Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

Những vấn đề lý luận cơ bản về phương thức tín dụng chứng từ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.57 KB, 39 trang )

Những vấn đề lý luận cơ bản về phơng thức tín dụng
chứng từ
I. Những vấn đề cơ bản về hoạt động thanh toán quốc tế
1. Khái niệm, sự ra đời, quá trình phát triển và xu thế phát triển của
hoạt động thanh toán quốc tế.
Nh trên đã đề cập thì chúng ta biết rằng thanh toán quốc tế là việc thực hiện
nghĩa vụ chi trả bằng tiền tệ phát sinh từ các quan hệ kinh tế, thơng mại, tài chính,
tín dụng giữa các tổ chức kinh tế quốc tế, giữa các hãng, các cá nhân của các nớc
khác nhau để kết thúc một chu trình hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại
bằng nhiều phơng thức thanh toán.
Thơng mại quốc tế ra đời và kéo theo thanh toán quốc tế ra đời là nh một hệ
quả tất yếu bởi thanh toán là một yếu tố quan trọng trong hoạt động thơng mại.
Cùng với sự phát triển của thơng mại quốc tế thì thanh toán quốc tế cũng phát
triển theo và ngày càng đa dạng. Từ quan hệ mua bán song phơng đến đa phơng,
nó không chỉ bó hẹp giữa những nớc cùng phe, cùng khối kinh tế mà còn mở rộng
ra giữa các phe, khác khối kinh tế từ hình thức thanh toán sơ khai là hàng đổi
hàng cho đến khi thanh toán bằng tiền mặt và thanh toán không dùng tiền mặt
thông qua hệ thống tài khoản của các ngân hàng. Xét về thời điểm thì ở nớc ta có
thể chia thành 2 thời điểm sau:
Thứ nhất là thời điểm trớc 1990:
ở thời kỳ này thì hoạt động thanh toán quốc tế mang màu sắc chính trị,
chúng ta chỉ giao dịch với các nớc trong phe, khối kinh tế. Việt Nam chỉ quan hệ
với các nớc trong khối XHCN, việc thanh toán hết sức tuỳ tiện và tự bởi vì tỷ giá
thì đợc Nhà nớc áp đặt và đồng thời việc thanh toán đợc kết toán theo thời kỳ là
hàng năm.
Thứ hai là sau 1990:
ở thời kỳ này do bối cảnh kinh tế thay đổi, chuyển từ đối đầu sang đối
thoại, với xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá hỗ trợ và hợp tác cùng phát triển.
Cùng với sự phát triển vợt bậc của khoa học công nghệ đặc biệt là sự ứng dụng
của công nghệ tin học vào mọi lĩnh vực trong cuộc sống do vậy thơng mại quốc tế
đặc biệt phát triển và dĩ nhiên là theo đó thanh toán quốc tế cũng phát triển cả về


chiều rộng lẫn chiều sâu. Việt Nam đổi phơng thức thanh toán đặc biệt khi khối
XHCN sụp đổ ở Đông Âu, công tác thanh toán chuyển sang thời kỳ mới với
những nhiệm vụ lớn đặt ra để đáp ứng đợc nhu cầu phát triển đó là:
+ Thanh toán nhanh, kịp thời và chính xác.
+ An toàn và hiệu quả cho vốn bằng ngoại tệ.
Trong những năm gần đây, do cơ cấu thị trờng xuất nhập khẩu nớc ta đợc
mở rộng không chỉ với các nớc XHCN mà còn quan hệ rất nhiều với các nớc t bản
chủ nghĩa theo phơng thức sòng phẳng trong quan hệ thanh toán, điều này dẫn tới
việc thanh toán quốc tế cũng phải chuyển hớng theo để phục vụ. Hoạt động thanh
toán quốc tế phải nhanh chóng, chính xác và hiệu quả, tránh đọng vốn cho cả ngời
bán lẫn ngời mua điều này hết sức quan trọng bởi yếu tố vốn đặc biệt có vai trò
quan trọng trong hoạt động kinh doanh hiện nay khi mà thị trờng vốn, thị trờng
ngoại hối phát triển, mỗi một đồng chi phí bảo toàn số tiền đó ...). Cụ thể trong
quan hệ mua bán thì ngời mua muốn có đợc hàng theo đúng những yêu cầu mà họ
mong muốn nhng đồng thời cũng phải trả tiền quá sớm, đơng nhiên ngợc lại ngời
bán cũng muốn xuất đợc hàng và thu đợc tiền sớm cho quá trình quay vòng tiếp
theo cho số tiền của họ.
2. Những điều kiện cần quan tâm trong thanh toán quốc tế.
Trong quan hệ thanh toán giữa các nớc, các vấn đề có liên quan đến quyền
lợi và nghĩa vụ mà đôi bên phải đề ra để giải quyết và thực hiện đợc quy lại thành
các điều kiện gọi là điều kiện thanh toán quốc tế. Các điều kiện đó thờng gồm:
+ Điều kiện về tiền tệ
+ Điều kiện về địa điểm
+ Điều kiện về thời gian
+ Điều kiện về phơng thức thanh toán
Nghiệp vụ thanh toán quốc tế là sự vận dụng tổng hợp các điều kiện thanh
toán quốc tế. Những điều kiện này đợc thể hiện ra trong các điều khoản thanh
toán của các hiệp định thơng mại, các hiệp định trả tiền ký kết giữa các nớc, các
hợp đồng mua bán ngoại thơng ký kết giữa ngời mua và ngời bán.
Trong nghiệp vụ thanh toán trong nớc, chúng ta cần phải nghiên cứu kỹ các

