Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

TỔNG QUAN VỀ CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.5 KB, 32 trang )

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Trêng §H Kinh tÕ quèc d©n
TỔNG QUAN VỀ CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI (NHTM)

1.1. Vài nét cơ bản về doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp
Theo luật doanh nghiệp Việt Nam, doanh nghiệp là tổ chức kinh tế
có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh
doanh theo quy định của pháp luật, nhằm mục đích thực hiện một, một số
hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản
phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Có nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại doanh nghiệp như tính chịu
trách nhiệm, tư cách pháp lý của doanh nghiệp, hình thức sở hữu của doanh
nghiệp, quy mô...
Phân theo hình thức sở hữu của doanh nghiệp thì các doanh nghiệp ở
Việt Nam bao gồm: Doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, công ty liên doanh và doanh nghiệp tư
nhân.
Phân theo quy mô thì các doanh nghiệp được phân thành doanh
nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong đó, doanh nghiệp vừa và nhỏ
được hiểu là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh
theo pháp luật hiện hành, có số vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc có
số lao động hàng năm không quá 300 người.
1.1.2. Nhu cầu vay vốn Ngân hàng của các Doanh nghiệp
Khó khăn nổi bật nhất hiện nay của các doanh nghiệp này là vấn đề
về vốn. Các doanh nghiệp hầu hết đều muốn bổ sung vốn để đầu tư vào tài
sản lưu động và tài sản cố định.
 Nhu cầu vay vốn ngắn hạn:
Do nhu cầu vốn dài hạn để đầu tư vào tài sản cố định là rất lớn nên
thông thường doanh nghiệp khó có thể sử dụng nguồn vốn dài hạn để đầu
1


§Æng Ph¬ng Mai Líp: TCDN 46B
1
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Trêng §H Kinh tÕ quèc d©n
tư vào tài sản lưu động. Khi có sự thiếu hụt về nguồn vốn ngắn hạn, các
doanh nghiệp thường sử dụng đòn bẩy tài chính – đi vay ngân hàng để bù
đắp nguồn vốn ngắn hạn bị thiếu hụt. Sự thiếu hụt vốn ngắn hạn của doanh
nghiệp có thể xảy ra do dòng tiền vào và dòng tiền ra của doanh nghiệp có
sự chênh lệnh về thời gian và doanh số hoặc do nhu cầu gia tăng đầu tư tài
sản lưu động đột biến theo thời vụ. Do vậy, nhu cầu vay vốn ngắn hạn có
thể chia thành: nhu cầu tài trợ ngắn hạn thường xuyên và nhu cầu tài trợ
ngắn hạn thời vụ.
Nhu cầu tài trợ ngắn hạn thường xuyên xuất phát từ sự chênh lệch
hoặc không ăn khớp nhau về thời gian và quy mô giữa tiền vào và tiền ra
của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp tiêu thụ hàng hóa và thu được tiền thì
đó là dòng tiền vào. Ngược lại khi doanh nghiệp mua nguyên vật liệu hoặc
hàng hóa dự trữ cho sản xuất kinh doanh thì đó là dòng tiền ra. Nếu tiền chi
ra lớn hơn dòng tiền vào, doanh nghiệp cần bổ sung thiếu hụt. Khoản thiếu
hụt này trước hết bổ sung từ vốn chủ sở hữu và các khoản nợ phải trả khác
mà doanh nghiệp có thể huy động được. Phần còn lại doanh nghiệp sẽ đi
vay ngân hàng.
Nhu cầu tài trợ ngắn hạn thời vụ xuất phát từ đặc điểm thời vụ của
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp khiến cho nhu cầu vốn
ngắn hạn tăng đột biến. Chẳng hạn, công ty sản xuất chế biến xuất khẩu
tôm có thể có nhu cầu vốn ngắn hạn tăng đột biến vào mùa thu hoạch tôm.
Khi ấy doanh nghiệp cần tài trợ vốn ngắn hạn ngân hàng để bổ sung nhu
cầu vốn mang tính thời vụ.
• Nhu cầu vay vốn trung và dài hạn:
Doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn trung và dài hạn nhằm để tài trợ
cho việc đầu tư vào tài sản cố định và đầu tư một phần vào tài sản lưu động
thường xuyên. Về nguyên tắc, doanh nghiệp có thể sử dụng nguồn vốn chủ

