Lý luận chung về quản lý vốn nhà nớc tại các
doanh nghiệp nhà nớc
I. Doanh nghiệp nhà nớc
1. Quan niệm về doanh nghiệp nhà nớc
Trong nền kinh tế, có hai hình thức sở hữu cơ bản về vốn và tài sản là sở
hữu nhà nớc và sở hữu t nhân (bao gồm sở hữu của cá nhân và sở hữu của tập
thể các cá nhân). Từ đó hình thành hai khu vực kinh tế là khu vực kinh tế nhà n-
ớc và khu vực kinh tế t nhân. Các đơn vị kinh doanh của khu vực kinh tế nhà n-
ớc đợc gọi là các doanh nghiệp nhà nớc, các đơn vị kinh doanh trong khu vực
kinh tế t nhân gọi là doanh nghiệp t nhân.
Tìm hiểu về doanh nghiệp nhà nớc, khái niệm doanh nghiệp nhà nớc cũng
rất phức tạp với nhiều cách hiểu khác nhau và nhiều tiêu chí xác định khác nhau.
Trên thế giới, có rất nhiều cách quan niệm và doanh nghiệp nhà nớc. Có ngời cho
rằng doanh nghiệp nhà nớc là các xí nghiệp công làm nhiệm vụ sự nghiệp (cảnh
sát, chữa cháy, vệ sinh công cộng, y tế, giáo dục...) Có ngời lại phân biệt doanh
nghiệp nhà nớc với doanh nghiệp t nhân bằng hai tiêu chí chủ yếu là công dân là
những ngời chủ công nghiệp của nhà nớc chứ không chỉ là khách hàng; về trình
độ thơng mại, doanh nghiệp nhà nớc phải có toàn quyền tự chủ về quản lý. Cũng
có ý kiến đa ra ba tiêu chí xác định doanh nghiệp nhà nớc: doanh nghiệp trực tiếp
chịu sự kiểm soát của ai? Sản xuất ra sản phẩm đem bán hay không đem bán?
Hoạt động gắn với lợi ích chung hay lợi ích cá nhân? Từ đó quan niệm rằng:
doanh nghiệp nhà nớc là doanh nghiệp chịu sự kiểm soát trực tiếp của nhà nớc, đ-
ợc phân thành hai loại: Loại một là các xí nghiệp, tổ chức sản xuất chỉ sản xuất ra
những sản phẩm không dùng để bán, nó làm việc vì lợi ích chung và đợc gọi là
các cơ quan hành chính. Loại hai là các xí nghiệp công cộng. Loại này lại đợc
chia thành hai nhóm: Nhóm thứ nhất là các doanh nghiệp sản xuất mặt hàng để
bán, trao đổi, hoạt động vì lợi ích chung. Sản phẩm của nó thờng là các dịch vụ
công cộng. Nhóm hai là các doanh nghiệp hoạt động trong môi trờng phải cạnh
tranh, thờng hoạt động vì lợi ích riêng nào đó.
ở nớc ta, theo Luật Doanh nghiệp nhà nớc đợc Quốc hội thông qua ngày
20/4/1995: Doanh nghiệp nhà nớc là tổ chức kinh tế do nhà nớc thành lập, đầu t
vốn và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực
hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nớc giao. Doanh nghiệp nhà nớc có t cách
pháp nhân, có quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động
kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý. Doanh nghiệp nhà nớc
có tên gọi, con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam.
Doanh nghiệp nhà nớc mang các đặc điểm chung với các loại hình doanh
nghiệp khác nh:
- Chức năng kinh doanh của doanh nghiệp nhà nớc bao gồm: sản xuất, cung
ứng, trao đổi, hợp tác và tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ.
- Doanh nghiệp nhà nớc có t cách pháp nhân. T cách pháp nhân của doanh
nghiệp nhà nớc là điều kiện cơ bản, quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp nhà n-
ớc trong hệ thống nền kinh tế quốc dân. T cách pháp nhân của doanh nghiệp nhà
nớc đòi hỏi doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm về quản lý, về nghĩa vụ tài chính
trong việc thanh toán những khoản công nợ khi doanh nghiệp phá sản hay giải
thể. Với t cách là một pháp nhân độc lập, doanh nghiệp nhà nớc có quyền và
nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về các hoạt động sản xuất kinh doanh. T
cách này tạo cho doanh nghiệp nhà nớc có địa vị pháp lý để đảm bảo độc lập và tự
chủ, đồng thời cũng hạn chế phần trách nhiệm về tài sản của Nhà nớc đối với
doanh nghiệp.
- Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nớc chịu sự chi
phối và tác động của môi trờng kinh tế xã hội. Để các doanh nghiệp tồn tại và
phát triển, Nhà nớc cần tạo môi trờng kinh tế vĩ mô ổn định nh vấn đề về tăng tr-
ởng kinh tế, lạm phát, thất nghiệp, các chính sách khuyến khích phát triển sản
xuất kinh doanh, bảo hộ sản xuất trong nớc, nâng cao khả năng cạnh tranh...
Bên cạnh đó, doanh nghiệp nhà nớc có thể đợc phân biệt với các loại hình
doanh nghiệp khác bởi các đặc điểm sau:
- Doanh nghiệp nhà nớc do cơ quan Nhà nớc có thẩm quyền trực tiếp ra
quyết định thành lập nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội do nhà nớc giao.
Nh vậy, doanh nghiệp nhà nớc không chỉ đợc thành lập để thực hiện các hoạt động
kinh doanh (nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế) mà còn đợc thành lập để thực
hiện các hoạt động công ích (thực hiện các mục tiêu xã hội). Các loại hình doanh
nghiệp khác không phải do Nhà nớc thành lập mà chỉ đợc Nhà nớc cho phép thành
lập trên cơ sở đơn xin thành lập của các chủ thể kinh doanh. Mục tiêu hoạt động
duy nhất của các loại hình doanh nghiệp này là lợi nhuận.
- Doanh nghiệp nhà nớc do Nhà nớc tổ chức quản lý. Đó là tổ chức kinh tế
của nhà nớc, do đó doanh nghiệp nhà nớc là đối tợng quản lý của Nhà nớc. Nhà n-
ớc tổ chức bộ máy quản lý các doanh nghiệp nói chung và bộ máy quản lý từng
doanh nghiệp nói riêng; Nhà nớc bổ nhiệm các cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp,
phê duyệt chiến lợc, quy hoạch, kế hoạch dài hạn hay trung hạn của doanh
nghiệp...
- Tài sản của doanh nghiệp nhà nớc là một bộ phận tài sản của nhà nớc.
Doanh nghiệp nhà nớc do Nhà nớc đầu t vốn để thành lập nên nó thuộc sở hữu
Nhà nớc. Doanh nghiệp nhà nớc là một chủ thể kinh doanh quản lý và tiến hành
hoạt động kinh doanh trên số tài sản của Nhà nớc giao cho. Trong khi đó, các chủ
thể kinh doanh khác đều là chủ sở hữu với tài sản kinh doanh của họ.
2. Phân loại doanh nghiệp nhà nớc
Cách phân loại chủ yếu đối với doanh nghiệp nhà nớc là căn cứ vào chức
năng hoạt động của doanh nghiệp. Theo cách phân loại này, doanh nghiệp nhà nớc
đợc phân làm hai loại:
- Doanh nghiệp nhà nớc hoạt động kinh doanh: Đó là những doanh nghiệp
hoạt động chủ yếu nhằm mục tiêu lợi nhuận.
- Doanh nghiệp nhà nớc hoạt động công ích: Đó là những doanh nghiệp nhà
nớc mà toàn bộ hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ của doanh nghiệp đó thực
hiện theo kế hoạch chính sách nhà nớc hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh. Lợi nhuận không phải là mục đích hàng đầu của loại hình doanh
nghiệp này.