điều kiện thanh toán quốc tế để có thể vận dụng chúng một cách tốt nhất trong
việc ký kết và thực hiện các hợp đồng mua bán ngoại thơng, nhằm phục tùng các
yêu cầu của chính sách kinh tế đối ngoại của Nhà nớc, tận dụng đợc những điều
kiện có lợi cho ta và đặc biệt là tránh những rủi ro có thể đem lại những tổn thất
lớn cho chúng ta cả trong hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu.
a. Điều kiện về tiền tệ
Ta biết rằng mỗi nớc đều có một đồng tiền riêng, vậy khi phát sinh việc
thanh toán giữa các nớc thì phải chọn đồng tiền của nớc nào để thanh toán? Và
phải xử lý nh thế nào khi giá trị của đồng tiền này biến động?
Lẽ dĩ nhiên nớc nào cũng muốn chọn đồng tiền nớc mình trong thanh toán
bởi vì nhiều lý do nh: Nâng vị thế đồng tiền, chủ động đợc nguồn tiền trong thanh
toán, tránh đợc biến động tỷ giá. Nhng chọn đồng tiền nào lại không thể giải
quyết đợc theo ý muốn chủ quan của mỗi nớc tham gia thanh toán mà nó phụ
thuộc vào tơng quan so sánh lực lợng trong quan hệ thơng mại, đồng tiền đợc
chọn phải có vị trí xứng đáng, phải nằm trong khuôn khổ ngành hàng ...
Và một việc bắt buộc phải thực hiện trong khi lựa chọn đồng tiền là thoả
thuận đợc điều kiện đảm bảo cho đồng tiền đợc lựa chọn là đồng tiền thanh toán
(đảm bảo giá trị đồng tiền khi thanh toán đúng nh giá trị hàng hoá khi trao đổi để
tránh rủi ro biến động tỷ giá gây tổn thất cho ngời mua hoặc ngời bán. Thờng có
các điều kiện đảm bảo hối đoái sau:
+ Đảm bảo bằng vàng
+ Đảm bảo bằng một đồng tiền mạnh
+ Đảm bảo bằng tổ tiền tệ
+ Đảm bảo bằng tiền tệ thế giới
+ Đảm bảo theo chỉ số quốc tế của hàng hoá.
b. Điều kiện về địa điểm thanh toán
Nhìn chung trong hoạt động thanh toán quốc tế giữa các nớc bên nào cũng
muốn trả tiền tại nớc mình, lấy nớc mình làm địa điểm thanh toán vì những lợi ích
mà nó mang lại nh:
+ Tăng địa vị thị trờng tiền tệ nớc đó trên thế giới

+ Sử dụng tối đa hiệu quả đồng vốn trong thanh toán
+ Tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng sở tại có thu nhập thông qua việc
thu phí thanh toán.
Trong thanh toán ngoại thơng địa điểm thanh toán có thể ở nớc ngoài nhập
khẩu, hoặc ở nớc ngoài xuất khẩu, hoặc ở nớc ngời thứ ba. Nhng trong thực tế,
việc xác định địa điểm thanh toán là do sự so sánh lực lợng giữa hai bên quyết
định, đồng thời cũng còn thấy rằng dùng đồng tiền của nớc nào thì địa điểm thanh
toán là ở nớc ấy.
c. Địa điểm về thời gian thanh toán.
Thanh toán tiền khi nào? Trớc, trong hay sau khi giao hàng? Đó chính là
điều kiện quan trọng mà hai bên phải thoả thuận đợc trong thanh toán bởi vì điều
kiện thời gian thanh toán có quan hệ chặt chẽ với việc luân chuyển vốn, lợi tức,
khả năng có thể tránh đợc những biến động về tiền tệ thanh toán, do đó nó là vấn
đề quan trọng, thờng xảy ra tranh chấp giữa các bên trong đàm phán ký kết hợp
đồng. Thông thờng có ba cách thanh toán sau:
+ Trả tiền ngay (thực chất là ngời nhập khẩu cấp tín dụng cho ngời xuất
khẩu)
+ Trả tiền ngay (là hình thức trả tiền trong khoảng thời gian từ lúc chuẩn bị
xong hàng để bốc lên tầu cho đến khi hàng đã đến tay ngời mua).
+ Trả tiền sau (thực chất là ngời nhập khẩu cấp tín dụng cho nhập khẩu).
d. Điều kiện về phơng thức thanh toán
Trong tất cả các điều kiện thanh toán quốc tế thì phơng thức thanh toán là
điều kiện quan trọng bậc nhất. Hiểu một cách nôm na thì phơng thức thanh toán là
việc ngời bán dùng cách nào để thu tiền về, ngời mua dùng cách nào để trả tiền
cho ngời bán. Trong buôn bán ngời ta có thể lựa chọn nhiều thanh toán quốc tế
khác nhau để thu tiền về hoặc trả tiền. Nhng dù chọn phơng thức nào cũng phải
xuất phát từ yêu cầu của ngời bán là thu tiền nhanh, đầy đủ và đúng và từ yêu cầu
của ngời mua là nhập hàng đúng số lợng, chất lợng và đúng hạn.
Trong ngoại thơng thờng dùng các phơng thức thanh toán sau:
! Phơng thức chuyển tiền (Remittance):