sở hữu hoặc phát hành cổ phiếu, trái phiếu để tài trợ cho những loại tài sản
này. Nhưng nguồn vốn chủ sở hữu có giới hạn còn phát hành cổ phiếu và
2
§Æng Ph¬ng Mai Líp: TCDN 46B
2
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Trêng §H Kinh tÕ quèc d©n
trái phiếu cũng gặp nhiều khó khăn nên thông thường doanh nghiệp thường
vay vốn dài hạn ngân hàng.
Thực tế cho thấy rằng đối với các doanh nghiệp hiện nay thì phương
thức bổ sung vốn bằng cách vay từ các ngân hàng thương mại là hợp lý
nhất. Vì vậy mà các ngân hàng thương mại ngày càng có vai trò quan trọng
trong việc giúp các doanh nghiệp phát triển, mở rộng hoạt động.
1.2. Hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp tại NHTM
1.2.1. Định nghĩa cho vay.
Cho vay là một trong bốn hình thức cấp tín dụng tại NHTM, cùng
với bảo lãnh, cho thuê và chiết khấu. Trong đó, tín dụng ngân hàng là quan
hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ ngân hàng cho khách hàng trong
một thời hạn nhất định với một khoản chi phí nhất định.
Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, trong đó tổ chức tín dụng
giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời hạn
nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc lẫn lãi.
1.2.2. Phân loại cho vay
Dựa vào mục đích cho vay:
- Cho vay bất động sản: là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm
và xây dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công
nghiệp, thương mại và dịch vụ.
- Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại cho vay ngắn hạn để bổ
sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp,
thương mại, dịch vụ.
- Cho vay nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí sản

xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao
động, nhiên liệu, v.v.....
- Cho vay các định chế tài chính (financial institution loans) bao gồm
cấp tín dụng cho các ngân hàng, công ty tài chính, công ty cho thuê tài
chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng và các định chế tài chính khác.
3
§Æng Ph¬ng Mai Líp: TCDN 46B
3
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Trêng §H Kinh tÕ quèc d©n
- Cho vay tiêu dùng cá nhân: là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu
tiêu dùng như mua sắm các vật dụng đắt tiền, và các khoản cho vay để
trang trải các chi phí thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín
dụng.
Dựa vào thời hạn cho vay:
• Cho vay ngắn hạn: là loại cho vay có thời hạn dưới một năm. Mục
đích của loại cho vay này thường là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản
lưu động. Cho vay ngắn hạn thường chiếm tỷ trọng lớn và Ngân hàng có
thể áp dụng cho vay trực tiếp, cho vay theo món hoặc hạn mức, có hoặc
không cần đảm bảo, dưới hình thức chiết khấu, thấu chi hoặc luân chuyển.
• Cho vay trung hạn: là loại cho vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Mục
đích của loại cho vay này là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố
định, cải tiến kỹ thuật, mua công nghệ..
• Cho vay dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm. Mục đích
của loại cho vay này thường là nhằm tài trợ đầu tư vào các dự án đầu tư có
quy mô lớn với thời gian sử dụng lâu dài. Những khoản cho vay trung và
dài hạn có vai trò rất lớn trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Dựa vào mức độ tín nhiệm của khách hàng:
• Cho vay không có bảo đảm: là loại cho vay không có tài sản thế
chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của người khác mà chỉ dựa vào uy tín của bản
thân khách hàng vay vốn để quyết định cho vay.

• Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm cho
tiền vay như thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba nào khác.
Dựa vào phương thức cho vay:
• Cho vay thấu chi:
Là hình thức cho vay qua đó NHTM cho phép người vay được chi
trội trên số dư tiền gửi thanh toàn của mình đến một hạn mức nhất định và
trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu
chi. Cho vay thấu chi được thực hiện khi đặc điểm hoạt động thu và chi của
4
§Æng Ph¬ng Mai Líp: TCDN 46B
4
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Trêng §H Kinh tÕ quèc d©n
khách hàng không phù hợp về thời gian và quy mô. Do đó hình thức cho
vay này tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng chủ động và kịp thời trong
quá trình thanh toán. Cho vay thấu chi là hình thức cho vay ngắn hạn, linh
hoạt, thủ tục cho vay đơn giản, phần lớn không cần tài sản đảm bảo. Cho
vay thấu chi có thể cấp cho cả doanh nghiệp lẫn cá nhân vài ngày trong
tháng và vài tháng trong năm với mục đích để khách hàng (doanh nghiệp)
trả lương, mua hàng và chi các khoản phải trả, phải nộp khác. Hình thức
này nhìn chung chỉ sử dụng đối với các khách hàng tin cậy và có thu nhập
đều đặn.
• Cho vay trực tiếp từng lần:
Là hình thức cho vay đối với khách hàng không có nhu cầu vay vốn
thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Chỉ khi
có nhu cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay Ngân hàng, vốn
vay của Ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ
sản xuất kinh doanh. Nghiệp vụ cho vay trực tiếp từng lần tương đối đơn
giản, ngân hàng có thể kiểm soát từng món vay tách biệt. Hình thứuc cho
vay này thường phải có tài sản đảm bảo và giá trị món vay được xác định
dựa vào giá trị tài sản đảm bảo.

