Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Lý luận chung về hiệu quả quản lý vốn kinh doanh của doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.2 KB, 35 trang )

Lý luận chung về hiệu quả quản lý vốn kinh doanh
của doanh nghiệp
I.Tổng quan về hiệu quả và hiệu quả kinh tế
1. Khái niệm và ý nghĩa của hiệu quả
1.1. Khái niệm
Hiệu quả là thuật ngữ chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện các mục tiêu
hoạt động của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra để có kết quả đó trong những
điều kiện nhất định.
Nếu ký hiệu:
K: là kết quả nhận được theo hướng mục tiêu đo bằng các đơn vị khác
nhau
C: là chi phí bỏ ra được đo bằng các đơn vị khác nhau
E: là hiệu quả
Ta có công thức hiệu quả chung là:
E =K-C (1) Hiệu quả tuyệt đối
E= K/C (2) Hiệu quả tương đối
Một cách chung nhất, kết quả (K) mà chủ thể nhận được theo hướng múc
tiêu trong hoạt động của minh càng lớn hơn chi phí (C) bỏ ra bao nhiêu thì càng
có lợi bấy nhiêu.
1.2. Ý nghĩa
Hiệu quả là chỉ tiêu dùng để phân tích, đánh giá và lựa chọn các phương án
hành động.
1.3. Các khái niệm hiệu quả
Hiệu quả được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau vì vậy hình thành nhiều
khái niệm khác nhau.
Hiệu quả tổng hợp: Là hiệu quả chung phản ánh kết quả thực hiện mọi mục
tiêu mà chủ thể đặt ra trong một giai đoạn nhất định trong quan hệ với chi phí
để có được những kết quả đó. Hiệu quả tổng hợp bao gồm:
Hiệu qủa kinh tế: Là hiệu quả nếu chỉ xét vể khía cạnh kinh tế của vấn đề, là
một nội dung đặc biệt của hiệu quả tổng hợp có ý nghĩa quyết định trong hoạt
động kinh tế của các chủ thể khác nhau.


Hiệu quả kinh tế mô tẩ mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế mà chủ thể nhận
được lợi ích kinh tế đó.
Biểu hiện của lợi ích và chi phí khinh tế phụ thuộc vào chủ thể và muc tiêu
mà chủ thể đặt ra. Đối với chủ thể doanh nghiệp, đó có thể là doanh thu bán
hàng và những chi phi gắn liền với hoạt động của doanh nghiệp để có được
doanh thu bán hàng đó. Đối với nhà nước, lợi ích kinh tế không chỉ bó hẹp trong
một doanh nghiệp mà được xem xét trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế
Hiệu quả chính trị xã hội: Là hiệu quả mà chủ thể nhận được trong việc thực
hiện các mục tiệ kinh tế xã hội. Chẳng hạn, giải quyết công ăn việc làm, công
bằng xã hội, môi trường
Hiệu quả trực tiếp: Là hiệu quả được xem xét trong phạm vi chỉ một dự án,
mỗi doanh nghiệp (một đối tượng).
Hiệu quả gián tiếp là hiệu quả mà một đối tượng nào đó tạo ra cho một đối
tượng khác: Việc xây dựng một dự án này có thể kéo theo việc xây dựng hàng
loạt dự án khác – Hiệu quả của dự án đang xem xét là hiệu quả trực tiếp còn
hiệu quả các dự án khác là hiệu quả gián tiếp.
Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả tương đối: là hai hình thức biểu hiện mối quan
hệ giữa kết quả chi phí. Trong đó, hiệu quả tuyệt đối được đo bằng hiệu số giữa
kết quả chi phí, còn hiệu quả tương đối được đo bằng tỉ số giữa kết quả và chi
phí.
Lợi nhuận ròng hàng năm được xem như là hình thức của hiệu quả tuyệt đối,
tỉ suất lợi nhuận là hình thức của hiệu quả tương đối.
1.4. Hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế quốc dân
Xét theo góc độ chủ thể nhận được kết quả (lợi ích) và bỏ chi phí để có
được kết quả đó, có khái niệm hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế quốc dân.
Hiệu quả tài chính
Hiệu quả tài chính còn được gọi là hiệu quả sản xuất – kinh doanh hay hiệu
quả doanh nghiệp là hiệu quả kinh tế xét trong phạm vi một doanh nghiệp. Hiệu
quả tài chính phản ánh mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp phải
bỏ ra để có được lợi ích kinh tế. Hiệu quả tài chính là mối quan tâm hàng đầu

của các doanh nghiệp, những nhà đầu tư. Hiệu quả tài chính chỉ liên quan đến
thu, chi có liên quan trực tiếp.
Hiệu quả kinh tế quốc dân
Hiệu quả kinh tế quốc dân còn được gọi là hiệu quả kinh tế xã hội là hiệu
quả tổng hợp được xem xét trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế.
Chủ thể được hưởng hiệu quả kinh tế quốc dân là toàn bộ xã hội mà người
đại diện cho nó là nhà nước, vì vậy những lợi ích và chi phí được xem xét trong
hiệu quả kinh tế xã hội xuất phát từ quan điểm toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Nội dung cơ bản của hiệu quả kinh tế quốc dân là hiệu quả kinh tế xét theo
quan điểm toàn bộ nền kinh tế.
Quan hệ giữa hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế quốc dân
Hiệu quả tài chính là mối quan hệ của các doanh nghiệp hoặc của những nhà
đầu tư. Hiệu quả kinh tế quốc dân là mối quan tâm của toàn xã hội mà đại diện
là nhà nước.
Hiệu quả tài chính được xem xét theo quan điểm của doanh nghiệp, còn
hiệu quả kinh tế quốc dân được xem xét theo quan điểm của toàn xã hội. Hiệu
quả tài chính xét theo quan điểm bộ phận, còn hiệu quả kinh tế quốc dân xét
theo quan điểm toàn thể.
Quan hệ giữa hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế quốc dân là quan hệ giữa
lợi ích bộ phận và lợi ích tổng thể, giữa lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội. Đó là
mối quan hệ thống nhất có mâu thuẫn.
1.5. Hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài
Căn cứ vào lợi ích nhận được trong khoảng thời gian dài hay ngắn hình
thành khái niệm hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài. Hiệu quả trước mắt là
hiệu quả được xem xét trong khoảng thời gian ngắn. Lợi ích được xem xét trong
loại hiệu quả này là lợi ích trước mắt, mang tính tạm thời. Việc nhập những thiết
bị cũ, công nghệ kém tiên tiến, rẻ tiển có thể mạng lại hiệu quả trước mắt nhưng
về lâu dài không hẳn là như vậy. Hiệu quả lâu dài là hiệu quả được xem xét
trong thời gian dài. Việc bỏ tiền mua bảo hiểm có thể lợi ích trước mắt bị vi
phạm nhưng nó tạo ra một thế ổn định lâu dài, nó cho phép san bớt những rủi ra

