhất định để phát triển ngành công nghiệp truyền thống
này trên cơ sở tiếp nhận công nghệ chuyển giao từ những quốc gia phát triển
hơn, cũng như được hỗ trợ về mặt tài chính và học hỏi cách thức thâm nh
ập
thị trường. Hàng loạt chính sách ra đời nhằm kích thích sự phát triển lĩnh vực
này. Thực tế cho thấy, tổng vốn đầu tư dành riêng cho Tổng công ty dệt may
trong 5 năm (1995-2000) là 3.504 tỷ đồng, nâng mức tăng trưởng trung bình
hàng năm từ 5,2% lên 13,3% (Theo Thời báo kinh tế Việt Nam - số 120 ngày
30/10/02).
Thứ đến là chính sách phát triển nền kinh tế đa thành phần cũng tạo

điều kiện thuận lợi để
huy động mọi nguồn lực trong lẫn ngoài nước đầu tư
vào ngành dệt may Việt Nam. Nếu như trước đây, ngành dệt may nước ta bị
chi phối hoàn toàn bởi những xí nghiệp quốc doanh, kết quả là sản phẩm làm


22
ra chỉ có thể đáp ứng được nhu cầu trong nước và xuất khẩu sang một vài
nước trong khối SEV thì giờ đây, sự tái cơ cấu nền kinh tế và những thay đổi
về chế độ sở hữu trong ngành công nghiệp dệt may đã mang lại cho ngành sự
phát triển đa dạng hơn. Cùng với việc cải thiện và phát triển các doanh nghiệp
quốc doanh, khu vực tư nhân và các thành phần có vốn đầu tư
nước ngoài dần
giữ vai trò quan trọng trong quá trình phát triển ngành dệt may. Các doanh
nghiệp này nắm giữ 55,55% sản lượng dệt, 52,5% sản lượng vải và 30% sản
lượng hàng may mặc ở Việt Nam.
Ngoài những đường lối, chính sách chung ấy, Nhà nước ta cũng ban
hành nhiều chính sách và biện pháp cụ thể nhằm đẩy mạnh sự phát triển của
các doanh nghiệp dệt may. Theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước, các
doanh nghiệp sản xuất và xuấ
t khẩu hàng dệt may sẽ được vay từ quỹ hỗ trợ
đầu tư quốc gia với lãi suất ưu đãi và được đảm bảo tín dụng xuất khẩu, miễn
tiền thuê đất từ 3-6 năm, và giảm 50% thuế đối với quyền sử dụng đất. Các
doanh nghiệp này còn được hưởng những ưu đãi khác về thuế thu nhập doanh
nghiệp (25% so với mức thông thường 32%, giảm 50% khi xuấ
t khẩu sang thị
trường mới, giảm 20% trong trường hợp doanh thu xuất khẩu vượt hơn 50%
tổng doanh thu và có thị trường ổn định trong 3 năm hoạt động). Trong
trường hợp doanh nghiệp trong ngành may sử dụng nhiều lao động sẽ được
giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp trong 2 năm đối với phần doanh thu

tăng thêm từ hoạt động đầu tư mới. Đối với Luật đầu tư
nước ngoài tại Việt
Nam, Nhà nước ta cũng đưa ra những biện pháp ưu đãi nhất định đối với việc
xuất khẩu hàng dệt may. Các doanh nghiệp nằm trong danh sách được hưởng
ưu đãi về thương mại và đầu tư (miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 4
năm kể từ khi doanh nghiệp hoạt động có lãi và được tiếp tục giảm thuế trong
4 năm sau đó) được phép xuất kh
ẩu trực tiếp, uỷ thác xuất khẩu hay nhận uỷ
thác từ các doanh nghiệp khác những sản phẩm không do doanh nghiệp sản