Phơng thức chuyển tiền là phơng thức thanh toán giản đơn nhất, là ngời
mua (hay gọi là nhập khẩu) thông qua ngân hàng gửi tiền trả cho ngời bán (ngời
xuất khẩu). Loại này ít đợc dùng trong thanh toán quốc tế bởi vì một điều đơn
giản là việc trả tiền cho ngời bán tuỳ thuộc vào thiện chí của ngời mua, nh vậy
đứng về phía ngời bán thì quyền lợi của họ không đợc đảm bảo, thờng ngời ta sử
dụng phơng thức này trong nghiệp vụ trả tiền ứng trớc, trả tiền phạt, trả tiền hoa
hồng ...
! Phơng thức nghi sổ hay có thể gọi là phơng thức mở tài khoản (Open
Account):
Phơng thức nghi sổ là thoả thuận giữa ngời bán và ngời mua trong đó hàng
hoá đợc sản xuất và giao trớc khi thanh toán. Phơng thức nghi sổ cho phép thanh
toán vào một ngày quy định cụ thể trong tơng lai và ngời mua không cần phải
phát hành bất cứ chứng từ nhận nợ có thể chiết khấu nào để chứng minh cam kết
mang tính pháp lý của mình. Ngời mua phải tin tởng tuyệt đối vào việc anh ta sẽ
đợc thanh toán vào ngày thoả thuận. Ngời bán cần thiết là trong số trờng hợp có
thể chiết khấu các khoản phải thu theo phơng thức nghi sổ tại các tổ chức tài
chính. Phơng thức nàu đợc áp dung rộng rãi trong mậu dịch nội địa nhng rất ít
dùng trong mậu dịch quốc tế, bởi vì nó không có sự bảo đảm đầy đủ cho ngời xuất
khẩu thu kịp thời tiền hàng. Phơng thức thanh toán này đòi hỏi sự tin cậy rất cao
của ngời xuất khẩu đối với ngời nhập khẩu. Chủ yếu nó đợc áp dụng trong việc
thanh toán giữa các chi nhánh ở các nớc khác nhau của cùng một Công ty, hoặc
giữa các Công ty có quan hệ mua bán lâu đời và thờng xuyên và mua bán với số l-
ợng không lớn lắm, hoặc để trả tiền hoa hồng và tiền hàng gửi bán.
! Phơng thức nhờ thu (Collection):
Phơng thức nhờ thu là phơng thức mà ngời bán sau khi giao hàng thù ký
phát hối phiếu đòi tiền ngời mua, rồi đến ngân hàng nhờ thu hộ số tiền trên hối
phiếu đó. Thông thờng, quyền sở hữu hàng hoá không chuyển sang ngời mua (trừ
khi ngời mua đợc chỉ định là ngời nhận hàng trên chứng từ vận tải) cho đến khi
hối phiếu đợc ngời mua thanh toán hay chấp nhận thanh toán. Phơng thức nhờ thu
thờng gắn với việc bán hàng chứ không phải cung cấp dịch vụ. Phơng thức nhờ