3. Vai trò của doanh nghiệp nhà nớc trong nền kinh tế thị trờng.
Trong nền kinh tế thị trờng, các doanh nghiệp phát triển trong mối quan
hệ kinh tế đa dạng về hình thức sở hữu, về vốn và tài sản, về cơ chế tổ chức
quản lý. Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trờng không chỉ tồn tại đơn nhất
trong khu vực kinh tế quốc doanh (doanh nghiệp nhà nớc) nh trong nền kinh tế
kế hoạch hoá mà còn tồn tại dới nhiều hình thức sở hữu bao gồm các loại hình
tổ chức doanh nghiệp khác nhau nh: doanh nghiệp t nhân, công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty cổ phần, công ty liên doanh... Nhng doanh nghiệp nhà nớc có
vị trí đặc biệt quan trọng. Doanh nghiệp nhà nớc giữ vai trò chủ đạo đối với nền
kinh tế. Vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nớc đợc thể hiện qua những chức
năng cụ thể sau:
Thứ nhất, chức năng định hớng sự phát triển của nền kinh tế.
Doanh nghiệp nhà nớc luôn luôn phải đi tiên phong trong các lĩnh vực
chiến lợc theo đờng lối phát triển của Nhà nớc, tạo điều kiện mọi mặt nh đào tạo
nhân lực, cải tiến trang thiết bị kỹ thuật, cải tạo cơ sở hạ tầng... để các thành phần
kinh tế khác tham gia. Thông qua hớng phát triển của doanh nghiệp nhà nớc mà
các thành phần kinh tế khác biết đợc hớng đờng lối phát triển của Đảng và Nhà n-
ớc, có thể mới tránh đợc cho các thành phần kinh tế khác đi chệch với đờng lối mà
Đảng ta đã vạch ra.
Thứ hai, chức năng hỗ trợ và phục vụ.
Sự khác biệt giữa doanh nghiệp nhà nớc và các thành phần kinh tế khác là
sự phát triển của doanh nghiệp nhà nớc không chỉ đơn thuần vì bản thân nó mà
quan trọng hơn cả là cải tạo điều kiện cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế
quốc dân. Doanh nghiệp nhà nớc đợc bố trí và xây dựng ở những khu vực, ngành
nghề cần thiết để nâng cao đời sống nhân dân ở mọi vùng lãnh thổ, xoá bỏ sự cách
biệt giữa thành thị và nông thôn, đồng bằng và miền núi, hình thành các trung tâm
kinh tế mới, thúc đẩy trang bị kỹ thuật, đổi mới công nghệ cho toàn bộ nền kinh tế
quốc dân. Doanh nghiệp nhà nớc hoạt động trong một số ngành công nghiệp quan
trọng nhằm ngăn chặn sự độc quyền của t nhân có thể gây thiệt hại chung cho xã
hội. Có những sản phẩm, dịch vụ mang tính xã hội, không thơng mại hoá đợc nh
giao thông đờng thuỷ, những công trình kiến trúc mang tính lịch sử, bảo vệ phong
cảnh thiên nhiên... Chính phủ phải chi để đảm bảo giao thông đờng thuỷ, bảo tồn
các di tích lịch sử và phong cảnh thiên nhiên; khu vực t nhân không thể cung cấp
các hàng hoá đó vì nó không có quyền sở hữu chúng. Doanh nghiệp nhà nớc phải
đảm nhiệm công việc này. Ngoài ra doanh nghiệp nhà nớc còn phải có mặt trong
những ngành thuộc kết cấu hạ tầng, tạo cơ sở cho sự phát triển toàn bộ nền kinh
tế- những ngành đòi hỏi vốn lớn, vốn thu hồi chậm, tỷ suất lợi nhuận thấp, sản
phẩm làm ra ít tính thơng mại nên không hấp dẫn khu vực t nhân.
Thứ ba, chức năng bảo đảm sức mạnh vật chất để nhà nớc điều tiết và
hớng dẫn nền kinh tế thị trờng.