• Cho vay theo hạn mức:
Là nghiệp vụ cho vay theo đó Ngân hàng thoả thuận cấp cho khách
hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng là số dư nợ tối đa mà ngân hàng
cấp cho khách hàng tại mọi thời điểm.
Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay
mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản
xuất kinh doanh. Đối với hình thức này, Ngân hàng không ấn định trước
ngày trả nợ. Chỉ khi khách hàng có thu nhập, Ngân hàng sẽ thu nợ, do đó
tạo chủ động trong quản lý ngân quỹ của khách hàng. Tuy nhiên do các lần
vay không tách biệt thành các kỳ hạn nợ nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu
5
§Æng Ph¬ng Mai Líp: TCDN 46B
5
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Trêng §H Kinh tÕ quèc d©n
quả sử dụng vốn của từng lần vay. Ngân hàng chỉ có thể phát hiện vấn đề
khi khách hàng nộp báo cáo tài chính, hoặc dư nợ lâu không giảm sút.
• Cho vay luân chuyển:
Cho vay luân chuyển là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của
hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể
cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. đầu năm
hoặc quý, người vay phải làm đơn xin vay luân chuyển. Ngân hàng và
khách hàng thoả thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các
nguồn cung cấp hàng háo và khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín dụng có thể
được thoả thuận trong một năm hoặc vài năm. Đây không phải là thời hạn
hoàn trả mà là thời hạn để ngân hàng xem xét lại mối quan hệ với khách
hàng và quyết định có cho vay nữa hay không tuỳ mối quan hệ giữa ngân
hàng và khách hàng cũng như tình hình tài chính của khách hàng.
Việc cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá nên cả ngân hàng
lẫn doanh nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hoá để dự
đoán dòng ngân quỹ trong thời gian tới.

Người vay cam kết các khoản vay sẽ được trả cho người bán và mọi
khoản thu bán hàng đều dùng để trả vào tài khoản tiền vay trước khi được
trích trả lại tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng.
Khi vay, khách hàng chỉ cần gửi đến ngân hàng các chứng từ hoá
đơn nhập hàng và số tiền vay cần vay. Ngân hàng cho vay và trả tiền cho
người bán. Theo hình thức này, giá trị hàng hoá mua vào (có hoá đơn, hợp
pháp, hợp lệ, đúng đối tượng) đều là đối tượng được ngân hàng cho vay,
thu nhập bán hàng đều là nguồn để chi trả cho ngân hàng. Ngân hàng sẽ
cho vay theo tỷ lệ nhất định tuỳ theo đối tượng và chất lượng quan hệ nợ
nần của người vay. Các khoản phải thu và cả hàng hoá trong kho trở thành
vật đảm bảo cho khoản cho vay. Cho vay luân chuyển thường áp dụng đối
với các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kì
tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng.
6
§Æng Ph¬ng Mai Líp: TCDN 46B
6
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Trêng §H Kinh tÕ quèc d©n
Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho các khách hàng. Thủ tục vay
chỉ cần thực hiện một lần cho nhiều lần vay. Khách hàng được đáp ứng nhu
cầu vốn kịp thời, vì vậy việc thanh toán cho người cung cấp sẽ nhanh gọn.
Dựa vào phương thức hoàn trả nợ vay:
• Cho vay chỉ có một kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả nợ một
lần khi đáo hạn
• Cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả góp
• Cho vay trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn nợ cụ thể mà tuỳ
khả năng tài chính của mình người đi vay có thể trả nợ bất cứ lúc nào
Dựa vào đối tượng vay:
• Cho vay doanh nghiệp: Khách hàng vay là những doanh nghiệp có
nhu cầu về vốn để tích luỹ tư bản phục vụ cho hoạt động mở rộng sản xuất
kinh doanh của mình. Cho vay doanh nghiệp có tác dụng đảm bảo cho hoạt

