Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Nâng cao kiến thức, thực hành nuôi con bằng sữa mẹ cho bà mẹ có con dưới một tuổi tại bệnh viện nhi tỉnh nam định năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (838.58 KB, 57 trang )

BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH

NGUYỄN THỊ MAI ANH

NÂNG CAO KIẾN THỨC, THỰC HÀNH NUÔI CON BẰNG
SỮA MẸ CHO BÀ MẸ CÓ CON DƯỚI MỘT TUỔI TẠI
BỆNH VIỆN NHI TỈNH NAM ĐỊNH NĂM 2020

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Nam Định - 2020


BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH

NGUYỄN THỊ MAI ANH

NÂNG CAO KIẾN THỨC, THỰC HÀNH NUÔI CON BẰNG
SỮA MẸ CHO BÀ MẸ CÓ CON DƯỚI MỘT TUỔI TẠI
BỆNH VIỆN NHI TỈNH NAM ĐỊNH NĂM 2020

Ngành: Điều Dưỡng
Mã số: 7720301

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN:
Thạc sĩ- Bác sĩ: Nguyễn Mạnh Dũng


Nam Định- 2020


i

LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng đào tạo đại học và
các Phòng ban chức năng của Trường Đại học Điều Dưỡng Nam Định đã
giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất cho em được học tập và nghiên cứu
tại trường.
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Thạc sĩ- Bác sĩ Nguyễn Mạnh
Dũng Phó trưởng Khoa Y Học Lâm Sàng - Trưởng Bộ môn Điều Dưỡng Nhi,
Trường Đại học Điều Dưỡng Nam Định, người thầy đã trực tiếp tận tình
hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và hồn thành
khóa luận tại nhà trường.
Em cũng xin bày tỏ lịng biết ơn đến các thầy, cơ giáo các Bộ môn
trong khoa Y Học Lâm Sàng, cũng như các Bộ môn liên quan của Trường Đại
học Điều Dưỡng Nam Định đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn, giúp đỡ em
trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Em xin chân thành cảm ơn lãnh đạo, tập thể cán bộ nhân viên y tế tại
bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định là nơi mà em đã học tập và tiến hành nghiên
cứu đã hết sức hợp tác, hỗ trợ, giúp đỡ tạo điều kiện cho em trong quá trình
thực hiện đề tài.
Cuối cùng em xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè,
cùng tập thể các bạn Đại học chính quy khoá 12 đã động viên ủng hộ em rất
nhiều trong q trình học tập và hồn thành khố luận tốt nghiệp.

Sinh viên

Nguyễn Thị Mai Anh



ii

MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN .......................................................................................................... i
MỤC LỤC ..............................................................................................................ii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ..............................................................................iii
DANG MỤC CÁC BẢNG, BIỂU .......................................................................... iv
ĐẶT VẤN ĐỀ......................................................................................................... 5
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ..................................................... 8
1.1. Cơ sở lý luận ................................................................................................. 8
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản về nuôi con bằng sữa mẹ .................................. 8
1.1.2. Các thành phần cơ bản trong sữa mẹ ..................................................... 10
1.1.3. Các giai đoạn sản xuất sữa mẹ ............................................................... 11
1.1.4. Lợi ích của ni con bằng sữa mẹ ......................................................... 12
1.2. Cơ sở thực tiễn ......................................................................................... 16
1.2.1. Kiến thức và thực hành về nuôi con bằng sữa mẹ trên thế giới ........... 16
1.2.2. Kiến thức và thực hành về nuôi con bằng sữa mẹ ở Việt Nam ............ 20
Chương 2: LIÊN HỆ THỰC TIỄN ........................................................................ 24
2.1. Đối tượng nghiên cứu: ................................................................................. 24
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................ 24
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ ................................................................................ 24
2.2. Thời gian và địa điểm .................................................................................. 24
2.3. Thiết kế nghiên cứu ..................................................................................... 24
2.4. Số lượng đối tượng phỏng vấn:.................................................................... 24
2.5. Phương pháp thu thập số liệu....................................................................... 24
2.6. Kết quả nghiên cứu...................................................................................... 25
2.6.1. Đặc điểm chung của nghiên cứu đối tượng : .......................................... 25
2.6.2. Kiến thức, thực hành về nuôi con bằng sữa mẹ: ..................................... 28

2.7. Nguyên nhân của những việc đã làm và chưa làm được ............................... 34
2.7.1. Đặc điểm chung của các đối tượng nghiên cứu: ..................................... 34
2.7.2. Kiến thức, thực hành về việc nuôi con bằng sữa mẹ của bà mẹ có con
dưới 1 tuổi ...................................................................................................... 35
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 41
KHUYẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP....................................................... 42
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phụ lục 1: PHIẾU PHỎNG VẤN BÀ MẸ VỀ NUÔI CON BẰNG SỮA MẸ


iii

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BMHT: Bú mẹ hồn tồn
NCBSM: Ni con bằng sữa mẹ
UNICEF (United Nations Childern’s Fund): Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc
WHO (Word Health Organization): Tổ chức Y tế Thế giới.


iv

DANG MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Bảng 1: Trình độ văn hố ...................................................................................... 26
Bảng 2: Nghề nghiệp ............................................................................................. 26
Bảng 3: Lựa chọn nuôi con sau sinh ...................................................................... 28
Bảng 4: Hiểu biết lợi ích của việc nuôi con bằng sữa mẹ ...................................... 28
Bảng 5: Những bất lợi khi cho trẻ bú sữa nhân tạo................................................. 29
Bảng 6:Thời gian cai sữa tốt nhất .......................................................................... 29
Bảng 7: Nguồn kiến thức các bà mẹ có được ......................................................... 30
Bảng 8: Kiến thức về thời gian cho trẻ bú .............................................................. 30

Bảng 9: Số lần cho trẻ bú trong ngày ..................................................................... 31
Bảng 10: Cách chăm sóc vú và cho trẻ bú đúng cách ............................................. 32
Bảng 11: Tư thế đúng cua trẻ khi bú ...................................................................... 33
Bảng 12: Tư thế ngậm bắt vú đúng của trẻ............................................................. 33
Biểu đồ 1: Nhóm tuổi điều tra................................................................................ 25
Biều đồ 2: Số lần sinh con ..................................................................................... 27
Biểu đồ 3: Tỷ lệ sinh con bằng đẻ thường hay đẻ mổ của bà mẹ ............................ 27
Biểu đồ 4: Tỷ lệ bà mẹ cho bú sữa non .................................................................. 31
Biểu đồ 5: Tư thế của bà mẹ khi cho con bú .......................................................... 32