Doanh nghiệp nhà nớc là doanh nghiệp do Nhà nớc đầu t vốn và một trong
các mục tiêu hàng đầu khi thành lập doanh nghiệp là để đảm bảo vật chất cho các
hoạt động của Nhà nớc. Doanh nghiệp nhà nớc phải đảm bảo sức mạnh vật chất
để Nhà nớc có đủ nguồn lực chỉ đạo và hớng dẫn nền kinh tế phát triển theo
những mục tiêu, đờng lối đề ra. Hiện nay, doanh nghiệp nhà nớc chiếm tỷ trọng
lớn trong việc góp vào tổng sản phẩm quốc dân và đóng góp và thu Ngân sách
Nhà nớc, nắm giữ các ngành, lĩnh vực then chốt trong nền kinh tế. Doanh nghiệp
nhà nớc cũng có chức năng điều tiết nhằm đảm bảo sự phát triển ổn định của nền
kinh tế. Trong những trờng hợp bất ổn xảy ra, doanh nghiệp nhà nớc dùng lợng dự
trữ hàng hoá của mình để kiềm chế giá, chống đầu cơ, tăng giá... Đây chính là
những cách doanh nghiệp nhà nớc hỗ trợ về vật chất giúp Nhà nớc hớng nền kinh
tế vào các mục tiêu đã định. Cũng nh các loại hình doanh nghiệp khác, doanh
nghiệp nhà nớc phải hoạt động có hiệu quả theo nguyên tắc kinh doanh với nội
dung cơ bản là tự bù đắp chi phí và có lãi nhng một phần lợi nhuận của các doanh
nghiệp nhà nớc sẽ đợc dùng cho các chi phí quản lý sự nghiệp và các hoạt động
của Nhà nớc.
II. Quản lý vốn nhà nớc tại các doanh nghiệp nhà nớc
1. Khái quát về vốn trong doanh nghiệp
Mỗi doanh nghiệp đều có những đặc thù riêng, song quá trình sản xuất kinh
doanh đều có điểm chung là bắt đầu bằng các yếu tố đầu vào và kết thúc là các
yếu tố đầu ra. Đầu vào là các yếu tố sản xuất nh hàng hóa nguyên nhiện vật liệu
hay các dịch vụ mà doanh nghiệp sử dụng kết hợp với nhau để sản xuất ra các đầu
ra; đầu ra là sản phẩm hàng hoá hoặc dịch vụ có ích sử dụng cho quá trình sản
xuất khác hoặc để tiêu dùng.
Để tạo ra các đầu ra thì trớc hết doanh nghiệp cần phải có các yếu tố đầu
vào có giá trị nhất định. Vì vậy, doanh nghiệp phải có một lợng tiền tệ để đảm bảo
cho các yếu tố đầu vào này, lợng tiền tệ đó gọi là vốn sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Nh vậy, vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện
bằng tiền của toàn bộ tài sản đợc đầu t vào sản xuất kinh doanh nhằm mục đích
sinh lời. Hay nói cách khác vốn kinh doanh là năng lực hoạt động sản xuất kinh
doanh của một doanh nghiệp.
Vốn đợc biểu hiện cả bằng tiền lẫn bằng hình thái giá trị của các vật t, hàng
hóa, nhà xởng, máy móc thiết bị... phục vụ cho quá trình sản xuất. Sau quá trình
sản xuất số vốn này kết tinh vào sản phẩm. Khi sản phẩm đợc tiêu thụ, các hình
thái khác nhau của vật chất lại đợc chuyển hoá về hình thái tiền tệ ban đầu.
Để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, số tiền thu đợc do
tiêu thụ sản phẩm phải đảm bảo bù đắp toàn bộ chi phí bỏ ra và có lãi. Nh vậy, số
tiền ứng ra ban đầu phải đợc sử dụng có hiệu quả và đợc bảo toàn thì mới đảm bảo
cho sự phát triển lành mạnh của doanh nghiệp.
Kinh doanh trong nền kinh tế thị trờng, việc tạo vốn, bảo toàn và làm cho
đồng vốn sinh lời đợc hay không đợc quyết định bởi sự cạnh tranh gay gắt giữa
các doanh nghiệp với nhau. Trong cạnh tranh tất yếu có kẻ thắng ngời thua;
những doanh nghiệp kinh doanh phát triển, làm ra nhiều lợi nhuận và bảo toàn đ-
ợc vốn thì sẽ chiến thắng trong cạnh tranh, còn những doanh nghiệp nào kinh
doanh thua lỗ và mất dần vốn thì sẽ thất bại và có thể đi đến phá sản.
Việc nhận thức đầy đủ về những đặc trng của vốn trong quá trình sản xuất
kinh doanh sẽ giúp cho doanh nghiệp quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả hơn:
- Thứ nhất, vốn đợc thể hiện bằng một lợng giá trị thực của những tài sản đ-
ợc sử dụng để sản xuất ra một lợng giá trị sản phẩm khác. Tức là chỉ những giá trị
tài sản đợc sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh mới đợc gọi là vốn kinh
doanh.