thu có hai loại nhờ thu là: Nhờ thu phiếu trơn và nhờ thu kèm chứng từ.
+) Nhờ thu phiếu trơn (Clean Collection):
Nhờ thu phiếu trơn là ngời bán nhờ ngân hàng thu hộ tiền của hối phiếu ở
ngời mua không kèm theo một điều kiện nào cả. Cùng với việc gửi hàng hoá cho
ngời mua, ngời bán gửi thẳng chứng từ cho ngời mua để đi nhận hàng. Phơng thức
này không phù hợp trong thanh toán hàng hoá xuất nhập khẩu, bởi vì nếu ngời
mua không tốt thì họ có thể chấp nhận hàng nhng lại có thể gây khó khăn cho việc
trả tiền cho ngời bán, hoặc ngời mua cũng có thể gặp rủi ro trong trờng hợp họ
thanh toán ngay hối phiếu đòi hỏi tiền của ngời bán nhng không biết ngời bán
giao hàng nh thế nào vì chứng từ gửi hàng không đi kèm với hối phiếu. Chính vì
vậy, trong ngoại thơng ngời ta ít dùng phơng thức này, chỉ trong thanh toán phi
mậu dịch nh thu tiền cớc phí vận tải, phí bảo hiểm, hoa hồng ... phơng thức này
mới đợc sử dụng rộng rãi.
+) Nhờ thu kèm chứng từ (Documentary Collection):
Nhờ thu kèm chứng từ là ngời bán chuyển cho ngân hàng hối phiếu cùng
bộ chứng từ gửi hàng để nhờ thu tiền ở ngời mua với điều kiện là ngời mua trả tiền
hoặc chấp nhận trả tiền hối phiếu thì ngân hàng mới giao toàn bộ chứng từ để đi
nhận hàng. Có hai loại nhờ thu kèm chứng từ (tơng ứng với nó là hai loại hối
phiếu: Hối phiếu trả ngay và hối phiếu trả chậm).
Nhờ thu trả tiền đổi chứng từ (D/ P Documents against payment):
Phơng thức này áp dụng cho trờng hợp mua hàng trả tiền ngay, ngời bán
sau khi giao hàng, lập đầy đủ chứng từ cần thiết mang đến cho ngân hàng nhờ thu
tiền hàng. Ngân hàng này chọn ngân hàng đại lý ở tại nớc ngời mua để thu hộ số
tiền đó. Ngân hàng đại lý báo cho ngời mua biết và chỉ trai chứng từ nhận hàng
cho ngời mua khi ngời mua đến trả tiền ngay hối phiếu đó. Sau khi thu đợc tiền
ngân hàng đại lý chuyển số tiền nhờ thu cho ngân hàng uỷ thác để giao cho ngơì
bán, đồng thời thu thủ tục phí và các chi phí khác có liên quan ở ngân hàng uỷ
thác (thờng khoản này do ngời bán chịu)
Nhờ thu chấp nhận đổi chứng từ (D/A - Documents acceptance)
Trình tự tiến hành và nội dung của phơng thức này cũng giống nh phơng

thức nhờ thu tiền đổi chứng từ nhng khác ở chỗ chỉ cần ngời mua chấp nhận trả
tiền (hối phiếu trả chậm) thì ngân hàng trao toàn bộ chứng từ cho ngời mua để đi
nhận hàng. Ngời mua chấp nhận trả tiền bằng cách ký hậu vào hối phiếu, đến khi
hối phiếu tới hạn ngời mua phải trả tiền cho ngời hởng lợi của hối phiếu.
Nhìn chung phơng thức nhờ thu kèm chứng từ có đảm bảo hơn với ngời
bán, vì ngời bán đã có ngân hàng khống chế chứng từ tức là ngời bán đợc chắc
chắn rằng ngời mua sẽ chỉ nhận đợc hàng khi trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền. Tuy
nhiên nh thế không có nghĩa là không có bất lợi nào cho phía ngời bán bởi có thể
xảy ra trờng hợp từ chối không nhận chứng từ, lẽ đơng nhiên quyền sở hữu hàng
hoá vẫn nằm trong tay ngời bán nhng hàng đã gửi đi mà không có ngời nhận sẽ
gặp khó khăn trong việc tiêu thụ, quá trình thu hồi - quay vòng vốn bị chậm lại.
Ngoài ra theo phơng thức này thời gian thu tiền về còn chậm vì ngân hàng không
trả thay cho ngời mua hay là ngân hàng không cấp tín dụng cho ngời mua nó chỉ
đóng vai trò trung gian - thu hộ.
! Phơng thức tín dụng chứng từ (Documentary credits): Phơng thức này
sẽ đợc trình bày chi tiết phần II - chơng I
II. Những vấn đề cơ bản về phơng thức tín dụng chứng từ.
1. Khái niệm về phơng thức tín dụng chứng từ
Định nghĩa về tín dụng chứng từ đợc dịch trong quyển hớng dẫn áp dụng
điều lệ và thực hành thống nhất tín dụng chứng từ bản sửa đổi năm 1993 số 500
(1993 revision ICC publication No 500) nh sau:
Trong phạm vi của bản điều lệ 500, các thuật ngữ "Tín dụng chứng từ" và
"Tín dụng dự phòng (sau đây gọi là "Tín dụng th - TDT") nghĩa là bất cứ thoả
thuận đợc gọi hoặc miêu tả nh thế nào, theo đó ngân hàng (ngân hàng phát
hành) hành động đúng yêu cầu và theo chỉ thị của khách hàng (ngời yêu cầu mở
TDT) hoặc nhận danh cho chính bản thân mình.
1. Thanh toán cho hoặc theo lệnh của phía thứ ba (ngời hởng) hoặc chấp
nhận và thanh toán hối phiếu do ngời hởng lợi ký phát,
Hoặc
2. Uỷ quyền cho ngân hàng khác thanh toán, chấp nhận và thanh toán