cho các nhà bảo hiểm.
2.Tiêu chuẩn cơ bản của hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế quốc dân
Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp hay nền kinh tế quốc dân được đánh
giá thông qua một hoặc một số chỉ tiêu hiệu quả nhất định. Về phần mình,
những chỉ tiêu hiệu quả này phụ thuộc chặt chẽ vào mục tiêu hoạt động của mỗi
cấp (mục tiêu của chủ thể hiệu quả). Bởi vậy, phân tích hiệu quả của các
phương án cần xác định rõ chiến lược phát triển cũng như mục tiêu của mỗi chủ
thể trong từng giai đoạn phát triển.
2.1. Tiêu chuẩn cơ bản của hiệu quả tài chính là lợi nhuận cao nhất và ổn
định
Trong hoạt động của mình, chủ doanh nghiệp thường đặt ra những mục tiêu
sau đây:
• Thu lợi nhuận cao nhất. Theo mục tiêu này lợi nhuận được coi là tiêu
chuẩn để thiết lập các chỉ tiêu hiệu quả.
• Chi phí nhỏ nhất. Theo mục tiêu này tiêu chuẩn hiệu quả là chi phí nhỏ
nhất.
• Chiếm lĩnh thị trường hoặc đạt được lượng hoàng hóa bán ra lớn nhất.
• Nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng.
• Duy trì sự tồn tại của doanh nghiệp, tránh bị phá sản.
• Đạt sự ổn định nội bộ.
• Đạt được mức độ nào đó về lợi nhuận…
Tại một thời điểm nhất định, một doanh nghiệp có thể có một hay nhiều mục
tiêu. Các nục tiêu này thay đổi theo thời gian, cùng với sự thay đổi mục tiêu là
sự thay đổi trong quan niệm hiêu quả.
Các mục tiêu trên có thể quy tụ thành mục tiêu cơ bản, quyết định hoạt động
của doanh nghiệp là lợi nhuận và sự ổn định. Với mục tiêu này tiêu chuẩn cơ
bản của hiệu quả tài chình là lợi nhuận ổn định.
Mục tiêu lợi nhuận tối đa thường gắn liền với rủi ro tối đa và mạo hiểm tối
đa. Kinh doanh gắn liền với mạo hiểm nhưng không có nghĩa là liều lĩnh.
Người biết kinh doanh là người biết hạn chế bớt những rủi ro có thể gặp phải.

Điều đó cũng có nghĩa một phương án hành động có thể mang lại lợi nhuận lớn
nhât nhưng trong điều kiện rủi ro lớn nhất, và phương án khác có lợi nhuận ít
hơn nhưng những rủi ro không có hoặc ít hơn thì phương án có ít lợi nhuận và
ổn định hơn là phương án có hiệu quả cao hơn theo nghĩa kết hợp giữa lợi
nhuận tối đa và sự an toàn, ổn định của doanh nghiệp.
Phân tích hiệu quả doanh nghiệp không thể tách rời phân tích rủi ro, đặc biệt
trong điều kiện kinh doanh hiện nay, có nhiều nhân tố dẫn đến biến động lớn.
Chiếm lĩnh thị trường hoặc đạt được lườn hàng hóa bán ra lớn nhất suy cho
cùng là để đạt mục đích lợi nhuận. Không có thị trường, hàng không bán được,
quá trình sản xuất sẽ ách tắc không thể có lợi nhuận. Chiếm lĩnh thị trường và
đạt lợi nhuận có liên quan chặt chẽ với nhau gần như tỷ lệ thuận.
Những mục tiêu khác trong hoạt động doanh nghiệp mà doanh nghiệp quan
tâm có liên quan đến lợi nhuận. Vì vậy, lợi nhuận ổn định là mục tiêu bao chùm
nhất, tổng quát nhất. Cho đến nay, các tác giả đều nhất trí dùng lợi nhuận làm
tiêu chuẩn cơ bản để phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh.
2.2. Tiêu chuẩn cơ bản của hiệu quả kinh tế quốc dân là giá trị gia tăng
quốc gia
Trong hoạt động kinh tế của mình, xã hội thường đặt ra những mục tiêu sau
đây:
• Tăng thu nhập quốc dân.
• Tạo công ăn việc làm.
• Công bằng xã hội.
• Bảo vệ môi sinh.
• Bảo đảm chủ quyền đất nước…
Như vậy, quá trình phát triển kinh tế là một quá trình đa mục tiêu: Kinh tế,
chính trị, xã hội và sinh thái. Các mục tiêu này có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Mối quan hệ qua lại đó rất phức tạp, nhiều khi có mâu thuẫn. Bản chất của
chúng khác nhau theo từng nước, theo từng thời điểm. Nét đặc chưng của những
mục tiêu này là tình động, tính hài hòa, tính xung khắc và tính bổ xung lẫn
nhau. Những mục tiêu này thường được thể hiện rõ ràng trong kế hoạch phát