5

ĐẶT VẤN ĐỀ
Nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) là phương pháp ni dưỡng trẻ tự
nhiên mang lại lợi ích tối ưu nhất cho sự sống còn, lớn lên và phát triển của
trẻ. Cho trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau sinh, bú mẹ hoàn toàn trong 6
tháng đầu, tiếp tục cho ăn bổ sung hợp lý và duy trì bú sữa mẹ đến 12 tháng
tuổi bảo đảm sự tăng trưởng và phát triển thể chất, tinh thần và trí tuệ của trẻ
[17]. Ni con bằng sữa mẹ là biện pháp can thiệp có hiệu quả nhất trong
giảm tỷ lệ mắc bệnh và tử vong cho trẻ. Nuôi con bằng sữa mẹ hồn tồn góp
phần quan trọng giảm tỷ lệ mắc viêm phổi và tiêu chảy là 2 nguyên nhân
chính gây tử vong ở trẻ nhỏ. Theo ước tính của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO)
và Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) chỉ riêng với can thiệp cho trẻ bú
sớm và bú mẹ hoàn toàn (BMHT) trong 6 tháng đầu sẽ làm giảm 1,3 triệu ca
tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi mỗi năm trên toàn thế giới [17].
Ni con bằng sữa mẹ cịn có tác động tích cực đến sức khỏe bà mẹ.
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng các bà mẹ cho con bú giảm nguy cơ
mắc ung thư vú và buồng trứng là 2 nguy cơ hàng đầu gây tử vong ở phụ nữ.
Mặc dù lợi ích của NCBSM, đặc biệt là cho con bú sớm và bú mẹ

hoàn toàn đã được rất nhiều nghiên cứu khẳng định nhưng tỷ lệ vẫn NCBSM
đang có xu hướng giảm trong tồn cầu, đặc biệt là ở các nước có thu nhập cao
[71]. Đánh giá ở 127 quốc gia về tình trạng ni con bằng sữa mẹ cho thấy
chỉ có 37% trẻ dưới 6 tháng được BMHT và thời gian cho con bú ở các nước
thu nhập cao ngắn hơn ở các nước thu nhập thấp. Trong khi hầu hết các bà mẹ
ở châu Á và châu Phi vẫn cho con bú ở thời điểm trẻ được 12 tháng tuổi thì ở
các nước Anh, Mỹ, Thụy Điển chỉ lệ này chỉ ở khoảng 20% [42].
Tình trạng NCBSM ở Việt Nam cũng tương tự như các nước
đang phát triển khác. Theo số liệu thống kê gần đây nhất cho thấy chỉ có chỉ
có 26,5% số bà mẹ cho con bú sớm và 24,3% số bà mẹ cho con BMHT trong
6 tháng đầu. Tỷ lệ này thấp hơn nhiều so với tỷ lệ trung bình của thế giới –
37% các bà mẹ cho con bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu[71].


6

Hiện nay, việc nuôi con bằng sữa mẹ đang giảm trầm trọng, khơng chỉ
ở thành phố lớn mà cịn lan rộng đến các vùng nông thôn, nhiều hội nghị về
công tác bảo vệ bà mẹ trẻ em cũng đã lên tiếng báo động về thực trạng đáng
lo ngại này [3]. Chính vì thế, hiện nay Bộ Y tế Việt Nam đã khuyến cáo các
bà mẹ cần ni trẻ hồn tồn bằng sữa mẹ trong vòng 6 tháng đầu sau sinh,
nhưng trên thực tế, có nhiều bà mẹ vì nhiều lí do như mẹ thiếu sữa, bận rộn
công việc, mẹ bị bệnh, nhiễm HIV vẫn cho trẻ ăn thêm sữa ngoài.
Mặc dù, tình Nam Định nói chung và tại bệnh viện Nhi Nam Định nói
riêng, dịch vụ chăm sóc y tế cho nhân dân cũng như cho trẻ em đã được cải
thiện và chú trọng vào vấn đề tư vấn, hướng dẫn cho bà mẹ NCBSM, nhưng
bên cạnh đó nhiều các bà mẹ cịn chưa có kiến thức về vấn đề này, thiếu kiến
thức về NCBSM nên còn chưa thực hành được đúng cách. để cải thiện kiến
thức về NCBSM cho bà mẹ chúng ta phải xác định được kiến thức, thực hành
của bà mẹ thực tại như thế nào? Từ thực tế trên, tơi tiến hành làm khóa luận

tốt nghiệp:
“ Nâng cao kiến thức, thực hành nuôi con bằng sữa mẹ cho bà mẹ có
con dưới một tuổi tại bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định năm 2020”.


7

MỤC TIÊU
1. Mô tả thực trạng kiến thực và thực hành của bà mẹ có con dưới một
tuổi về vấn đề nuôi con bằng sữa mẹ tại bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định
năm 2020.
2. Đề xuất các giải pháp nhằm năng cao kiến thức và thực hành cho bà
mẹ về vấn đề nuôi con bằng sữa mẹ.


8

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản về nuôi con bằng sữa mẹ
Nuôi con bằng sữa mẹ: là cách ni dưỡng trong đó trẻ trực tiếp bú sữa
mẹ hoặc uống sữa từ vú mẹ vắt ra [69].
Bú sớm: là cho trẻ bú ngay trong vòng 1 giờ sau khi sinh [71]. Bú sớm
giúp trẻ tận dụng được sữa non là loại sữa tốt chỉ tiết trong những ngày đầu
sau đẻ, hoàn hảo về dinh dưỡng và các chất sinh học thích ứng với cơ thể non
nớt vừa ra đời của đứa trẻ.
Ni con bằng sữa mẹ hồn tồn: là đứa trẻ chỉ được bú sữa mẹ từ mẹ
hoặc từ vú ni hoặc từ vú mẹ vắt ra, ngồi ra không ăn thêm bất kỳ loại thức
ăn, nước uống nào khác kể cả nước lọc, trừ các dạng vitamin, khoáng chất bổ

sung hoặc thuốc theo chỉ định của thầy thuốc [69]. Khuyến nghị của WHO
cho tất cả các bà mẹ cho con BMHT trong 6 tháng đầu.
Bú mẹ chủ yếu: là cách ni dưỡng trong đó nguồn dinh dưỡng chính
là sữa mẹ, tuy nhiên trẻ có thể được cho ăn thêm nước uống đơn thuần hoặc
một số thức ăn, đồ uống dạng lỏng như nước hoa quả, nước đường, ORS
hoặc các loại thức ăn lỏng cổ truyền với số lượng ít [69].
Bú bình: là cho trẻ bú bằng bình sữa, bất kể sữa gì kể cả sữa mẹ vắt ra
cho vào bình [69].
Cho trẻ bú sớm sau sinh: việc trẻ được bú mẹ trong vòng 1 giờ đầu sau
sinh[71].
Hiện tượng xuống sữa: là hiện tượng số lượng sữa nhiều hơn làm 2 bầu
vú bà mẹ đầy, căng cứng [71].
Tỷ lệ trẻ dưới 6 tháng tuổi được bú mẹ hoàn toàn: được tính bằng tỷ số
giữa số trẻ dưới 6 tháng tuổi được bú mẹ hoàn toàn trong 24 giờ trên tổng số
trẻ 6 tháng[70].