hối phiếu đó,
Hoặc
3. Cho phép ngân hàng khác chiết khấu chứng từ quy định trong TDT với
điều kiện chúng phù hợp với tất cả các điều khoản và điều lệ của TDT. Với mục
đích của Bản điều lệ 500, các chi nhánh của một ngân hàng ở các nớc khác
nhau đợc coi là những ngân hàng khác nhau.
Một cách ngắn gọn chúng ta có thể hiểu: Tín dụng chứng từ cam kết bằng
văn bản do một ngân hàng phát hành thay mặt ngời mua (bên xin mở) hoặc cho
chính mình, cam kết trả tiền cho ngời hởng số tiền bằng trị giá hối phiếu và hoặc
chứng từ với điều kiện là chúng phù hợp với các điều kiện và điều khoản của tín
dụng chứng từ.
Thoả thuận theo tín dụng chứng từ thờng đáp ứng đợc mong muốn thu
tiền mặt của ngời bán và mong muốn đợc cấp tín dụng của ngời nhập khẩu.
Công cụ tài chính này phục vụ lợi ích hai bên một cách độc lập. Tín dụng chứng
từ đa ra một phơng thức độc đáo và toàn diện để đạt đợc mục đích, sự công
bằng của cả ngời mua và ngời bán một cách tơng đối bằng cách đạt đợc một
cam kết có thể chấp nhận về mặt thơng mại bằng cách đảm bảo thanh toán khi
có chứng từ chứng minh hàng hoá phù hợp và cho phép chuyển quyền sở hữu
hàng hoá.
2. Tính chất của phơng thức tín dụng chứng từ
Trên phơng diện của các ngân hàng phơng thức tín dụng chứng từ có những
tính chất sau:
Trong chu trình của phơng thức tín dụng chứng từ thì ngân hàng chỉ đóng
vai trò trung gian cung cấp dịch vụ (mở L/C, cấp tín dụng, thông báo th tín dụng,
chiết khấu hối phiếu, xác nhận ...). Và đặc biệt trong phơng thức này ngân hàng
thực hiện nghiệp vụ của mình chỉ căn cứ trên văn bản chứng từ chứ không căn cứ
trên hàng hoá, hay mối quan hệ giữa ngời mua với ngời bán. Dù cho dẫn chiếu
Hợp đồng thơng mại vào L/C theo cách này hay cách khác thì trách nhiệm thanh
toán của ngân hàng không ảnh hởng, hoặc ràng buộc bởi những tranh chấp, khiếu
nại phát sinh từ việc thực hiện Hợp đồng. Do tính chất độc lập của L/C đối với

Hợp đồng nên trách nhiệm ngân hàng phát hành hoàn toàn không ảnh hởng gì bởi
khiếu nại của ngời mở xuất phát từ mối quan hệ làm ăn với ngời hởng. Ngay khi
quan hệ giữa ngân hàng với ngời mở có những đặc ân nào đó mà sau này phát sinh
rủi ro trong việc thanh toán L/C thì ngân hàng cũng không đợc quyền từ chối
nghĩa vụ của mình đối với L/C, hoặc do quan hệ gắn bó giữa mình với ngân hàng
phát hành mà ngời mở L/C không thể yêu cầu hay thuyết phục ngân hàng này
không hoặc hoãn thanh toán chứng từ vì ngời hởng vi phạm hợp đồng. Tơng ứng
nh vậy vì ngời hởng cũng phải có nghĩa vụ cân bằng với ngời mở nh: Không đợc
đòi hỏi ngân hàng phát hành về khả năng thanh toán của ngời mở ... Điều này đợc
quy định khó rõ trong điều 3, điều 4 của UCP 500:
Điều 3:
a. Về bản chất TD là những giao dịch riêng biệt với hợp đồng thơng mại và
các loại hợp đồng khác mà các hợp đồng này có thể là cơ sở cho TDT, nhng các
ngân hàng bất luận trong trờng hợp nào cũng không liên quan đến, hoặc không
thể ràng buộc bởi những hợp đồng đó, ngay cả khi TDT có dẫn chiếu đến hợp
đồng đó. Vì thế cam kết của ngân hàng vê thanh toán, chấp nhận và thanh toán
hối phiếu, hoặc chiết khấu và hoặc thực thi bất cứ nghĩa vụ nào của TDT không
phụ thuộc vào khiếu nại hoặc biện hộ của ngời mở phát sinh từ mối quan hệ của
ngời mở với ngân hàng phát hành hoặc với ngời hởng.
b. Trong bất cứ trờng hợp nào cũng không đợc lợi dụng quan hệ hợp đồng
giữa các ngân hàng, hoặc giữa ngời mở với ngân hàng phát hành TDT.
Điều 4:
Trong giao dịch tín dụng chứng từ, tất cả các bên liên quan chỉ thực hiện
căn cứ trên chứng từ chứ không căn cứ vào hàng hoá, các dịch vụ và hoặc các
công việc khác mà các chứng từ đó có thể liên quan.
Một số doanh nghiệp khi mới tham gia hoạt động xuất nhập khẩu trực tiếp
thờng ngộ nhận: TDT mở để mua hàng theo hợp đồng, nhng hàng kém phẩm chất,
không đúng qui cách ... thì sao lại phải trả tiền cho ngời bán? nghe rất có lý, nhng
thực ra chính nhà nhập khẩu đã hiểu cha đúng vấn đề. Ngân hàng mở TDT chỉ ng-
ng không thanh toán bộ chứng từ hợp lệ khi có phán quyết của toà án của nớc sở