triển kinh tế đất nước hoặc dưới dạng khác của các văn bản chính thức của Nhà
nước về đường lối phát triển.
Các mục tiêu quốc gia (xã hội) được thực hiện thông qua từng doanh nghiệp,
từng ngành, từng địa phường cụ thể. Nền kinh tế quốc dân là một hệ thồng, các
doanh nghiệp, các ngành, các địa phương là những phần tử, những phân hệ tạo
thành hệ thống kinh tế quốc dân. Mục tiêu của doanh nghiệp là mục tiêu bộ
phận, mục tiêu quốc gia là mục tiêu toàn thể.
Mục tiêu quốc gia xét ở cấp doanh nghiệp người ta thường gọi là mục tiêu xã
hội, thực ra mục tiêu này không hoàn toàn mang tính chất xã hội mà quan trọng
và chủ yếu mang tính chất kinh tế được xem xét là những đóng góp của doanh
nghiệp và việc thực hiện các mục tiêu mà xã hội đặt ra.
Sự đóng góp của doanh nghiệp và việc thực hiện các mục tiêu xã hội hình
thành khái niệm hiệu quả kinh tế xã hội, hiệu quả kinh tế quốc dân. Như vậy,
cùng, cùng một phương án hoạt động của doanh nghiệp, được xem xét theo hai
cấp hiệu quả khác nhau.
 Hiệu quả tài chính trong đó chủ thể là doanh nghiệp.
 Hiệu quả kinh tế quốc dân trong đó chủ thể là xã hội mà đại diện là
Nhà nước.
Đối với doanh nghiệp hay chủ đầu tư, lợi nhuận cao và ổn định là tiêu chuẩn
cơ bản, là mục tiêu bao chùm, nhưng đối với xã hội, lợi nhuận mà doanh nghiệp
thu được chưa phản ánh đầy đủ lợi ích của nó. Trước hết, lợi nhuận chỉ bao hàm
một phần giá trị mới sáng tạo ra trong doanh nghiêpk mà xã hội thì quan tâm
đến toàn bộ giá trị đó. Giá trị mới sáng tạo ra trong doanh nghiệp bao gồm toàn
bộ giá trị thặng dư xã hội và tiền lương. Phần giá trị này được gọi là giá trị gia
tăng. Giá trị gia tăng là biểu hiện thu nhập quốc dân trong doanh nghiệp. Thông
qua giá trị gia tăng để đánh giá sự đóng góp của doanh nghiệp và việc thực hiện
mục tiêu tăng thu nhập quốc dân của toàn xã hội.
Sau nữa, lợi nhuận được xem như là chỉ tiêu hiệu quả trực tiếp; còn xã hội
không chỉ quan tâm đến hiệu quả trực tiếp mà còn quan tâm đến hiệu quả gián
tiếp do doanh nghiệp tạo ra. Những vẫn đề về môi trường, phân phối thu nhập,

công ăn viêc làm...Không được phân tích khi xác định hiệu quả tài chính, chúng
lại rất quan trọng khi phân tích hiệu quả kinh tế quốc dân.
Mục tiêu chiến lược có tính chất nền tảng của đường lối phát triển quốc gia
của bất kỳ nước nào là nâng cao mức sống hiện tại của nhân dân và cấp vốn đầu
tư nhằm đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, thông qua đó tăng tiêu dùng
trong tương lai. Thu nhập quốc dân là nguồn duy nhất để tăng cả tiêu dùng và
tích lũy (tiêu dùng tương lai). Đó là hình thức đo định lượng cơ bản của trình độ
và tốc độ tăng phuc lợi quốc dân. Mức thu nhập quốc dân được coi là biểu trung
cho phúc lợi xã hội, nó phản ánh cả nguồn lực của đất nước và mức độ thỏa
mãn các nhu cầu và nguyện vọng cơ bản của nhân dân. Do vậy, mục tiêu cơ bản
cuối cùng của các hoạt động kinh tế trong một quốc gia chính là đóng góp càng
nhiều càng tốt vào thu nhập quốc dân. Vì vậy, tiêu chuẩn cơ bản của hiệu quả
kinh tế xã hội của hoạt động doanh nghiệp là giá trị gia tăng.
Giá trị gia tăng bao gồm hai bộ phận chính: Lương và các khoản thặng dư xã
hội.
Theo quan điểm của doanh nghiệp, lương là đầu vào, là chi phí, nhưng theo
quan điểm xã hội, lương là một bộ phận của thu nhập quốc dân. Lương càng
nhiều (càng bố trí được nhiều việc làm) thu nhập lao động của người càng cao.
Lương càng cao (so với hàng hóa cần thiết) có nghĩa là sức mua của người dân
càng cao, nói cách khác, phúc lợi quốc dân càng cao.
Thặng dư xã hội là phần giá trị gia tăng được phân phối thông qua các kênh
các kênh khác nhau của cơ chế phân phối quốc gia. Thuế đưa vào kho bạc nhà
nước; lợi nhuận thuần túy để lại cho doanh nghiệp; lãi vay vốn trả cho các cơ
quan và tổ chức tài chính. Thông qua cả một mạng lưới của quá trình phân phối
và phân phối lại phức tạp, một bộ phận của thặng dư xã hội được sử dụng cho
tiêu dùng cá nhân và xã hội.
Về nguyên tắc, giá trị gia tăng là biểu hiện của phúc lợi quốc gia, nhưng
trong thực tiễn có thể hoặc đang xảy ra là một doanh nghiệp tạo ra một lượng
giá trị gia tăng đáng kể, nhưng phần lớn giá trị gia tăng đó được chuyển ra nước
ngoài như: Tiền lương trả cho người lao động nước ngoài, lãi vay của các tổ