9

Cai sữa: là sự chuyển giao vai trò cung cấp năng lượng từ sữa mẹ
sang các thực phẩm trong bữa ăn gia đình để kết thúc thời kỳ bú mẹ [70].
Theo khuyến cáo của WHO, sau thời gian bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu,
cho trẻ ăn thức ăn bổ sung hợp lý và vẫn tiếp tục cho bú mẹ đến 24 tháng
hoặc lâu hơn. Như vậy thời gian cai sữa khuyến nghị là 24 tháng hoặc
hơn [8].
Cách ngậm bắt vú đúng của trẻ:
- Tư thế của trẻ:
+ Đầu, thân trẻ nằm trên một đường thẳng
+ Thân trẻ áp sát vào người mẹ
+ Trẻ được đỡ đầu và cổ

+ Mặt trẻ quay vào vú mẹ, mũi trẻ đối diện với núm vú
- Tình trạng vú:
+ Tình trạng tốt
+ Khơng đau, khơng khó chịu
+ Các ngón tay đặt xa núm vú để đỡ vú
- Ngậm bắt vú:
+ Quầng vú ở trên miệng trẻ còn nhiều hơn
+ Miệng trẻ mở rộng
+ Mơi dưới dướng ra ngồi
+ Cằm trẻ chạm vào vú mẹ
- Bú:
+ Bú chậm, sâu, có lúc ngừng nghỉ
+ Má căng phồng khi bú
+ Trẻ tự nhả vú khi bú xong
+ Bà mẹ nhận thấy các dấu hiệu của phản xạ oxytocin


10

Hình 1: So sánh tư thế ngậm bắt vú đúng và không đúng
1.1.2. Các thành phần cơ bản trong sữa mẹ
Sữa mẹ là thức ăn tự nhiên, lý tưởng nhất phù hơp với trẻ nhỏ. Sữa mẹ
có đủ Protein, Lipid, Vitamin và Khống chất với tỷ lệ thích hợp và dễ hấp
thu đáp ứng với từng giai đoạn phát triển của trẻ. Sữa mẹ còn chữa các chất
miễn dịch, kháng thể giúp trẻ chống các bệnh nhiễm khuẩn, dị ứng, suy dinh
dưỡng béo phì và một số bệnh tật khác [71].
Thành phần Protein, lipid, glucid trong sữa mẹ
Lượng protein trong sữa mẹ ít hơn sữa động vật nhưng lại có đủ các
axit amin cần thiết với tỷ lệ cân đối đồng thời lại dễ hấp thu. Protein của sữa
mẹ gồm nhiều casein kết cầu mềm dễ hấp thụ hơn so với sữa động

vật. Thành phần Lipid trong sữa mẹ gồm nhiều acid béo cần thiết
chuỗi dài, không no dễ hấp thu cho trẻ. Đặc biệt, sữa mẹ có nhiều acid béo
đóng vai trị quan trọng trong việc phát triển và hoàn thiện hệ thần kinh ở trẻ
nhỏ như DHA và ARA là 2 loại axit khơng có trong bất kỳ loại sữa động vật
nào. Lipid trong sữa mẹ cung cấp khoảng một nửa lượng Kalo cho trẻ bú
mẹ. Glucid trong sữa mẹ chủ yếu là đường lactose, hàm lượng 7g/10ml [71].
Thành phần Vitamin và muối khống
Vitamin trong sữa mẹ có đủ cho trẻ trong 4-6 tháng đầu nếu bà mẹ
được ăn uống đầy đủ, ngoại trừ Vitamin D là vitamin do cơ thể tự tổng hợp
khi tiếp xúc với ánh sáng mặt trời. Về thành phần muối khống thì lượng Fe


11

và ZinC trong sữa mẹ tuy ít nhưng có hoạt tính cao, dễ hấp thụ nên vẫn đáp
ứng được nhu cầu của trẻ [71].
Các yếu tố miễn dịch
Sữa mẹ được ví như như “liều vác xin đầu tiên” cho trẻ vì có chất thúc
đẩy hồn thiện hệ thống miễn dịch ở trẻ sơ sinh, đặc biệt là trẻ đẻ non. Sữa mẹ
chứa nhiều globulin miễn dịch tạo kháng thể và các chất bảo vệ cơ thể chống
lại các bệnh nhiễm khuẩn bằng cách bọc niêm mạc ruột, bạch cầu, tiêu diệt vi
khuẩn, virut, nấm, chất không cho vi khuẩn bám mặt niêm mạc. Hơn thế
nữa, sữa mẹ còn thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển hệ thống
miễn dịch ở trẻ về sau.
1.1.3. Các giai đoạn sản xuất sữa mẹ
Sữa non: có từ ngay sau khi sinh và trong tuần đầu sau đẻ. Số lượng ít
trong ngày đầu (khoảng 40-50ml), nhiều hơn từ ngày thứ 2-3. Sữa non có màu
vàng nhạt, đặc sánh có nhiều kháng thể, bạch cầu hơn sữa trưởng thành giúp
trẻ sơ sinh chống nhiễm khuẩn và dị ứng. Hơn thế nữa, các chất giúp phòng
nhiễm khuẩn này tiếp tục góp phần vào việc hình thành và hoàn chỉnh hệ

thống miễn dịch về sau cho trẻ. Chính vì vậy sữa non được coi như là liều vắc
xin đầu tiên giúp trẻ chống đỡ bệnh tật. Sữa non cịn có tác dụng xổ nhẹgiúp
tống phân su nhanh, kéo theo đào thải bilirubin nhanh. Vì vậy, trẻ được bú
sữa non ít vàng da hơn và thời gian vàng da cũng ngắn hơn. Sữa non cịn có
nhiều yếu tố phát triển giúp bộ máy tiêu hoá non nớt của trẻ nhanh chóng
trưởng thành. Lượng vitamin A trong sữa non rất nhiều giúp giảm nhẹ bệnh
khi trẻ mắc bệnh. Mặc dù số lượng sữa non ít nhưng vừa đủ so với kích
thước dạ dày và nhu cầu dinh dưỡng của trẻ sau khi sinh [33].
Sữa trung gian: là sữa tiết ra từ ngày 7-14, chuyển đổi từ sữa non sang
sữa trưởng thành. Lượng sữa nhiều hơn và có thay đổi một số thành phần
cảvề số lượng và chất lượng[33].