23
xuất. Nếu doanh nghiệp bán sản phẩm cho doanh nghiệp khác để xuất khẩu sẽ
được miễn thuế đối với nguyên phụ liệu nhập khẩu và VAT đối với sản phẩm
đầu ra.
Bên cạnh đó, các thủ tục xuất nhập khẩu và hải quan cũng được cải
thiện đã tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển ngành dệt may nước ta.
6. Cơ hội cho s
ự phát triển ngành dệt may Việt Nam khi tham gia
vào thị trường thế giới.
Nền kinh tế thế giới đang phát triển và chuyển dịch từng ngày một,
cùng với nó là vai trò của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Việt Nam đang
tiến hành cải cách nhiều mặt nền kinh tế với mong muốn sớm trở thành thành
viên của tổ chức này. Nếu trở thành thành viên của WTO, hàng hoá Việt Nam
sẽ có cơ hộ
i thâm nhập thị trường của tất cả các quốc gia thành viên trên thế
giới, tạo ra một thị trường nước ngoài vô cùng rộng lớn cho nhà xuất khẩu
Việt Nam. Bên cạnh đó, các điều kiện về mở rộng cửa đầu tư cũng thông
thoáng hơn thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường Việt Nam, cải
tiến công nghệ sản xuất, tiếp cận phương thức buôn bán m

ới ở tầm cao hơn và
hiện đại hơn, từ đó nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị
trường thế giới đặc biệt đối với những mặt hàng có khả năng cạnh tranh mạnh
về giá như : hàng dệt may, hàng nông sản,... thì đây chính là cơ hội thuận lợi
để đẩy mạnh xuất khẩu.
Đặc biệt, sau những biến động lớn trên thế giớ
i (khủng hoảng tài chính
tiền tệ Châu Á, vụ khủng bố tại Mỹ ngày 11/9/2001), Việt Nam được thế giới
đánh giá là một trong những nước có tình hình kinh tế - xã hội ổn định nhất,
đây là một điều kiện thuận lợi để hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Mặt
khác, sau sự kiện ngày 11/9 các đơn đặt hàng của Mỹ từ những nước đạo Hồi
có kim nghạch xuấ
t khẩu lớn đang được chuyển dịch sang Trung Quốc và


24
Việt Nam. Tận dụng được những thời cơ này sẽ mang lại cho ngành dệt may
Việt Nam những kết quả đầy lạc quan .
7. Những điều kiện thuận lợi sau khi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ
có hiệu lực.
Ngày 13/7/2000, đại diện hai nước Việt - Mỹ đã ký một văn kiện lịch
sử : Hiệp định thương mại Việt - Mỹ nh
ưng đến ngày 10/12/2001 thông qua
sự phê chuẩn của Quốc hội hai nước, Hiệp định này chính thức có hiệu lực.
Đây là một Hiệp định hợp tác toàn diện và là một bước tiến lớn trong quá
trình bình thường hoá quan hệ giữa hai nước cũng như tạo ra nhiều cơ hội cho
các doanh nghiệp Việt Nam tăng khả năng xuất khẩu hàng hoá vào Mỹ, góp
phần không nhỏ cho việc mở đường cho nền kinh tế Việ
t Nam hội nhập vào
nền kinh tế thế giới nói chung và ngành dệt may nói riêng tiếp cận vào thị

trường Mỹ.
Bộ trưởng Trương Đình Tuyển nhận xét rằng, thị trường Mỹ rộng lớn,
nhu cầu đa dạng và phong phú; khối lượng nhập khẩu hàng hóa của Mỹ đứng
ở mức cao nhất thế giới. Với việc ký kết Hiệp định, Việt Nam sẽ được Mỹ

dành cho quy chế “Quan hệ thương mại bình thường” (NTR), trước đây gọi
là quy chế “Tối huệ quốc” (MFN), tạo điều kiện cho việc gia tăng hàng hóa
xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ. Mặt khác Việt Nam cũng có thể tiếp nhận
các công nghệ cao và các nguồn vốn đầu tư lớn từ Mỹ (hiện đứng thứ 9 trong
các quốc gia và lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với tổng vố
n đăng ký 1,1 tỉ
USD). Bên cạnh đó, theo các chuyên gia, Hiệp định này cũng sẽ tạo điều
kiện cho các nhà đầu tư của nước khác tăng cường đầu tư vào Việt Nam, vì
khi đó họ có nhiều khả năng xuất khẩu hàng hóa vào thị trường Mỹ.
Khi Mỹ giảm, loại bỏ hay thay đổi một loại thuế quan nào đó thì sự
thay đổi đó dược áp dụng bình đẳng với tấ
t cả các quốc gia cùng được hưởng
qui chế MFN. Trên nguyên tắc đó, hàng hoá có xuất xứ từ Việt Nam không

×