chức tài chính quốc tế, lợi tức cổ phần của các cổ đông nước ngoài ... Trong
trường hợp này, giá trị gia tăng được tạo ra không còn là thước đo về sự đóng
góp của doanh nghiệp vào phúc lợi quốc gia. Để khắc phụ hiện tượng này,
người ta đưa ra khái niệm giá trị gia tăng quốc gia.
Giá trị gia tăng quốc gia là phần còn lại của giá trị gia tăng sẵn có sau khi trừ
đi các khoản chuyể ra nước ngoài.
Giá trị gia tăng quốc gia phản ánh phúc lợi quốc gia. Đây chính là giá trị mới
được tạo ra để tích lũy và tiêu dùng trong nước. Giá trị gia tăng quốc gia là tiêu
chuẩn cơ bản của hiệu quả kinh tế xã hội.
Giữa giá trị gia tăng quốc gia và lợi nhuận có quan hệ chặt chẽ với nhau. Lợi
nhuận là một bộ phậ của giá trị gia tăng quốc gia, là mục tiêu, động lực doanh
nghiệp. Giá trị gia tăng ngoài lợi nhuận còn tiền lương, lợi tức, lãi vay và thuế.
Lợi nhuận của doanh nghiệp không chỉ chịu ảnh hưởng của giá trị thặng dư xã
hội mà còn chịu ảnh hưởng của chính sách phân phối của nhà nước. Nhà nước
có thể giảm lợi nhuận của doanh nghiệp thông qua việc đánh thếu cao và ngược
lại. Giá trị gia tăng quốc gia chỉ chịu ảnh hưởng của bản thân giá trị thặng dư và
tiền lương.
Một phương án nào đó có thể có ưu thế rất lớn theo tiêu chuẩn giá trị gia
tăng, nhưng lại không có ưu thế theo tiêu chuẩn lợi nhuận. Trong tình huống
này, doanh nghiệp cần một khoản trợ cấp.
Trên thực tế cho thấy, nếu là lãi hoặc lỗ đối với một bộ phận của nền kinh tế
- tức là đối với một doanh nghiệp thì không nên đồng nhất đối vơi lãi với lãi của
toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Phân tích hiệu quả kinh tế quốc dân giải quyết
vấn đề lỗ, lãi của toàn bộ nền kinh tế nói chung. Phân tích hai loại hiệu quả này
giúp cho chủ doanh nghiệp và Nhà nước thấy được lợi ích của mình để có sự kết
hợp lợi ích cho thỏa đáng, tạo ra động lực phát triển của nền kinh tế nói chung.
Trong phân tích và lựa chọn phương án hoạt động của doanh nghiệp không
được xem nhẹ một loại hiệu quả nào, dù đó là hiệu quả tài chính hay hiệu quả
kinh tế quốc dân. Trong thực tiễn những năm qua, hiệu quả chưa được chú ý
một cách đầy đủ trong phân tích và lựa chọn dự án, đặc biệt là hiệu quả kinh tế

quốc dân.
Dù doanh nghiệp hoạt động dưới hình thức nào thì phân tích hiệu quả các
phương án hoạt động của nó đều phải xem xét theo góc độ hiệu quả tài chính và
hiệu quả kinh tế quốc dân. Là doanh nghiệp nhà nước, điều đó không có nghĩa
không cần phân tích hiệu quả tài chính, mà nó cũng cần thiết như phân tích hiệu
quả kinh tế quốc dân. Có như vậy mới tránh khỏi tình trạng thua lỗ của các
doanh nghiệp nhà nước và củng cố chế độ hạch toán kinh tế của nó. Đối với
doanh nghiệp tư nhân, Phân tích hiệu quả tài chính được chủ doanh nghiệp đặc
biệt quan tâm trong phương án hoạt động. Điều đó không có nghĩa, hiệu quả
kinh tế quốc dân không được xem xét tới, mà trái lại , các cơ quan nhà nước
phải phân tích hiệu quả kinh tế quốc dân của nó để những lợi ích của xã hội
không bị vi phạm và lợi ích của cá nhân không bị thiệt thòi.
2.3.Nguyên tắc xác định hiệu quả
Để đánh giá chính xác hiệu quả của một phương án nào đó cần tuân thủ các
nguyên tắc sau:
2.3.1. Nguyên tắc về mối quan hệ giữa mục tiêu và tiêu chuẩn hiệu quả
Theo nguyên tắc này, tiêu chuẩn hiệu quả được định ra trên cơ sở mục tiêu.
Mục tiêu khác nhau, tiêu chuẩn hiệu quả khác nhau, mục tiêu thay đổi, tiêu
chuẩn hiệu quả thay đổi. Tiêu chuẩn hiệu quả được xem như là thước đo để thực
hiện các mục tiêu.
Phân tích hiệu quả của một phương án nào đó luôn luôn dựa trên phân tích
mục tiêu. Phương án có hiệu quả cao nhất khi nó đóng góp nhiều nhất cho việc
thực hiện các mục tiêu đặt ra với chi phí thấp nhất.
2.3.2. Nguyên tắc về sự thống nhất lợi ích
Theo nguyên tắc, một phương án được xem là có hiệu quả khi nó kết hợp
trong đó các loại lợi ích. Bao gồm lợi ích của chủ doanh nghiệp và lợi ích của
xã hội, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần,
lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội.
• Về lợi ích của doanh nghiệp và lợi ích của xã hội được xem xét trong
phân tích hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế quốc dân. Theo

nguyên tắc “lợi ích”, hiệu quả tài chính không thể thay thế cho hiệu
quả kinh tế quốc dân và ngược lại trong việc giải quyết định cho ra đời
một phương án hành động của doanh nghiệp.
• Về lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài: Không thể hy sinh lợi ích lâu
dài để lấy lợi ích trước mắt. Kết hợp đúng đắn giữa lợi ích trước mắt
và lợi ích lâu dài là phương án được coi là có hiệu quả. Trong quan hệ
giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, lợi ích lâu dài là cơ bản.
• Về kết hợp lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội cũng như lợi ích vật chất và
lợi ích tinh thần: Việc phân tích hiệu quả kinh tế các phương án cần
đặt trong mối quan hệ với phân tích các lợi ích khác mà phương án
mang lại. Bất kỳ một sự hy sinh lợi ích nào đều giảm hiệu quả chung
của phương án đó. Trong đại bộ phận các trường hợp, lợi ích xã hội
đóng vai trò quyết định.
2.3.3. Nguyên tắc về tình chính xác, tính khoa học
Để đánh giá hiệu quả các phương án cần phải dựa trên một hệ thống các chỉ
tiêu có thể lượng hóa được và không lượng hóa được, tức là phải kết hợp phân
tích định lượng hiệu quả với phân tích định tính. Không thể thay thế phân tích
định lượng bằng phân tích định tính khi phân tích định lượng chưa đủ đảm bảo
tính chính xác, chưa cho phép phản ánh được mọi lợi ích cũng như mọi chi phí
mà chủ thể quan tâm.
Nguyên tắc này cũng đòi hỏi những căn cứ tính toán hiệu quả phải được xác
định chính xác, tránh chủ quan tùy tiện.
2.3.4.Nguyên tắc về tính đơn giản và tính thực tế
Theo nguyên tắc này, những phương pháp tính toán hiệu quả và hiệu quả
kinh tế phải được dựa trên cơ sở các số liệu thông tin thực tế, đơn giản và dễ
hiểu. Không nên sử dụng những phương pháp quá phức tạp khi chưa có đầy đủ
các thông tin cần thiết hoặc những thông tin không đảm bảo độ chính xác.
3.Các định mức hiệu quả kinh tế
3.1. Khái niệm
Các định mức hiệu quả kinh tế là biểu thị bằng số của giới hạn có thể chấp