tại. Trong trờng hợp này ngời nhập khẩu chỉ có thể có quyền kiện ngời xuất khẩu
trên cơ sở hợp đồng thơng mại chứ không thể từ chối thanh toán.
Để hiểu rõ hơn về phơng thức thanh toán này chúng ta xem xét chu trình
thực hiện của phơng thức này.
3. Chu trình thực hiện của phơng thức tín dụng chứng từ
a. Trình tự thực hiện của phơng thức tín dụng chứng từ
Trình tự thực hiện của phơng thức tín dụng chứng từ bao gồm những bớc cơ
bản sau;
Ngời mua căn cứ vào hợp đồng làm đơn xin mở một th tín dụng
(Letter of Credit, viết tắt L/C) tại một ngân hàng nhất định, mà hai bên mua bán
đã thoả thuận trong hợp đồng, yêu cầu ngân hàng này trả tiền cho ngời bán nếu
ngời bán nộp bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những qui định trng th tín dụng
(bớc 1, 2 trong mô hình qui trình thanh toán).
Ngân hàng mở L/C căn cứ vào đơn xin mở L/C, mở L/C và thông
quan ngân hàng thông báo ở nớc ngời bán (ngời xuất khẩu) thông báo cho ngời
bán biết về L/C đó rồi gửi bản chính của L/C cho ngời bán (bớc 3).
Ngời bán kiểm tra kỹ nội dung của L/C, nếu chấp thuận - thì tiến
hành giao hàng hoá cho ngời mua theo L/C, nếu không chấp thuận mà cần phải
sửa đổi hoặc bổ sung những nội dung trong L/C thì ngời bán điện sửa đổi cho
ngân hàng mở L/C đề nghị ngời mua sửa lại L/C đó hoặc điện sửa đổi thẳng cho
ngời mua. Mọi nội dung sửa đổi phải có xác nhận của ngân hàng mở L/C mới có
hiệu lực. Văn bản sửa đổi trở thành một bộ phận cấu thành không thể tách rời L/C
cũ hay huỷ bỏ nội dung cũ (bớc 4, 5)
Sau khi hoàn thành việc giao hàng, ngời bán lập bộ chứng từ thanh
toán đa đến ngân hàng trong thời hạn xuất trình chứng từ (bớc 6). Thờng bộ chứng
từ bao gồm:
- Hoá đơn thơng mại (Commercial invoice):
Hoá đơn thơng mại gồm tất cả các chi tiết về nghiệp vụ hàng hoá. Nó đòi
hỏi các dữ kiện nh: tên và địa chỉ ngời mua, tên và địa chỉ và chữ ký có thẩm
quyền của bên bán, nhãn hiệu hàng hoá cùng số lợng, điều kiện giao hàng và

thanh toán, đơn giá và tổng giá trị, cách thức đóng gói, số lợng mỗi đơn vị đóng
gói ...
- Hợp đồng mua bán (Contract):
Hợp đồng mua bán đợc ký kết giữa ngời mua và ngời bán, hai bên cùng
thoả thuận với nhau về các điều khoản mà ngời mua và ngời bán phải thực hiện
nh: Đối tợng của hợp đồng (tên hàng, số lợng ...), điều kiện giao hàng (nói lên
nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi bên trong việc giao nhận hàng - trong thơng mại
quốc tế thờng áp dụng "Incoterms: International commercial - các điều kiện thơng
mại quốc tế" gồm 13 điều kiện chia làm 4 nhóm là: C (CFR: Cost + Fright, CIF:
Cost + Insurance + Freight, CPT: Carriage and Insurance Paid To), D (DES:
Delivered Ex Quay, DAF: Delivered At Erontier, DDP: Delivered Duty Paid,
DDU: Delevered Duty Unpaid), E (EXW: Ex Work), F (FAS: Free Alongside
Ship, FOB: Free on Board, FCA: Free Carrier), điều khoản giá cả (đồng tiền tính
giá, mức giá, phơng pháp quy định giá), phơng thức thanh toán, điều khoản pháp
lý ... Đặc biệt phải nghi rõ trong hợp đồng là hợp đồng sản xuất xác lập theo
Incoterms nào để có cơ sở giaỉ quyết khi có tranh chấp xảy ra và cũng để tránh
những lầm lẫn và những khó khăn trong việc áp dụng Incoterms (bởi vì Inconterm
chỉ là tập quán buôn bán quốc tế cho nên các bản Incoterm song song tồn tại - cả
bản cũ lẫn bảo chỉnh sửa do vậy phải nghi rõ là sử dụng Incoterms theo bản nào.
Mặc dù đến nay Incoterms, do phản ánh hầu hết những nguyên tắc và thực tiễn đã
đợc thừa nhận rộng rãi, có thể trở thành một bộ phận của hợp đồng mua bàn mà
không cần phải có sự dẫn chiếu tới, song các bên đợc khuyến cáo một cách mạnh
mẽ là nên đa vào hợp đồng). Dựa trên các điều khoản của hợp đồng mua bán mà
ngời mua viết đơn xin mở th tín dụng.
- Giấy chứng từ xuất xứ (Certificate of Origin):
Chứng từ này nói lên việc hàng hoá đó xuất xứ từ nớc nào, chứng từ này rất
quan trọng đối với các cơ quan chức năng của nớc nhập khẩu (nh Bộ ngoại thơng
hay cơ quan hải quan). Việc phát hành chứng từ này đợc thực hiện thông qua một
cơ quan đợc uỷ nhiệm ở nớc xuất khẩu tức phòng thơng mại.
- Hối phiếu (Bill of exchange):