- Thứ hai, vốn phải vận động sinh lời: tiền tệ chỉ đợc coi là vốn khi chúng
đựợc đa vào sản xuất kinh doanh; chúng vận động, biến đổi hình thái biểu hiện và
lại chở về hình thái tiền tệ ban đầu. Để đảm bảo cho quá trình đầu t sau thì vốn đó
phải có giá trị lớn hơn.
- Thứ ba, vốn phải tập trung đến một lợng nhất định mới có thể phát huy đ-
ợc tác dụng, và đợc tích tụ thì mới có thể đầu t để mở rộng sản xuất kinh doanh.
Doanh nghiệp phải khai thác mọi tiềm năng về vốn và thu hút, tận dụng các nguồn
vốn đầu t từ bên ngoài nh liên doanh, góp vốn... để đầu t vào kinh doanh.
- Thứ t, vốn có giá trị về mặt thời gian, do có sự ảnh hởng của nhiều yếu tố
nh lạm phát, giá cả thay đổi, tiến bộ khoa học kỹ thuật không ngừng phát triển
nên sức mua của đồng tiền ở mỗi thời điểm khác nhau là khác nhau.
- Thứ năm, vốn phải gắn với chủ sở hữu, có nh vậy vốn mới đợc quản lý
chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả.
- Thứ sáu, vốn không chỉ biểu hiện bằng tiền của những tài sản hữu hình có
hình thái vật chất cụ thể mà biểu hiện cả bằng những tài sản vô hình không có
hình thái vật chất nh phát minh khoa học, bằng sáng chế, lợi thế thơng mại..
Vấn đề đặt ra là doanh nghiệp sẽ huy động bao nhiêu từ những nguồn nào
để đáp ứng cho nhu cầu vốn của hoạt động sản xuất kinh doanh để tiết kiệm tối đa
chi phí sử dụng vốn, đồng thời có biện pháp quản lý phù hợp và sử dụng vốn có
hiệu quả
2. Tính tất yếu của việc quản lý vốn nhà nớc trong các doanh nghiệp
nhà nớc
Để đạt mục tiêu thành lập doanh nghiệp nhà nớc, Nhà nớc phải thiết lập
chế độ quản lý kinh tế và tài chính đối với doanh nghiệp nhà nớc nh: chế độ
đầu t vốn, chế độ quản lý vốn và tài sản, chế độ quản lý doanh thu- chi phí, chế
độ phân phối và sử dụng kết quả kinh doanh... Mục tiêu của các chế độ đó là
tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện đợc các nhiệm vụ kinh tế, xã hội Nhà
nớc giao cho doanh nghiệp.
Thứ nhất, doanh nghiệp nhà nớc là thuộc sở hữu toàn dân nhng Nhà nớc
giao cho một số cá nhân, đơn vị quản lý điều hành. Bên cạnh đó, Nhà nớc lại uỷ
nhiệm cho Bộ Tài chính là cơ quan đại diện của Nhà nớc chịu trách nhiệm quản lý
phần vốn của Nhà nớc đầu t vào các doanh nghiệp nhà nớc. Nh vậy, có sự tách
biệt giữa ngời quản lý vốn và ngời sử dụng vốn, hai đối tợng này có thể có những
mục tiêu không phù hợp nhau. Các doanh nghiệp nhà nớc không phải đơng đầu
với nguy cơ bị những thế lực cạnh tranh mua lại nh các doanh nghiệp trong khu
vực t nhân, vì vậy mối đe doạ bị mất việc do hoạt động kém hiệu quả của ngời sử
dụng vốn là ít hơn so với trong khu vực t nhân. Do đó ngời sử dụng vốn có thể
tuân theo những động cơ có lợi khác. Những động cơ này có thể làm cho những
ngời lãnh đạo các doanh nghiệp nhà nớc hành động không nhất quán với các mục
tiêu của doanh nghiệp. Khi những ngời này không nắm quyền sở hữu vốn của
doanh nghiệp và cũng không thể tăng thêm sự giàu có cho bản thân bằng cách
tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp thì chẳng có gì kích thích họ phải nhìn