nhận được của chủ thể hiệu quả (thời gian hoàn vốn tối thiểu có thể chấp nhận
được) hoặc là số đo định lượng về giá trị mà chủ thể hiệu quả ấn định cho các
nhân tố chủ yếu nhất mà chúng có quan hệ trực tiếp trong khi đánh giá và lựa
chọn phương án (tỷ suất chiết khấu, tỷ giá hối đoái...).
Các định mức hiệu quả được các chủ thể hiệu quả lập ra nhằm phân tích và
đánh giá phương án theo quan điểm của mình. Những phương án được coi là
đáng giá khi chúng thỏa mãn tiêu chuẩn hiệu quả trên cơ sở sử dụng các định
mức hiệu quả mà chủ thể đã định ra.
3.2. Một số định mức hiệu quả
Phương pháp luận về hiệu quả và hiệu quả kinh tế đòi hỏi phải xác định rõ,
chính xác các định mức hiệu quả theo quan điểm của các chủ thể khác nhau.
Phần này trình bày quan điểm xem xét một số định mức hiệu quả quốc gia.
Hệ số hiệu quả định mức quốc gia.
Để đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội, các nhà hoạch định chính xác phải lập ra hệ
số hiệu quả này.
Hệ số hiệu quả định mức quốc gia trong những trường hợp cụ thể còn được
gọi là suất thu lợi quốc gia, tỷ suất chiết khấu xã hội.
Hệ số hiệu quả quốc gia ( I
am
) là mức hạn định của Nhà nước về hệ số hiệu
quả. Nó được xem như là mức lãi suất mà Nhà nước dùng để đánh giá hiệu quả
kinh tế vốn đầu tư của mình.
Hệ số hiệu quả quốc gia như là một công cụ để xem xét và đánh giá hiệu quả
kinh tế trong việc sử dụng vốn của nhà nước. Chức năng kinh tế chủ yếu của hệ
số hiệu quả quốc gia là hỗ trợ cho việc sử dụng các nguồn vốn đầu tư của nhà
nước vào các mục tiêu chủ yếu của xã hội. Nếu hệ số này được xác định quá
thấp sẽ làm cho nhu cầu vốn đầu tư của Nhà nước vượt quá khả năng cung cấp
vì rất nhiều những phương án đạt hiệu quả kinh tế, ngược lại hệ số này xác định
quá cao làm cho rất nhiều phương án đạt được mức hiệu quả cần thiểt.
Các nhà đầu tư cũng như các doanh nghiệp sẽ xác định cho mình một hệ sô

hiệu quả thích hợp để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của mình. Hệ số hiệu quả
xét theo quan điểm của các nhà đầu tư được gọi là lãi suất tính toán tối thiểu
hoặc suất thu lợi tối thiểu.
Suất thu lợi tối thiểu của các nhà đầu tư phụ thuộc vào quan điểm của họ, nó
sẽ khác nhau giữa các nhà đầu tư khác nhau, tuy rằng họ cùng hoạt động trong
một ngành kinh doanh. Còn hệ sô hiệu quả xã hội sẽ được xác định như thế nào
cho các doanh nghiệp thuộc các ngành khác nhau. Vấn đề này có nhiều quan
điểm.
Quan điểm thứ nhất cho rằng nhà nước nên áp dụng thống nhất một hệ số
chung cho toàng bộ nền kinh tế quốc dân. (Hệ số đó hoặc là I
am
= 0,20 hoặc I
am
= 0,166). Lập luận của những người theo quan điểm này là bất kỳ một đống vốn
nào bỏ ra đều có giá trị như nhau không kể bỏ vào một ngành cụ thể nào cho
nên đều phải cân nhắc trên quan điểm hiệu quả nền kinh tế quốc dân. Cơ sở để
có quan điểm này là sự phát triển khá cao của nên kinh tế kỹ thuật trong nước
mà nhờ đó đã san bằng về cơ bản các khoảng cách giữa các ngành và các vùng
kinh tế trong nước. Nền kinh tế đã được khai thác tốt về chiều rộng và đang
chuyển sang khai thác chủ yếu về chiều sâu.
Quan điểm thứ hai bao gồm nhiều nước (chủ yếu là các nước XHCN) cho
rằng cần có các hệ số hiệu quả quốc gia khác nhau cho các nhóm ngành kinh tế
khác nhau. Chẳng hạn trong phương pháp mẫu đãnh giá hiệu quả kinh tế vốn
đầu tư cơ bản của Liên Xô (cũ) ban hành lần thứ hai ngày 16/6/1979 đã quy
định hệ số hiệu quả quốc gia như sau:
Tính chung cho toàn nên kinh tế quốc dân: I
am
= 0,14
Trong công nghiệp : I
am

= 0,16
Trong nông nghiệp : I
am
= 0,07
Trong giao thông bưu điện : I
am
= 0,05
Trong xây dựng cơ bản : I
am
= 0,22
Trong thương nghiệp chế biến cung ứng
Vật tư kỹ thuật và trong các ngành khác : I
am
= 0,25
Cơ sở lập luận của các nước theo quan điểm thứ hai là trong điều kiện cón
tồn tại sự chênh lệch lớn về sự phát triển giữa các ngành kinh tế, giữa các lãnh
thổ trong nước thì không thể áp dụng thống nhất một hệ số hiệu quả quốc gia,
bởi vì các vùng kém phát triển không bao giờ được chọn để bỏ vốn đầu tư vì
hiệu quả là thấp kém, chẳng hạn các vùng nông thôn, miền núi, hẻo lánh, hải
đảo, … Luôn luôn bị gạt bỏ khi đêm so sánh hiệu quả vốn đầu tư.
Quan điểm thứ ba: Thực chất là kết hợp giữa quan điểm thứ nhất và quan điể
thứ hai. Theo quan điểm này, hệ số hiệu quả quốc gia nên được tính toán thống
nhất cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân nhằm mục đích nâng cao hiệu quả đồng
vốn của nhà nước, đồng thời trong một số ngành hoặc khu vực đặc biệt phù hợp
với đường lối phát triển kinh tế trong mỗi thời kỳ, nên áp dụng một hệ số mang
tính chất khuyến khích. Hệ số này bằng hệ số hiệu quả chung trừ đi một mức độ
khuyến khích nào đó.
Cơ sở của lập luận này là sự kết hợp giứa phát triển kinh tế và chính sách xã
hội của nhà nước. Các chuyện gia về lĩnh vực lập và đánh giá dự án thiên về
quan điểm thứ ba này.