12

Sữa trưởng thành: sữa được tiết ra sau 2 tuần là sữa trưởng thành. Nếu
bà mẹ được ăn uống đủ, nghỉ ngơi hợp lý sẽ sản xuất đủ sữa và giữ thành
phần sữa hằng định trong suốt thời gian cho con bú.
Chất lượng sữa tiết ra trong một bữa bú có khác nhau. Sữa tiết ra ngay
khi bắt đầu bữa bú gọi là sữa đầu, sữa tiết ra sau đó gọi là sữa cuối. Sữa đầu
thường lỗng hơn, có màu hơi xanh so với sữa cuối và số lượng nhiều hơn.
Sữa đầu có rất nhiều chất đạm (protein), lactosa và nhiều chất dinh dưỡng
khác. Sữa cuối có màu trắng hơn so với sữa đầu vì chứa nhiều chất béo hơn
và cung cấp nhiều năng lượng cho trẻ. Vì vậy, trong mỗi bữa bú cần cho trẻbú
hết từng bên vú một để trẻ nhận được đủ các chất đạm, dinh dưỡng ở sữa đầu
và nhiều chất béo ở sữa cuối.[33]

Hình 2: Thành phần của sữa non và sữa trưởng thành
1.1.4. Lợi ích của nuôi con bằng sữa mẹ
Nuôi con bằng sữa mẹ là một biện pháp tự nhiên, kinh tế và hiệu quả

bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em. Kinh nghiệm thực tế và kết qủa của nhiều
nghiên cứu trên thế giới đã khẳng định các lợi ích của NCBSM đối với sự lớn
lên và phát triển toàn diện của trẻ; giảm nguy cơ bệnh tật cho mẹ và lợi ích
kinh tế cho cộng đồng.
1.1.4.1. Lợi ích đối với trẻ
Sữa mẹ là thức ăn tốt nhất bảo đảm cho sự sống còn và phát triển tối ưu


13

cho trẻ em mà khơng có một loại thức ăn nào có thể thay thế được. Sữa mẹ có
đầy đủ các chất dinh dưỡng cần thiết và dễ cho trẻ tiêu hoá, hấp thu. Cùng với
sự lớn lên của trẻ, sữa mẹ thay đổi số lượng để đáp ứng nhu cầu thay đổi đó
kể cả số lượng sản xuất trong ngày và cho từng bữa bú. Một số thành phần
trong sữa mẹ cũng thay đổi để đáp ứng phù hợp với nhu cầu phát triển của trẻ.
Cùng với lợi ích về dinh dưỡng, sữa mẹ có chứa các chất miễn dịch
giúp trẻ bảo vệ cơ thể chống lại các bệnh nhiễm khuẩn, giảm tỷ lệ mắc bệnh,
tử vong. Nuôi con bằng sữa mẹ là một trong những thực hành có lợi nhất mà
bà mẹ có thể thực hiện để giảm nguy cơ nhiễm khuẩn cho con mình. Tổ
chức Y tế thế giới đã đưa các bằng chứng khẳng định là trẻ được bú mẹ ít phải
đến bệnh viện hơn hoặc ít phải uống thuốc, giảm nguy cơ lây nhiễm và mắc
các bệnh như tiêu chảy, viêm phổi, hen suyễn, nhiễm trùng tai, nhiễm khuẩn
đường hô hấp [71]. Kết quả phân tích từ nghiên cứu thuần tập của
Bachrach và cộng sự cho thấy rằng trẻ được nuôi bằng sữa công thức phải
đối mặt với mối nguy nhập viện do nhiễm khuẩn đường hô hấp dưới trong
năm đầu tiên của cuộc sống cao gấp 3,6 lần so với trẻ được bú mẹ hoàn
toàn hơn 4 tháng. Trẻ được bú sữa mẹ cũng được bảo vệ giảm nguy cơ nhiễm
vi rút vì chất béo trong sữa mẹ có tác dụng kháng vi rút, đã biệt là vi rút Hợp
bào hô hấp (Respiratory Syncytial Virus - RSV) [39].
Sữa mẹ cịn có các chất cần thiết cho sự phát triển của não, giúp hoàn

thiện hệ thống thần kinh trung ương, tạo điều kiện tối ưu cho sự phát triển trí
thơng minh của trẻ. Trẻ được ni bằng sữa mẹ có chỉ số thơng minh và kết
quả học tập cao hơn. Trẻ bú mẹ càng lâu thì càng có khả năng trí tuệ cao
hơn, điều này được thể hiện qua những kỹ năng vận động, kỹ năng ngơn ngữ
và khả năng nhận thức hồn thiện hơn, những trẻ được ni bằng sữa mẹ có
điểm IQ cao hơn 7,5 điểm so với những đứa trẻ không được bú mẹ [55].
Những nghiên cứu trong thập kỷ qua đã chứng minh được một vai trò
quan trọng của sữa mẹ nữa là bảo vệ trẻ không tăng cân quá mức, giảm nguy
cơ mắc đái tháo đường type I và II cũng như bệnh tăng huyết áp và tim


14

mạch. Nghiên cứu của Christopher G. Owen và cộng sự cho thấy rằng những
đứa trẻ được nuôi bằng sữa mẹ có nguy cơ bị béo phì khi trưởng thành chỉ
bằng 0,87 lần so với những đứa trẻ được nuôi bằng sữa công thức [47].
Những đứa trẻ được nuôi bằng sữa mẹ có nguy cơ mắc tiểu đường type II chỉ
bằng 0,61 lần so với những đứa trẻ được nuôi bằng sữa cơng thức [48].
Với những lợi ích đối với sự sống còn và sự phát triển tối ưu cho trẻ em
mà khơng có một loại thức ăn nào có thể thay thế được, Quỹ Nhi đồng Liên
hợp quốc UNICEF đã coi việc NCBSM là 1 trong 4 biện pháp quan trọng
nhất để bảo vệ sức khỏe trẻ em [69].
Cho trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ sau đẻ là cung cấp cho trẻ nguồn sữa
non quý giá từ mẹ. Như đã đề cập ở trên, sữa non có trong bầu vú mẹ, ngay
sau khi sinh sẵn sàng cho con bú ngay khi trẻ vừa lọt lòng mẹ. Sữa non chứa
nhiều kháng thể, các protein kháng khuẩn và nhiều tế bào bạch cầu hơn sữa
trưởng thành giúp trẻ sơ sinh chống các bệnh nhiễm khuẩn nguy hiểm và
cung cấp khả năng miễn dịch đầu tiên cho trẻ chống nhiều bệnh mà trẻ có thể
mắc sau đẻ [29]. Sữa non có tác dụng xổ nhẹ, giúp thải phân su và cũng có tác
dụng thải bilirubin ra khỏi ruột, giảm mức độ vàng da. Thêm vào đó, sữa non