động của doanh nghiệp diễn ra liên tục và không ngừng phát triển.
• Cho vay cá nhân: là hình thức vay vốn trong đó cá nhân là người trực
tiêp vay vốn với mục đích phục vụ cho các hoạt động của bản thân. Cá
nhân có thể vay vốn để sản xuất kinh doanh hoặc phục vụ cho nhu cầu tiêu
dùng của họ.
1.2.3. Đặc điểm và nguyên tắc cho vay của NHTM
1.2.3.1. Đặc điểm của hoạt động cho vay tại các NHTM
Thứ nhất, cho vay là hoạt động kinh doanh chính của các NHTM.
Đồng thời đây cũng là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho ngân
hàng.
Khả năng cho vay đối với khách hàng chính là lý do cơ bản để các
ngân hàng được cơ quan quản lý cấp giấy phép hoạt động. Mọi người đều
mong muốn các ngân hàng hỗ trợ cho sự phát triển của nền kinh tế thông
qua việc cấp tín dụng, đáp ứng nhu cầu tài chính của các doanh nghiệp và
các cá nhân với một mức lãi suất hợp lý. Rõ ràng, cho vay là chức năng
kinh tế hàng đầu của các ngân hàng. Các NHTM chủ yếu sử dụng nguồn
7
§Æng Ph¬ng Mai Líp: TCDN 46B
7
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Trêng §H Kinh tÕ quèc d©n
tiền mà mình huy động được để thực hiện hoạt động cho vay, đồng thời lợi
nhuận chính của các ngân hàng cũng bắt nguồn từ các khoản cho vay này.
Do đó, các khoản cho vay thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản có
của ngân hàng. Hiệu quả của hoạt động cho vay sẽ quyết định sự tồn tại và
phát triển của chính bản thân NHTM.
Thứ hai, cho vay là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất cho ngân
hàng
Bên cạnh tính sinh lời, hoạt động cho vay đem lại rủi ro rất lớn cho
ngân hàng. Rủi ro cho vay là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng
phải chịu do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả hoặc không trả

đầy đủ vốn và lãi. Khi thực hiện một hoạt động cho vay cụ thể, ngân hàng
không dự kiến là khoản cho vay đó sẽ bị tổn thất. Tuy nhiên những khoản
cho vay đó luôn hàm chứa rủi ro do vấn đề thông tin không cân xứng xảy
ra trước và sau khi khoản vay được thực hiện. Thứ nhất, loại rủi ro về lựa
chọn đối nghịch. Ngân hàng có thể cho khách hàng không có khả năng trả
nợ vay nhưng món vay lớn và từ chối các khách hàng tiềm năng do họ chưa
chứng minh đủ các thông tin cần thiết liên quan đến phương án sử dụng
vay hay khả năng trả nợ ngân hàng. Thứ hai là rủi ro đạo đức xảy ra khi
khách hàng đã vay được vốn sau đó dùng khoản tiền vay để thực hiện sai
mục đích, gây thất thoát vốn của ngân hàng đồng thời khiến khách hàng
không trả được nợ. Ngoài ra, do các thay đổi bất thường trên thị trường
vượt quá khả năng phán đoán của ngân hàng như thay đổi lãi suất và tỷ giá,
khủng hoảng nợ dây chuyền, những thay đổi trong quyết định của Chính
phủ cũng có thể tạo ra rủi ro trong kinh doanh của người người đi vay lẫn
ngân hàng khiến hoạt động cho vay của ngân hàng sẽ gặp rủi ro lớn.
Các nguyên nhân trên khiến ngân hàng đòi hỏi các khách hàng phải
có tài sản đảm bảo đối với các khoản vay hoặc các doanh nghiệp có uy tín
và mối quan hệ thân thiết với ngân hàng.
1.2.3.2. Các nguyên tắc cho vay
8
§Æng Ph¬ng Mai Líp: TCDN 46B
8
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Trêng §H Kinh tÕ quèc d©n
Việc vay vốn ngân hàng là nhu cầu tự nguyện của khách hàng và là
cơ hội để ngân hàng cấp tín dụng và thu lợi nhuận từ hoạt động của mình.
Tuy nhiên, hoạt động cho vay liên quan đến việc sử dụng vốn huy động của
khách hàng nên phải tuân thủ theo những nguyên tắc nhất định. Nói chung,
doanh nghiệp vay vốn ngân hàng phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
• Khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn (gốc) và lãi với thời gian xác
định:

Các khoản cho vay của ngân hàng chủ yếu có nguồn gốc từ các
khoản tiền gửi của khách hàng và các khoản ngân hàng vay mượn từ cá
nhân và các tổ chức tài chính khác. Ngân hàng phải có trách nhiệm hoàn trả
cả gốc và lãi các khoản vay mượn này như đã cam kết. Do đó, ngân hàng
luôn yêu cầu người nhận tín dụng phải hoản trả vốn gốc và lãi đúng với
cam kết trong hợp đồng. Đây là điều kiện để ngân hàng tồn tại và phát
triển, cơ sở để ngân hàng lập và thực hiện kế hoạch kinh doanh của mình
trong tương lai đồng thời có hướng điều chỉnh kịp thời các hoạt động
không còn phù hợp và hiệu quả.
• Khách hàng cam kết sử dụng vốn vay đúng mục đích như đã thoả
thuận trong hợp đồng:
Mục đích sử dụng vốn không trái với quy định của pháp luật và các
quy định của NHNN cũng như NHTM. Ngân hàng chỉ cho khách hàng vay
vốn phục vụ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong phạm vi ngành nghề được
phép theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy phép hành nghề (nếu
có) của khách hàng và phục vụ hợp pháp nhu cầu đời sống của khách hàng.
• Ngân hàng cho vay phải dựa trên phương án (hoặc dự án) vay có
hiệu quả để đảm bảo khả năng thu hồi vốn (gốc) và lãi.
Thông thường, ngân hàng đòi hỏi khách hàng phải có tài sản đảm
bảo hoặc phải chứng minh được dự án của khách hàng là khả thi và có khả
năng tạo ra lợi nhuận để trả nợ ngân hàng. Do các khoản cho vay có hai
9
§Æng Ph¬ng Mai Líp: TCDN 46B
9
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Trêng §H Kinh tÕ quèc d©n
đặtính là tính sinh lời và rủi ro luôn đi kèm với nhau nên ngân hàng thường
yêu cầu doanh nghiệp phải có tài sản đảm bảo cho Ngân hàng.
1.2.4. Nguồn vốn để cho vay
Ngân hàng huy động nguồn tiền từ doanh nghiệp, các tổ chức tài
chính, các cơ quan đoàn thể và từ dân cư để cho vay và tài trợ cho nền kinh

tế thông qua các hình thức tài trợ khác như đầu tư, góp vốn kinh doanh.
Nếu phân chia theo hình thức huy động, nguồn vốn của ngân hàng được
chia thành tiền gửi, tiền vay và nguồn khác.
 Tiền gửi:
Chiếm khoảng 60% tổng nguồn vốn và là mục tiêu tăng trưởng hàng
năm của các ngân hàng. Do đặc tính vô danh của tiền nên ngân hàng có thể
toàn quyền sử dụng số tiền gửi của khách hàng trong thời gian khách hàng
chưa đến rút tiền để đem cho vay. Tuy nhiên, các khoản tiền gửi này phải
thanh toán với khách hàng ngay khi có yêu cầu. Đặc biệt đối với tiền gửi
ngắn hạn, thường nhạy cảm với các biến động của lãi suất, tỷ giá, chu kỳ
chi tiêu và nhiều nhân tố khác. Do đó các ngân hàng thường không biết
chính xác việc thay đổi quy mô và kết cấu của tiền gửi. Nếu ngân hàng sử
dụng một lượng lớn tiền gửi ngắn hạn để đem cho vay dài hạn sẽ rất nguy
hiểm. Nó sẽ tác động trực tiếp đến nhu cầu thanh khoản của ngân hàng.
Trong danh mục nguồn vốn của Ngân hàng thương mại, tiền gửi là
đối tượng phải trhực hiện quy chế dự trữ bắt buộc, do vậy chi phí thực tế
thường cao hơn phần lãi phải trả cho người gửi tiền.
 Tiền vay:
Các khoản vay thường là với thời hạn và quy mô xác định trước, do
đó tại thành nguồn ổn định cho ngân hàng. Tuy nhiên do phải dự phòng rủi
ro lớn hơn (cộng với mức thu nhập và các chi phí hoạt động hợp lý của
ngân hàng) nên lãi suất trả cho tiền đi vay thường lớn hơn lãi suất trả cho
tiền gửi với cùng kỳ hạn.
10
§Æng Ph¬ng Mai Líp: TCDN 46B
10
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Trêng §H Kinh tÕ quèc d©n
Các khoản vay Ngân hàng Trung ương và vay trên hệ thống liên
ngân hàng có lãi suất thấp nhưng thường là các khoản vay nóng để bảo đảm
khả năng thanh toán tức thời cho ngân hàng. Muốn mở rộng quy mô vay