Các định mức hiệu quả khác
Việc tính toán hiệu quả của một phương án nào đo chịu ảnh hưởng của rất
nhiều thông số khác ngoài hệ sô hiệu quả định mức (I
am
) như đã xem xét ở trên.
Có thể kể đến những nhóm thông số đó là:
• Hệ số định mức kinh tế - kỹ thuật: Chừng nào hệ thống này chưa được
nhà nước ban bạn hành chính thức, thống nhất, khoa học, hợp lý, tiên
tiến trong phạm vi toàn quốc thì chừng đó chưa có đủ tiền đề tối thiểu
để đánh giá hiệu quả của một phương án này hay phương án khác.
Muốn có hiệu quả, người xây dựng dự án chỉ cần tăng hoặc giảm các
định mức kinh tế kỹ thuật là đủ, nhà nước không có cơ sở kiểm tra.
Hệ thống định mứcc kinh tê – kỹ thuật được nhà nước quan tâm, đặc
biệt nhà nước XHCN.
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, ý nghĩa của hệ thống định mức kinh
tế kỹ thuật trong việc tính toán hiệu quả kinh tế vẫn còn nguyên giá trị, đặc biệt
đối với khu vực kinh tế nhà nước.
• Hệ thống giá cả: Kết quả và chi phí trong tính toán hiệu quả không thể
chỉ bằng đơn vị hiện vật mà chủ yếu bằng đơn vị giá trị. Muốn vậy
phải thông qua giá cả. Hệ thống giá cả chính xác là nhân tố quyết định
trong tính toán hiệu quả kinh tế của các phương án, đặc biệt trong tính
toán hiệu quả kinh tế quốc dân nhằm xác định chính xác giá trị xã hội
của các dự án đầu tư.
• Tỷ giá hối đoái: Đây cũng là phạm trù nằm trong hệ thống giá cả
nhưng có ỹ nghĩa đặc biệt trong tính toán hiệu quả kinh tế các dự án
đầu tư có liên quan đến các hoạt động kinh tê đối ngoại.
Giá cả thường được tính toán theo đồng tiền trong nước, nhưng trong hoạt
động kinh tế đối ngoại, giá cả được tính toán theo đồng tiền nước ngoài (ngoại
tệ). Nhiệm vụ đặt ra là phải quy đổi tiền ngoại tệ thành tiền trong nước và
ngược lại. Việc quy đổi này thông qua tỷ giá hối đoái.

Thực chất của tỷ giá hối đoái là giá cả của ngoại tệ hoặc đồng tiền trong
nước. Tỷ giá hối đoái được dùng trong tính toán hiệu quả kinh tế doanh nghiệp
là tỷ giá hối đoái chính thức (theo thị trường) còn trong tính toán hiệu quả kinh
tế quốc dân là tỷ giá hối đoái xã hội (giá cả xã hội). Tỷ giá này không chỉ phản
ánh tỷ giá thị trường mà còn phản ánh tình hình cán cân thanh toán và chiến
lược phát triển kinh tế đất nước.
Tỷ giá hối đoái xã hội với nghĩa là một trong những định mức hiệu quả kinh
tế quốc dân là hạn mực tỷ giá hối đoái do Nhà nước đặt ra nhằm tính toán hiệu
quả kinh tế quốc dân.
Tỷ giá hối đoái xã hội là công cụ quan trọng trong tay nhà nước để thực hiện
chính sách kinh tê xã hội trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại.
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau trong việc xác định tỷ giá hối
đoái với nghĩa là định mức hiệu quả kinh tế quốc dân.
II.Vốn kinh doanh và vai trò của vốn kinh doanh
1.Vốn và nguồn vốn kinh doanh
1.1.Khái niệm về vốn
Vốn là phạm trù kinh tế, là điều kiện tiêm quyết cho bất cứ loại hình nào
của doanh nghiệp, ngành nghề kinh tế kỹ thuật nào. Vậy vốn là gì?
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về vốn, mỗi quan điểm đều có cách tiếp
cận riêng. Theo quan điểm của Marx: Vốn là giá trị đem lại giá trị thặng dư, là
một đầu vào của quá trình sản xuất. Các nhà kinh tế học đại diện cho trường
phái kinh tế khác nhau cũng có quan điểm khác nhau về vốn. Theo quan điểm
Psammuelson: Vốn là những hàng hóa được sản xuất ra để phục vụ cho quá
trình sản xuất mới, là đầu vào cho hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh
nghiệp. Trong cuốn sách”Kinh tế học” của D.Begg tác giả đã đưa ra hai định
nghĩa về vốn hiện vật và vốn tài chính của doanh nghiệp. Vốn hiện vật là dự trữ
các hàng hóa đã sản xuất ra để sản xuất các hàng hóa khác, vốn tài chính là tiền
và các giấy tờ có giá của doanh nghiệp.
Các quan điểm về vốn ở trên tuy thể hiện được vai trò tác dụng trong những
điều kiện lịch sử cụ thể với các yêu cầu, mục đích nghiên cứu cụ thể nhưng vẫn