chứa nhiều yếu tố tăng trưởng giúp ruột chưa trưởng thành của trẻ tiếp tục
phát triển sau sinh, giúp trẻ phòng dị ứng và phòng bệnh không dung nạp
những thức ăn khác. Sữa non chứa nhiều vitamin A có tác dụng làm giảm
độ nặng của các bệnh nhiễm khuẩn mà trẻ có thể mắc phải. Vì vậy, trẻ được
bú sữa non trong những bữa bú đầu tiên là rất quan trọng, tận dụng được thức
ăn lý tưởng nhất, phù hợp nhất với trẻ mới sinh đồng thời cũng tạo nền tảng
vững chắc cho sự lớn lên và phát triển của trẻ [8].
Các phân tích về thành phần và số lượng sữa, các nhà khoa học đã
khẳng định là nếu bà mẹ khỏe mạnh, dinh dưỡng, nghỉ ngơi đầy đủ sẽ cung
cấp đủ dinh dưỡng cho trẻ trong 6 tháng mà không cần bất cứ thức ăn, nước
uống nào khác [69], [71]. Chính vì thế, WHO khuyến khích các bà mẹ ni
con bằng sữa mẹ hồn tồn trong 6 tháng đầu có thể cải thiện sự tăng trưởng


15

và phát triển, kết quả học tập và thậm chí cả khả năng thu nhập của trẻ
trong tương lai [72]. Đồng thời WHO cũng chỉ ra rằng việc NCBSM hoàn
toàn trong 6 tháng đầu đời là cách tốt nhất phòng tránh tử vong cho trẻ em,
ước tính có thể giảm hơn một triệu ca tử vong ở trẻ trên toàn thế giới mỗi
năm [73]. Vì vậy, WHO khuyến cáo cho tất cả các bà mẹ cần cho con bú
sớm trong vịng 1 giờ đầu sau đẻ, bú mẹ hồn tồn trong 6 tháng đầu, cho ăn
bổ sung hợp lý khi trẻ được tròn 6 tháng và tiếp tục bú mẹ cho đến 12 tháng
hoặc lâu hơn [71], [5].
1.1.4.2. Lợi ích đối với bà mẹ
Khi trẻ bú sẽ kích thích tuyến yên sản xuất oxytocin, vì thế cho con bú
sớm ngay sau khi đẻ sẽ giúp tử cung co hồi tốt, giảm nguy cơ chảy máu sau
đẻ [71]. Các bà mẹ cho con bú thường giảm cân nhanh hơn, đồng thời ít
nguy cơ mắc các bệnh như tiểu đường type II, ung thư vú, ung thư buồng
trứng, loãng xương. Hàm lượng oxytocin trong máu cao hơn nên có thể giảm

căng thẳng và chứng trầm cảm ở bà mẹ sau khi sinh [38], [52]. Ni con
bằng sữa mẹ hồn tồn trong vịng 6 tháng đầu làm ức chế hoạt động của
buồng trứng, sẽ làm bà mẹ chậm có kinh trở lại, vì vậy ni con bằng sữa mẹ
có tác dụng như một biện pháp tránh thai tự nhiên [38]. Kết quả của một số
nghiên cứu cho thấy rằng nếu bà mẹ cho con bú hồn tồn trong 6 tháng
đầu và khơng có dấu hiệu có kinh nguyệt trở lại thì khả năng mang thai là
dưới 2% [68].
1.1.4.3. Một số lợi ích khác
Ni con bằng sữa mẹ giúp gắn bó, tăng cường tình cảm mẹ con. Sữa
mẹ là nguồn thức ăn lúc nào cũng mới, sạch, ln có sẵn trong bầu vú mẹ lúc
nào trẻ cũng có thể bú được, khơng phải đi mua, không mất công chuẩn bị.
Người bố và các thành viên gia đình khơng phải hỗ trợ nhiều trong việc chuẩn
bị thức ăn cho trẻ. Nuôi con bằng sữa mẹ tiện lợi và an tồn, các bà mẹ có
thể cho con bú bất cứ nơi nào có thể. Tính về hiệu quả kinh tế,
NCBSM mang lại hiệu quả cao vì không phải mất tiền mua mà lại mang lại


16

lợi ích tối đa nhất cho sức khỏe, giảm tỷ lệ bệnh tật và tử vong cho trẻ em.
Nuôi con bằng sữa mẹ đồng thời cũng là một hoạt động bảo vệ mơi
trường vì rằng sữa mẹ là thức ăn tự nhiên có từ mẹ, khơng phải tốn nhiên liệu
để chế biến, chun chở, khơng phải dùng bao bì để đóng gói, khơng tốn đất
đai để xây dựng nhà máy sản xuất... vì vậy khơng sinh ra bất cứ một thứ rác
thải nào làm ô nhiễm môi trường.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Kiến thức và thực hành về nuôi con bằng sữa mẹ trên thế giới
Lợi ích của sữa mẹ đã được khẳng định trong trong rất nhiều nghiên cứu
và đã được chứng minh rõ ràng trong thực tế. Phần lớn các bà mẹ ở các nước
trên thế giới hiểu biết và ủng hộ NCBSM, tuy nhiên kiến thức và thực hành về

cho trẻ bú sớm và BMHT còn hạn chế.
Một nghiên cứu được tiến hành năm 2010 tìm hiểu thực trạng
kiến thức, thái độ, thực hành của 322 bà mẹ người Trung Quốc sống ở Ai-len
cho thấy 87% trong số họ chọn nuôi con bằng sữa mẹ do họ biết sữa mẹ là tốt
hơn cho trẻ em, hơn 82% cho rằng sữa mẹ là thức ăn cung cấp đầy đủ dưỡng
chất cần thiết cho trẻ trong 6 tháng đầu, trên 70% biết các lợi ích về sức
khỏe của sữa mẹ và trên 60% nhận ra rằng sữa mẹ có thể phòng chống một số
bệnh [60].
Một nghiên cứu khác năm 2011 trên 653 phụ nữ Trung Quốc đang
mang thai từ 5 đến 22 tuần tại 4 trung tâm sức khỏe cộng đồng ở Thượng Hải
cho thấy hiểu biết của những người sắp làm mẹ này có hiểu biết tốt về
NCBSM. Hầu như tất cả các bà mẹ (99%) biết bú sữa mẹ là tốt cho sức khỏe
của em bé, tuy nhiên lợi ích đối với sức khỏe mẹ thì chỉ có 22% đối tượng
nghiên cứu đề cập đến. Gần 80% khơng biết định nghĩa về bú hồn tồn và
khoảng 40% các bà mẹ biết là sữa mẹ có thể đáp ứng tất cả các nhu cầu dinh
dưỡng cho trẻ sơ sinh dưới 6 tháng tuổi [50]. Nghiên cứu của Sushma
Sriram và cộng sự (2013) về kiến thức NCBSM của 150 bà mẹ ở thành phố
Ahmedabad (Ấn Độ) cho kết là có đến 96% bà mẹ có kiến thức cho con bú