Hối phiếu đợc ký phát bởi ngời hởng lợi để đòi tiền ngời mua, hối phiếu có
thể là hối phiếu trả ngay hoặc hối phiếu trả chậm.
- Vận đơn đờng biển/ hàng hải (Marine/ Ocean bill of lading) hoặc hàng
không (Airway bill) hoặc các chứng từ vận tải khác hoặc là chứng từ vận tải liên
hợp:
Là chứng từ gửi hàng tợng trng hàng hoá, xác nhận việc hàng hoá đã đợc
bốc dỡ lên tàu, lê máy bay hoặc các phơng tiện vận tải khác. Tuỳ từng loại mà yêu
cầu về số bản chính khác nhau.
Ví dụ: Vận đơn đờng biển đợc phát hành làm 3 bản chính và hàng hoá có
thể đợc tiếp nhận khi xuất trình một bản chính của Vận đơn và tất cả những bản
khác sẽ mất hiệu lực, 3 bản của vận đơn đờng biển thì ngời bán sau khi đợc hãng
tàu (ngời vận chuyển và có năng lực ký phát vận đơn) giao hàng hoá (tuy nhiên
cũng có trờng hợp ngời bán giao thẳng một bản cho ngời mua trong trờng hợp
hàng hoá về trớc chứng từ, đó là giao dịch giữa khách hàng của 2 nớc gần nhau:
Các nớc trong khối ASEAN, hoặc Việt Nam với ThaiLand, Singapore ... Tàu thuỷ
chỉ đi trong 2 - 3 ngày, trong lúc đó chứng từ phải đợc soạn thảo, qua thủ tục 2
ngân hàng, gởi bu điện ...). Vận đơn đờng biển có 3 chức năng:
- Vận đơn là bằng chứng xác nhận hợp đồng chuyên chở đã đợc ký kết thực
hiện và chỉ rõ nội dung của Hợp đồng đó. Đồng thời nó xác định quan hệ pháp lý
giữa ngời chuyên chở với chủ hàng, đặc biể là giữa ngời chuyên chở và ngời nhận
hàng.
- Vận đơn biên lai của ngời chuyên chở xác nhận đã nhận hàng để chở (nếu
vận đơn "đã bốc dỡ" nó còn xác định đợc nghĩa vụ và trách nhiệm của ngời
chuyên chở đối với hàng hoá). Ngời chuyên chở chỉ giao hàng cho ai xuất trình tr-
ớc tiên vận đơn hợp lệ (có chữ ký chuyển nhợng, xác thực của ngân hàng ...) mà
họ ký phát tại cảng bốc hàng.
- Vận đơn là chứng từ xác thực quyền sở hữu với hàng hoá miêu tả trong
vận đơn. Do vậy, nó là chứng từ có giá trị lu thông (negotiable), đợc dùng mua
bán, cầm cố, chuyển nhợng. Các ngân hàng thơng mại tận dụng chức năng thứ 3
của vận đơn đờng biển nhằm bảo vệ cho chính họ, bởi vì ngân hàng khống chế

vận đơn, tức là kiểm soát hàng hoá cũng có nghĩa là nằm tiền. Do vậy trong bất
luận trờng hợp nào, vận đơn chỉ đợc giao cho ngời mở L/C sau khi đã thanh toán
bộ chứng từ xuất trình đòi tiền.
Còn vận đơn hàng không thì đợc phát hành làm 3 bản: hãng vận chuyển giữ
một bản, bản thứ hai đi cùng hàng hoá để trao cho ngời nhận hàng, bản thứ ba ng-
ời gửi hàng giữ để xác nhận hàng đã đợc tiếp nhận và gửi đi ...
- Các chứng từ bảo hiểm (Insurance documents):
Các chứng từ bảo hiểm là bằng chứng về quyền đợc bảo hiểm về vận tải mà
phạm vi của nó bao gồm các loại giấy tờ đơn lẻ. Các chứng từ bảo hiểm có thể đ-
ợc chuyển tiếp bằng hình thức chuyển nhợng nếu chúng đợc phát hành nh một
giấy tờ có giá ...
- Giấy chứng nhận chất lợng, số lợng (Certificate of quality or quantity):
Các chứng từ này là xác nhận của ngời sản xuất về tính hoàn hảo và phẩm
chất của hàng hoá, hoặc là xác nhận của ngời bán về số lợng hàng hoá đúng nh
thoả thuận trong hợp đồng.
- Chi tiết đóng gói (Parking list):
Chứng từ này kê danh mục từng kiện hàng, và nội dung bên trong của nó.
Chứng từ này đợc phát hành khi ngời bán gửi hàng hoá thông qua bộ phận giao
hàng của mình hoặc nhân viên bu điện.
Ngoài ra còn có thể có các loại chứng từ khác tuỳ loại hàng hoá và tuỳ thoả
thuận giữa ngời mua và ngời bán và cũng còn tuỳ tập quán buôn bán của các nớc
nh:
- Giấy chứng nhận kiểm nghiệm (Inspection certificate)
- Giấy chứng nhận kiểm dịch (Certificate of health)
- Giấy chứng nhận trọng lợng (Certificate of weight)
- Giấy chứng nhận phân tích (Analyse certificate)
..................
Ngân hàng thông báo chuyển bộ chứng từ thanh toán cho ngân hàng
mở L/C để ngân hàng này trả tiền cho ngời bán. Nếu ngân hàng thông báo đồng
thời là ngân hàng trả tiền thì sẽ tiến hành trả tiền cho ngời bán và chuyển bộ