bị hạn chế bởi sự đồng nhất vốn với tài sản của doanh nghiệp. Thực chất vốn là
biểu hiện bằng tiền, là giá trị tài sản mà doanh nghiệp đang nắm giữ. Vốn là tài
sản, là hai mặt giá trị và hiện vật của một bộ phận nguồn lực sản xuất mà doanh
nghiệp huy động vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, vốn được quan niệm là một lượng tiền
nào đó đã được đưa vào sử dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh hay quá
trình sản xuất và tái sản xuất xã hội với tư cách là phương tiện tạo ra giá trị tăng
thêm cho cá nhân và xã hội. Khái niệm này không những chỉ ra vốn là yếu tố
đầu vào của sản xuất mà còn đề cập đến sự tham gia của vốn không chỉ bó hẹp
trong một quá trình sản xuất riêng biệt, chia cắt mà trong toàn bộ mọi quá trình
sản xuất và tái sản xuất lên tục trong xuốt thời gian tồn tại của doanh nghiệp. Để
tiến hành sản xuất kinh doanh, bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng phải đòi hỏi
có một lượng vốn nhất định nhằm thực hiện các khoản đầu tư cần thiết ban đầu
như: Chí phí thành lập doanh nghiệp, chi phí mua nguyên vật liệu, trả tiền công,
lãi vay, chi phí tiền thuê mặt bằng sản xuất…Đồng thời đầu tư công nghệ mua
sắm máy móc thiệt bị để tái sản xuất mở rộng, phát triển doanh nghiệp. Do vậy
vốn đưa vào sản xuất kinh doanh có nhiều hình tái vật chất khác nhau để từ đó
tạo ra hàng hóa dịch vụ nhằm tiêu thụ trên thị trường. Số tiền doanh nghiệp thu
về sau quá trình tiêu thụ phải bù đắp được các chi phí bỏ ra và có lãi. Khi đó, số
tiền vốn ban đầu thu được tăng thêm nhờ hoạt động sản xuất kinh doanh và có
lãi. Quá trình này diễn ra liên tục đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp.
Như vậy vốn là yếu tố có tính chất quyết định trong hoạt động sản xuất kinh
doanh. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phả quản lý và sử dụng vốn có hiệu
quả để bảo toàn và phát triển vốn đảm bảo cho doanh nghiệp ngày càng lớn
mạnh. Việc nhận thức đầy đủ hơn về vốn cũng như đặc trưng của vốn giúp
doanh nghiệp hiểu rõ tầm quan trọng và giá trị của đồng vốn để sử dụng nó một
cách hiệu quả. Sau đây là các đặc trưng cơ bản của vốn:
• Vốn phải được đại diện cho một lượng tài sản nhất định, có nghĩa là
vốn phải được biểu hiện bằng giá trị của tài sản hữu hình và tài sản vô

hình của doanh nghiệp.
• Vốn phải được tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định mới có thể
phát huy tác dụng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
• Vốn có giá trị về mặt thời gian điều này có ý nghĩa lớn khi bỏ vốn vào
đầu tư và tính hiệu quả sản xuất sử dụng của đồng vốn.
• Vốn phải được gắn liền với chủ sở hữu nhất định, không thể có đồng
vốn vô chủ và không có ai quản lý.
• Vốn được quan niệm như hàng hóa và là một hàng hóa đặc biệt có thể
mua bán quyền sử dụng vốn trên thị trường, tạo lên sự giao lưu sôi
động trên thị trường, vốn thị trường tài chính.
• Vốn không chỉ biểu hiện bằng tiền của các tài sản hữu hình mà còn
được biểu hiện bằng tiền của những tài sản vô hình.
Trong doanh nghiệp vốn là biểu hiện bằng tiền của tất cả các tài sản dùng
trong sản xuất kinh doanh. Thông thường,trong các doanh nghiệp có hai loại tài
sản: Tài sản lưu động và tài sản cố định. Do đó, kết cấu của tài sản cố định cũng
chính là kết cấu của vốn cố định và kết cấu của tài sản lưu động cũng chính là
kết cấu của vốn lưu động. Đồng thời quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn cũng
chính là quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản của doanh nghiệp.
1.2.Nguồn vốn
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp có thể được hình thành từ nhiều nguồn
khác nhau. Tuy nhiên mỗi loại hình doanh nghiệp cũng chỉ có thể khai thác,
huy động vốn trên một số nguồn nhất định. Vì thế người ta có thể căn cứ vào
nguồn hình thành vốn kinh doanh của doanh nghiệp để nhận biết doanh
nghiệp đó thuộc loại nào, như doanh nghiệp có vốn kinh doanh chủ yếu thuộc
nguồn vốn ngân sách nhà nước thì đó là doanh nghiệp nhà nước, hoặc một số
doanh nghiệp khác có vốn kinh doanh từ nguồn vốn kinh doanh tự có hay cổ
phần thì đó là doanh nghiệp tư nhân hay một công ty cổ phần.
Như vậy qua trên cho ta thấy:
Để tiến hành bất kỳ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng đều phải
có một lượng vốn nhất định có sẵn. Khác với thời kỳ bao cấp, trong nền kinh

tế thị trường lượng vốn đó không phải là có sẵn mà trong đó các doanh
nghiệp phải chủ động khai thác, thu hút vốn trên thị trường tài chính.
Mục đích vận động của vốn là để sinh lời. Trong quá trình vận động đồng
vốn có thể thay đổI hình thái biểu hiện, nhưng điểm xuất phát và điểm cuốI
cùng của vòng tuần hoàn phải là giá trị, là tiền.
Vì vậy khi đồng tiền không luân chuyển được, vật tư thiết bị chậm luân
chuyển thì chỉ là “vốn chết”. Mặt khác tiền có vận động nhưng lại bị thất tán,
không quay về nơi xuất phát với giá trị lớn hơn thì đồng vốn bỏ ra không
được bảo toàn, chu kỳ vận động tiếp theo sẽ bị ảnh hưởng.
2.Phân loại vốn kinh doanh của doanh nghiệp
Để nhận biết được đúng đắn và đầy đủ về những hình thức tồn tại của vốn
kinh doanh, người ta phải tiến hành phân loại vốn kinh doanh theo những tiêu
thức khác nhau, để từ đó có thể quản lý và khai thác triệt để vốn, cũng như việc
phát triển tiềm năng về vốn.
2.1.Phân loại vốn theo nguồn hình thành
Theo cách phân loại này thì vốn kinh doanh của doanh nghiệp gồm có:
Nguồn vốn chủ sở hữu, nguồn vốn vay, các nguồn vốn khác.
• Nguồn vốn chủ sở hữu: Là nguồn vốn kinh doanh được đầu tư từ các
chủ doanh nghiệp. Nguồn vốn này doanh nghiệp hoàn tòan có quyền
chủ động sử dụng vào mục đích kinh doanh. Đối với doanh nghiệp
nhà nước thì vốn chủ sở hữu được hình thành từ ngân sách và một
phần đựợc trích từ lợi nhuận của doanh nghiệp, công ty cổ phần thì do
các cổ đông đóng góp, còn doanh nghiệp tư nhân thì có chủ doanh
nghiệp bỏ ra…
• Nguồn vốn vay: Là vốn mà doanh nghiệp được khai thác trên cơ sở
chế độ, chính sách của nhà nước như: Vay ngân hàng, vay của các tổ
chức tín dụng…Và phải trả lãi suất theo quy định của ngân hàng hoặc
theo thỏa thuận với chủ nợ. Các khoản vốn này các doanh nghiệp tạm
thời sử dụng trong thời gian nhất định. Ngoài ra việc phát hành trái
phiếu cũng là hình thức vay vốn, cho phép các doanh nghiệp có thể