17

sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu, 90,7% số bà mẹ biết được giá trị của sữa
non [51]. Cũng trong năm 2013, nghiên cứu của Abiola O Ogundele và cộng
sự ở 383 bà mẹ sống ở các vùng ngoại ô của Nigeria cho thấy có
71,3% số bà mẹ có kiến thức tốt về nuôi con bằng sữa mẹ [34].
Tuy nhiên kiến thức về NCBSM rất khác nhau theo địa bàn nghiên cứu.
Nhiều bà mẹ ở các nước nghèo, các vùng khó khăn hiểu biết rất ít về sữa mẹ.
Một nghiên cứu được thực hiện ở phía Tây Bắc A Rập trên 60 bà mẹ độ tuổi
sinh đẻ cho kết quả là chỉ có 31,2% số bà mẹ khẳng định sữa mẹ có sức đề

kháng chống đỡ bệnh tật, 27,1% cho rằng cung cấp đủ chất dinh dưỡng cần
thiết và có tới 16,7% khơng biết một chút lợi ích nào [64]. Nghiên cứu
của RN Chaudhary, T Shah, S Raja (2011) về kiến thức và thực hành của 200
bà mẹ có con dưới 1 tuổi tại khoa khám bệnh ngoài trú của một bệnh viện ở
Dharan ở Nepal. Kết quả cho thấy chỉ có 10% số bà mẹ tham gia nghiên cứu
có kiến thức cho con bú sớm sau sinh, 10% số bà mẹ biết được ý nghĩa của
việc cho con bú sớm, 25% số bà mẹ biết được tầm quan trọng của sữa non,
15% bà mẹ biết được ý nghĩa của việc cho con BMHT [62].
Nghiên cứu mới đây nhất vào tháng 4 năm 2015 trên 350 phụ nữ có con
dưới 2 tuổi ở thị trấn Mizan Aman, Tây Nam Ethiopia cho thấy 93,6% các bà
mẹ tham gia nghiên cứu đều được nghe về Ni con hồn tồn bằng sữa mẹ,
nhưng chỉ có 34,7% biết về thời gian cho bú được khuyến nghị và 59,3% số
bà mẹ tin rằng sữa mẹ có đủ chất cho trẻ phát triển đến 6 tháng tuổi [58].
Kiến thức về NCBSM mặc dù có khác nhau theo từng quốc gia, lãnh thổ
nhưng nhìn chung hiểu biết và ủng hộ NCBSM ở các bà mẹ tương đối cao.
Tuy nhiên, tỷ lệ bà mẹ thực hành NCBSM lại không được như mong muốn,
đặc biệt là bú mẹ sớm và BMHT. Nghiên cứu của Bhutta thống kê trong vòng
một thập niên qua từ năm 2000 đến năm 2010 của 66 quốc gia, tỷ lệ bà mẹ
cho trẻ bú sớm trong giờ đầu sau sinh là 48% và tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn
toàn dưới 6 tháng tuổi chỉ đạt 34% [76]. Nghiên cứu tại thị trấn Mizan Aman
cho thấy tỷ lệ trẻ được bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu chỉ đạt 26,4% [58].


18

Thống kê gần đây nhất cho thấy, thời gian cho trẻ bú ở các nước có thu nhập
cao ngắn hơn ở các nước có thu nhập thấp và trung bình. Ở các nước thu nhập
thấp, hầu hết các bà mẹ cho con bú đến 12 tháng, trong khi đó tỷ lệ này ở các
nước thu nhấp cao chỉ dưới mức 20%. Thời gian NCBSM ở các nước phát
triển cũng rất khác nhau với tỷ lệ thấp nhất là ở Anh là chưa đến 1% cho con

bú đến 12 tháng, trong khi ở Mỹ tỷ lệ này là 27%, Na Uy là 35% và Thụy
Điển là 16% [43]. Chỉ số về tỷ lệ bú sớm và BMHT chỉ có ở một vài nước
trong nhóm các nước thu nhập cao. Một nghiên cứu ở Anh cho thấy chỉ có
1,2% trẻ được bú mẹ hồn tồn trong vịng 6 tháng đầu [45]. Ở Mỹ, tuy có
nhiều thay đổi tích cực trong thập kỷ 90 nhưng tỷ lệ bú sớm và BMHT cũng
ở mức 76,9% và 47,2% năm 2009 [41].
Nhìn chung, thực hành NCBSM ở các ở các nước thu nhập thấp và trung
bình tốt hơn ở các nước thu nhập cao với hầu hết các bà mẹ đều cho con bú và
có đến hơn 60% kéo dài đến 20-23 tháng. Tuy nhiên, tỷ lệ cho con bú sớm
không đạt được như mong muốn và cũng chỉ có 37% số trẻ được BMHT
trong 6 tháng [43]. Số bà mẹ cho con bú sớm ở các nước thu nhập thấp khác
nhau theo các nghiên cứu. Nói chung phần lớn các bà mẹ đều cho bú sớm
nhưng ở một số vùng chỉ chưa đến một nửa số trẻ sinh ra được bú mẹ trong
giờ đầu. Các nước có tỷ lệ bú sớm cao như ở A-rập Xê-út, Tamilnadu, Nam
Phi cho thấy khoảng 78 - 98% số bà mẹ đã cho con bú mẹ trong vòng 24 giờ
đầu sau khi sinh [46].
Tuy nhiên cũng nghiên cứu ở A-rập Xê-út, tác giả Tarek Amin, Hatem
Hablas, and Ahmed AlAbd Al Qader (2011) lại cho kết quả chỉ có 41,5% số
bà mẹ được phòng vấn đã cho con bú trong vòng 1/2 giờ đầu sau sinh [65].
Tương tự, Ali Mohamed Al-Binali (2012) nghiên cứu trên 384 nữ giáo viên
ở huyện Abha, Tây Nam của A - rập Xê - út cho thấy chỉ có 31% số nữ giáo
viên đã cho con bú sữa mẹ trong vòng 1 giờ đầu sau sinh [35].
Khi bà mẹ khởi đầu tốt với việc bú sớm sẽ có ảnh hưởng quan trọng đến
việc tiếp tục cho con bú về sau. Khuyến cáo của WHO về cho con bú sớm và