chứng từ cho ngân hàng mở L/C. Ngân hàng này sẽ hoàn lại số tiền đã trả cho
ngân hàng thông báo (bớc 7, 8)
Ngân hàng mở L/C chuyển giao bộ chứng từ hàng hoá cho ngời mua
để ngời này đi lĩnh hàng, đồng thời thu hồi lại ở ngời mua số tiền đã trả cho ngời
bán (ngân hàng mở L/C sẽ giao bộ chứng từ hàng hoá khi ngời mua trả tiền ngay
hay chấp nhận trả tiền) - (Bớc 9, 10, 11, 12).
Việc kiểm tra chứng từ hàng hoá có thể đợc thực hiện bởi: ngân hàng thông
báo, ngân hàng xác nhận, ngân hàng chiết khấu, ngân hàng mở. Việc kiểm tra này
phải tuân theo nguyên tắc mang tính cơ bản sau:
Ngân hàng chỉ kiểm tra sự đồng nhất thuần tuý về mặt hình thức của các
chứng từ với những điều kiện của L/C xuất phát từ chức năng của L/C. ở mục A
điều 13 UCP 500 có nêu rõ:
Ngân hàng phải kiểm tra tất cả các chứng từ đợc quy định trong L/C với sự
cần thiết hợp lý để xác định các chứng từ thể hiện trên bề mặt của chúng phù hợp
với các điều khoản và điều kiện của L/C. Sự phù hợp nh vậy phải đợc xác định
bằng nghiệp vụ ngân hàng theo tiêu chuẩn quốc tế, thể hiện trong các điều khoản
này. Các chứng từ biểu hiện trên bề mặt của chúng mâu thuẫn với nhau sẽ đợc
xem nh không thể hiện trên bề mặt của chúng phù hợp với các điều khoản và điều
kiện của L/C.
Phơng pháp kiểm chứng từ dựa "trên bề mặt" của chúng nhằm nêu ra
nguyên tắc xác định xem các điều khoản, điều kiện và các yêu cầu của L/C có đợc
biểu hiện đúng trong chứng từ hay không? Do vậy, "on their face" không nên hiểu
quá máy móc là "mặt phải" hay "mặt trái" của chứng từ, mà là nội dung đợc diễn
đạt bằng từ ngữ trên chứng từ đó.
Còn "cẩn thận một cách hợp lý" là sự kết hợp giữa hiểu biết đúng đắn tập
quán giao dịch của ngân hàng và vận dụng chính xác bản Điều lệ và thực hành
thống nhất tín dụng chứng từ.
Và "tiêu chuẩn quốc tế về nghiệp vụ ngân hàng - International Standard
Banking Practice" có nghĩa là nghiệp vụ tín dụng chứng từ của ngân hàng đợc chi
phối bởi "Điều lệ và thực hành thống nhất tín dụng chứng từ" mà mỗi hành động

của ngân hàng đều căn cứ vào các điều khoản của bản điều lệ này. Đây không
phải là luật pháp quốc tế mà chỉ là những qui tắc chung hớng dẫn giao dịch mà bất
cứ bên liên quan nào (ngân hàng, ngời mở, ngời hởng) đều phải tuân thủ. Nó đã
trở thành tiêu chuẩn cho bất kỳ ai muốn giao dịch về L/C và là cơ sở để bảo vệ
quyền lợi của mình trên thơng trờng quốc tế.
Nguyên tắc nghiêm ngặt trong việc kiểm tra chứng từ đợc bắt đầu từ sự
kiểm tra tính chính xác của Đơn xin mở th tín dụng và những điều kiện của L/C.
"Các ngân hàng không chịu trách nhiệm về hình thức, sự hoàn bị, tính chính xác,
tính chân thực hoặc sự giả mạo hoặc hiệu lực pháp lý của bất cứ chứng từ nào ..."
(Điều 15 - UCP 500). Tuy nhiên việc loại trừ trách nhiệm này chỉ đợc xem xét đối
với những sự giả mạo không nhận thấy đợc, còn không có giá trị khi ngân hàng do
cẩu thả mà không nhận ra sự giả mạo.
Ví dụ về bộ chứng từ hàng hoá:

×