thu hút rộng rãi số tiền nhàn rỗi để mở rộng hoạt động kinh doanh sản
xuất của minh.
• Các nguồn vốn khác bao gồm các loại vốn được hình thành như: Liên
doanh, bán cổ phần…
Việc phân loại này giúp cho nhà quản lý biết được khả năng tự chủ về tài
chính của doanh nghiệp, biết được đặc điểm tính chất của từng nguồn vốn. Từ
đó để khai thác và huy động vốn cho phù hợp.
2.2.Phân loại theo đặc điểm chu chuyển
2.2.1.Vốn cố định
a.Khái niệm và đặc điểm của vốn cố định.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, sự vận động của vốn cố định được gắn
liền với hình thái biểu hiện vật chất của nó là tài sản. Vì vậy việc nghiên cứu về
vốn cố định trước hết phải dựa trên cơ sở về tài sản cố định.
Tài sản cố định: Là những tư liệu lao động có giá trị lớn, được tham gia một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Trong
quá trình đó, giá trị của tài sản cố định không bị tiêu hao hoàn toàn trong lần sử
dụng đầu tiên mà nó được chuyển dịch dần dần từng phần vào giá trị sản phẩm
của các chu kỳ sản xuất tiếp theo.
Để nhận biết tài sản cố định ta có tiêu chuẩn:
• Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ tài sản này.
• Phải xác định rõ ràng nguyên giá của tài sản này.
• Có thời gian sử dụng một năm trở lên.
• Phải đạt giá trị tối thiểu ở một mức quy định(Việt Nam là 10 triệu
VNĐ).
Vậy vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước
về tài sản cố định, mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần trong nhiều chu
kỳ sản xuất kinh doanh và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi tài sản cố định
hết thời gian sử dụng.
Trong nền sản xuất hàng hóa, để mua sắm, xây dựng tài sản cố định trước
hết phải có một số vốn ứng trước, là khoản vốn ứng trước về tài sản cố định,

quy mô của vốn cố định sẽ quyết định quy mô của tài sản cố định. Song đặc
điểm vận động của tài sản cố định lại quyết định đến đặc điểm tuần hoàn của
chu chuyển vốn cố định. Vốn cố định vận động trong sản xuất kinh doanh đựơc
khái quát: Tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, được luân chuyển dần dần từng
phần, sau thời gian dài vốn cố định mới hoàn thành một vòng luân chuyển vốn.
Qua đó có thể thấy được thời gian chu chuyển vốn cố định rất dài. Vì vậy,
doanh nghiệp vừa phải quản lý giá trị tài sản cố định, vừa phải quản lý thời gian
sử dụng chúng sao cho hợp lý.
Ta thấy một điều rõ rằng tài sản cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất
kinh doanh, nhìn chung không bị thay đổi về hình thái hiện vật, trong quá trình
đó giá trị của tài sản cố định không bị tiêu hao hoàn toàn trong lần sử dụng đầu
tiên mà nó được chuyển dịch dần dần từng phần vào giá thành sản phẩm của
chu kỳ tiếp theo. Có hiện tượng đó là do quá trình tham gia vào sản xuất tài sản
cố định đã bị hao mòn.
Có hai loại hao mòn: Hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình.
• Hao mòn hữu hình: Là sự giảm tuyệt đối cả về mặt giá trị của tài sản
cố định và giá trị sử dụng do quá trình phục vụ sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp và do sự tác động của yếu tố tự nhiên.
• Hao mòn vô hình: Là sự giảm tương đối cả về mặt giá trị của tài sản
cố định do phát triển khoa học kỹ thuật và sự hoàn thiện đạt được
trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh.
Tóm lại, vốn cố định là cơ sở vật chất cho quá trình sản xuất của doanh
nghiệp. Doanh nghiệp không thể bắt đầu quá trình sản xuất kinh doanh nếu
không có đầy đủ trang thiết bị cần thiết. Kết hợp với trình độ, khả năng quản lý,
vốn cố định quyết định năng lực sản xuất của doanh nghiệp và góp phần chính
trong việc xác lập vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Không những nó có ý
nghĩa cho quá trình sản xuất hiện tại,vốn cố định còn thể hiện khả năng hướng
phát triển của doanh nghiệp trong tương lai.
b.Phân loại vốn cố định
Phân loại vốn cố định là việc phân chia toàn bộ tài sản cố định hiện có của

doanh nghiệp theo những tiêu thức nhất định nhằm phục vụ cho những yêu cầu
quản lý của doanh nghiệp.
b.1.Phân loại tài sản cố định theo hình thái biểu hiện:
Có tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình.
• Tài sản cố định hữu hình là những tư liệu lao động chủ yếu có hình
thái vật chất cụ thể, có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài, tham
gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh nhưng vẫn giữ nguyên hình thái giá
trị vật chất ban đầu như nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc thiết bị.
• Tài sản cố định vô hình là những tài sản không có hình thái vật chất cụ
thể, thể hiện một lượng giá trị lớn đã đầu tư có liên quan và phát huy
tác dụng trong nhiều kỳ kinh doanh của doanh nghiệp như: Chi phí

×