trên thị trường liên ngân hàng, các ngân hàng cần vươn tới thị trường liên
ngân hàng quốc tế với khả năng phân tích rủi ro lãi suất và rủi ro hối đoái
đủ sức phòng tránh được những rủi ro về lãi suất và tỷ giá.
 Nguồn khác:
Các ngân hàng có thể huy động được nguồn vốn thông qua việc phát
hành các giấy tờ trung vài dài hạn, đây là hình thức huy động vốn đóng vai
trò quan trọng trong việc tạo và gia tăng các nguồn vốn trung và dài hạn
cho ngân hàng. Ngân hàng có thể sử dụng nguồn này để cho vay các doanh
nghiệp và người tiêu dùng để mua sắm thiết bị và bất động sản.
1.2.5. Hoạt động cho vay doanh nghiệp tại các NHTM
Cho vay doanh nghiệp là hình thức cấp tín dụng trong đó ngân hàng
sẽ cấp tín dụng cho các khách hàng là các doanh nghiệp có nhu cầu về vốn
để tích lũy tư bản phục vụ cho hoạt động mở rộng sản xuất kinh doanh của
mình. Cho vay doanh nghiệp có tác dụng đảm bảo cho hoạt động của doanh
nghiệp diễn ra liên tục và không ngừng phát triển.
1.2.5.1. Điều kiện vay
Mặc dù khi cho vay, ngân hàng yêu cầu doanh nghiệp vay vốn phải
đảm bảo các nguyên tắc chung nhưng trên thực tế không phải doanh nghiệp
nào cũng có thể tuân thủ đúng các nguyên tắc này. Do vậy, để giúp cho việc
đảm bảo các nguyên tắc vay vốn, ngân hàng chỉ xem xét cho vay khi doanh
nghiệp thỏa mãn một số điều kiện vay nhất định. Các điều kiện vay vốn của
doanh nghiệp bao gồm:
• Có tư cách pháp nhân.
• Có mục đích vay vốn hợp pháp.
• Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
• Có phương án sản xuất kinh doanh, phục vụ khả thi và có hiệu quả.
11
§Æng Ph¬ng Mai Líp: TCDN 46B
11
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Trêng §H Kinh tÕ quèc d©n

• Thực hiện các quy định về đảm bảo tiền vay theo quy định của
Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
1.2.5.2. Hồ sơ vay vốn
Khi có nhu cầu vay vốn, doanh nghiệp gửi cho ngân hàng giấy đề nghị
vay vốn và các tài liệu cần thiết chứng minh đủ điều kiện vay vốn. Doanh
nghiệp phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác và hợp pháp
của các tài liệu gửi cho ngân hàng. Ngân hàng hướng dẫn các loại tài liệu
cho doanh nghiệp cần gửi cho ngân hàng phù hợp với đặc điểm của từng
loại doanh nghiệp, loại cho vay và khoản vay. Thông thường, bộ hồ sơ vay
vốn gồm có:
• Giấy đề nghị vay vốn.
• Giấy tờ chứng minh tư cách pháp nhân của doanh nghiệp như giấy
phép thành lập, quyết định bổ nhiệm giám đốc, điều lệ hoạt động.
• Phương án sản xuất kinh doanh và kế hoạch trả nợ hoặc dự án đầu
tư.
• Báo cáo tài chính của thời kỳ gần nhất.
• Các giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh nợ
vay.
• Các giấy tờ liên quan khác nếu cần thiết.
1.2.5.3. Thẩm định và quyết định cho vay
Để có căn cứ ra quyết định cho vay hay không, các NHTM đều xây
dựng quy trình xét duyệt cho vay theo nguyên tắc bảo đảm tính độc lập và
phân định rõ ràng trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm giữa khâu thẩm định và
cho vay. Khi thẩm định, ngân hàng sẽ xem xét, đánh giá tính khả thi, hiệu
quả của dự án đầu tư, phương thức sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc dự
án đầu tư, phương án phục vụ đời sống và khả năng hoàn trả nợ vay của
doanh nghiệp để ra quyết định cho vay. Ngân hàng quy định cụ thể và niêm
yết công khai thời hạn tối đa phải thông báo quyết định cho vay hoặc
12
§Æng Ph¬ng Mai Líp: TCDN 46B

12

×