19

BMHT trong 6 tháng đầu đang là lĩnh vực được ưu tiên can thiệp trong các
chương trình NCBSM. Một tín hiệu tích cực là số bà mẹ cho con bú sớm và

BMHT có xu hướng cải thiện. Theo số liệu từ 64 nước đang phát triển chiếm
69% số trẻ em được sinh ra trên toàn thế giới từ năm 1996 đến năm 2006,
tỷ lệ trẻ em được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu tăng từ 33% lên
37%[69]. Tăng nhanh nhất ở vùng cận sa mạc Sahara - châu Phi với tỷ lệ tăng
từ 22% đến 30%, và châu Âu với tỷ lệ tăng từ 10% đến 19%. Ở châu Mỹ
Latinh và Caribean ngoại trừ Brazil và Mexico, tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn
toàn tăng từ 30% đến 45% [69], [74]. Kết quả của Cesar năm 2016 cũng cho
thấy tỷ lệ NCBSM cũng tăng nhẹ từ 24,9% lên 35,7% trong giai đoạn 1993 2013 ở các nước có thu nhập thấp [43].
Cũng tương tự như thực hành cho bú sớm, tỷ lệ BMHT không
chỉ khác nhau theo châu lục mà còn theo quốc gia và các vùng miền trong
mỗi quốc gia. Tại châu Á tỷ lệ NCBSM ở Ấn Độ là 46%, Campuchia là
74%, Philippin 34%, Bangladesh 43% [69], [36]. Tại Trung Quốc, tỷ lệ bà
mẹ cho con BMHT trong 4 tháng đầu là 35% nhưng đến 6 tháng thì tỷ lệ
này chỉ cịn 28% [53]. Theo tổng hợp của Cesar năm 2016, nhìn chung tỷ lệ
BMHT ở vùng Nam Phi cao hơn Tây Phi; Châu Mỹ Latin và Caribbean thấp
hơn châu Phi; Ở các nước Nam Á, bà mẹ cho con BMHT cao hơn các nước
Bắc Phi và Trung Đông [43]. Ở Tây Úc, một nghiên cứu về thực hành của các
bà mẹ trong thời gian nằm viện và tại 9 tuần sau đẻ cho thấy 93% các bà mẹ
đều cho bú sớm. Trong đó 73,5% các bà mẹ đã đẻ lần thứ 2 trở lên cho bú
hoàn toàn trong bệnh viện và các bà mẹ sinh con đầu tỷ lệ là 62,5% nhưng ở
tuần thứ 9 thì giảm thứ tự là 57,1% và 49,2% [75].
Lý do số bà mẹ cho con bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu thấp nhìn chung
là giống nhau ở hầu hết các nghiên cứu trên thế giới. Mẹ không đủ sữa, phải
đi làm sớm, mẹ hoặc con bị bệnh là những lý do chính bà mẹ khơng cho
con bú hồn tồn và cai sữa sớm [49], [35], [37]. Kết quả một số nghiên cứu
cho thấy có khoảng 8% số bà mẹ khơng cho con bú vì khơng thích làm cơng
việc này [59].


20


1.2.2. Kiến thức và thực hành về nuôi con bằng sữa mẹ ở Việt Nam
Chương trình NCBSM đã được triển khai ở Việt Nam từ những năm đầu
của thập kỷ 90, vì thế kiến thức về NCBSM của các bà mẹ Việt Nam là khá
tốt, phần lớn các bà mẹ đã hiểu được vai trò của sữa mẹ tới sự phát triển của
trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ cũng như vai trị của việc cho trẻ bú mẹ hồn tồn trong
6 tháng đầu và lợi ích cho con bú cho tới khi trẻ được 2 tuổi. Theo kết quả
điều tra trên 1500 phụ nữ tại các doanh nghiệp cho thấy 77,7% số phụ nữ biết
lợi ích về dinh dưỡng của bú sữa mẹ, 79,6% biết về thời gian BMHT trong 6
tháng đầu, và 44,8% hoàn toàn đồng ý với nhận định cho trẻ bú sữa mẹ tới 2
tuổi thì trẻ sẽ khỏe mạnh [1]. Kết quả điều tra ban đầu dự án A&T năm 2011
cho biết hơn 3/4 số bà mẹ biết là trẻ phải được cho bú ngay trong vòng 1 giờ
sau sinh, 76% các bà mẹ biết cần cho trẻ bú sữa non và 41% số bà mẹ biết cần
cho bú theo nhu cầu, bất cứ khi nào bé muốn [2].
Tuy nhiên, theo tác giả Vũ Phương Hà (2010), kiến thức của bà mẹ về
nuôi con bú và ăn bổ sung cịn nhiều hạn chế. Có tới 27% bà mẹ không biết
cho bú lần đầu vào thời gian nào và bú hoàn toàn trong mấy tháng là phù hợp.
Chỉ có 46,8% bà mẹ cho rằng nên cho bú hoàn toàn đến 6 tháng. Trên 50%
các bà mẹ cho rằng phải cho con ăn bổ sung trước 6 tháng hoặc không biết
nên bắt đầu cho ăn vào thời điểm nào [32]. Cũng như các nước có thu nhập
thấp và trung bình, hầu hết các bà mẹ Việt Nam đều cho con bú với thời gian
trung bình khoảng 17 tháng [28].
Tuy nhiên, tỷ lệ cho con bú sớm và BMHT đạt mức thấp hơn so với các
nước trong khu vực và đang có xu hướng giảm trong thập kỷ qua. Các
nghiên cứu ở vùng nông thôn vào những năm 2008 cho kết quả tỷ lệ bú sớm
vào khoảng 70 - 80% và BMHT trong khoảng 18-20% [51], [62]. Ở các vùng
thành thị, các tỷ lệ này thấp hơn với tỷ lệ trẻ được cho bú sớm chỉ ở mức 3050% và BMHT trong khoảng 15-20% [30]. Các nghiên cứu gần đây ở các
vùng miền trong cả nước cho kết quả về tỷ lệ bú sớm và BMHT thấp hơn các
số liệu công bố trong thập kỷ 90. Điều tra của Viện dinh dưỡng năm 2010 cho



21

thấy mới chỉ có chỉ có 62% trẻ em Việt Nam được bú sớm sau sinh và 19,6%
bà mẹ nuôi cịn bằng sữa mẹ hồn tồn trong 6 tháng đầu [31]. Tác giả Trần
Thị Phúc Nguyệt và cộng sự thực hiện tại xã Khánh Hà, huyện Thường
Tín, Hà Nội năm 2012 trên 220 bà mẹ cho thấy chỉ có 42,3% các bà mẹ cho
con bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau sinh và tỷ lệ trẻ được BMHT trong 6
tháng đầu là 15,5% [27]. Cũng trong năm 2012, tác giả Huỳnh Văn Dũng, và
cộng sự nghiên cứu trên 370 bà mẹ của trẻ ở huyện Tam Nông, Phú Thọ
cho kết quả là 46,7% trẻ được bú sớm và 27,8% trẻ dưới 6 tháng tuổi được
BMHT. Tác giả Nguyễn Lân (2012) nghiên cứu tại Phổ Yên, Thái Nguyên
cũng cho kết quả tương tự [21]. Tỷ lệ này rất thấp trong báo cáo của UNICEF
năm 2014, chỉ có 26,5% số bà mẹ cho con bú sớm và 24,3% số bà mẹ cho con
bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu cảnh báo tình trạng thực hành NCBSM đang
bị coi nhẹ trong xu thế phát triển kinh tế xã hội ở nước ta [25]. Điều cần nhấn
mạnh là ở một số vùng nông thơn, vùng núi vẫn cịn đến hơn 50 - 62% bà mẹ
vẫn cịn cho trẻ uống sữa cơng thức cho trẻ sơ sinh, nước đường, mật ong
hoặc các thức ăn khác trước khi cho bú lần đầu [21].
Việc cho ăn thức ăn khác ngoài sữa mẹ làm ảnh hưởng đến bữa bú đầu
cũng như tăng tỷ lệ trẻ được cho ăn thêm ngoài sữa mẹ. Đây là nguy cơ tiềm
ẩn đối với sự phát triển cũng như phòng bệnh tật cho trẻ. Lý do trẻ không
được bú sớm và bú mẹ hoàn toàn hoặc cai sữa sớm cũng được nhiều nghiên
cứu đề cập. Lý do phổ biến nhất là mẹ không đủ sữa, mẹ phải đi làm, mẹ và
con bị bệnh trong đó điều kiện u cầu cơng việc của bà mẹ là rào cản lớn
nhất của việc thực hành nuôi con bằng sữa với 83% lao động nữ đồng ý rằng
việc quay trở lại làm việc khiến họ không thể thực hiện cho trẻ bú mẹ hoàn
toàn trong 6 tháng đầu [27], [2], [51].
Kết quả khảo sát đề án 5 triệu bà mẹ cho thấy nguyên nhân cản trở thực
hành bú mẹ chủ yếu là do vì cuộc sống q khó khăn, chế độ ăn uống của

người mẹ khơng đủ dẫn đến tình trạng thiếu sữa hoặc khơng đủ sữa cho con
bú; hoặc cũng có nhiều trường hợp con không chịu bú mẹ [14]. Lý do bà mẹ


22

khơng cho trẻ bú sớm phụ thuộc vào tình trạng sức khỏe của mẹ và của trẻ
mới sinh, tuổi của mẹ, thời gian chuyển dạ hay tư vấn của nhân viên y
tế. Bà mẹ ít tiết sữa hoặc có cảm giác đau và khó chịu cũng là nguyên
nhân của việc không cho trẻ bú sớm. Trẻ đẻ non hoặc bị các bệnh lý nặng,
dị tật cản trở rất nhiều đến bú mẹ. Ở nhiều nơi vẫn tồn tại những phong tục
lạc hậu sau khi sinh người phụ nữ vắt bỏ sữa non vì cho rằng nó khơng tốt.
Cho trẻ ăn trước khi bú mẹ bữa đầu mặc dù đã giảm rất nhiều nhưng vẫn còn
tồn tại khá nhiều ở một số vùng nông thôn và miền núi [71]. Một trong những
lý do quan trọng và ngày càng chiếm đa số trong các nguyên nhân làm giảm
tỷ lệ trẻ bú sớm trong giờ đầu là tăng tỷ lệ mổ đẻ một cách nhanh chóng trong
những năm gần đây ở nước ta. Trẻ mổ đẻ hầu như không được bú sớm mà
thường phải ăn sữa ngoài. Nghiên cứu của Trần Thị Hải Dung ở bệnh viện
Phụ sản Hà Nội về thực hành bú sớm trong bệnh viện cho thấy, khơng có bà
mẹ mổ đẻ nào cho con bú sớm trong vòng giờ đầu [26]. Các nghiên cứu khác
ở bệnh viện Đa khoa Kiên Giang, Cần Thơ cũng cho kết quả tương tự [24],
[19]. Như vậy có thể khẳng định rằng ở Việt Nam, tất cả các bà mẹ phải
mổ đẻ đều không cho con bú sớm trong vòng giờ đầu như khuyến cáo của
WHO. Một lý do mà tất cả các tác giả đều đề cập đến là vì phải tách mẹ sau
mổ mặc dù khơng có một văn bản nào qui định về vấn đề này.
Hậu quả của việc không cho bú sớm là phải cho trẻ ăn thêm thức ăn khác
ngoài sữa mẹ. Số liệu của Alive & Thrive cho thấy những bà mẹ mổ đẻ
thường cho trẻ ăn sữa công thức trong 3 ngày đầu [2]. Như vậy hầu như các
trẻ này không được bú sữa non, thức ăn tốt nhất, phù hợp nhất đối với trẻ mới
sinh. Không những không được bú đủ sữa non, con của các bà mẹ sinh mổ có

nguy cơ khơng ni con hồn toàn bằng sữa mẹ. Kết quả theo dõi thực hành
trong tuần đầu ở bệnh viện Sóc Trăng cho thấy nguy cơ không cho BMHT ở
bà mẹ mổ đẻ cao gấp 6 lần bà mẹ sinh thường [23].
Ngoài kiến thức, thực hành là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc cho
con BMHT trong 6 tháng đầu. Tác động của các thành viên trong gia đình,


23

về cách thực hành truyền thống cũng ảnh hưởng nhiều đến việc cho bú
sớm và BMHT. Một số tác giả cho thấy rằng cịn có những lý do khác ảnh
hưởng đến thực hành NCBSM là ảnh hưởng tiêu cực bởi các nghi lễ văn
hóa, tơn giáo, áp lực của gia đình đối với việc ni dưỡng và phát triển
của trẻ nhỏ. Đối với một số bà mẹ trẻ hiện đại cịn có suy nghĩ là NCBSM sẽ
làm ảnh hưởng đến sắc đẹp cũng cần được tư vấn để có kiến thức, thực hành
tích cực hơn với NCBSM [76], [51], [66], [63]. Ảnh hưởng của nhân viên y
tế và truyền thông là lý do hết sức quan trọng trong thực hiện NCBSM sẽ
được trình bày chi tiết hơn ở phần tiếp theo.


×