Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Thay đổi kiến thức về chăm sóc người bệnh tâm thần phân liệt tại nhà cho người chăm sóc chính tại bệnh viện tâm thần tỉnh nam định năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 99 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH

NGUYỄN THỊ DUNG

THAY ĐỔI KIẾN THỨC VỀ CHĂM SÓC
NGƯỜI BỆNH TÂM THẦN PHÂN LIỆT TẠI NHÀ CHO
NGƯỜI CHĂM SĨC CHÍNH TẠI BỆNH VIỆN TÂM THẦN
TỈNH NAM ĐỊNH NĂM 2020

LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐIỀU DƯỠNG

NAM ĐỊNH - 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH

NGUYỄN THỊ DUNG

THAY ĐỔI KIẾN THỨC VỀ CHĂM SÓC
NGƯỜI BỆNH TÂM THẦN PHÂN LIỆT TẠI NHÀ CHO
NGƯỜI CHĂM SĨC CHÍNH TẠI BỆNH VIỆN TÂM THẦN
TỈNH NAM ĐỊNH NĂM 2020
Ngành: Điều dưỡng


Mã số: 8720301

LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐIỀU DƯỠNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

PGS.TS. Lê Thanh Tùng

NAM ĐỊNH – 2020


i
TĨM TẮT

Mục tiêu: Mơ tả thực trạng kiến thức về chăm sóc người bệnh tâm thần phân
liệt tại nhà của người chăm sóc chính tại Bệnh viện Tâm thần tỉnh Nam Định năm
2020. Đồng thời đánh giá sự thay đổi kiến thức về chăm sóc người bệnh tâm thần
phân liệt tại nhà của người chăm sóc chính sau can thiệp giáo dục sức khỏe.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp nghiên cứu
can thiệp giáo dục có so sánh trước sau trên 70 người chăm sóc chính về kiến thức
chăm sóc người bệnh tâm thần phân liệt tại nhà bằng bộ câu hỏi chuẩn bị trước tại 3
thời điểm: Trước can thiệp, ngay sau can thiệp 1 ngày và sau can thiệp 1 tháng.
Kết quả: Trước can thiệp kiến thức về chăm sóc người bệnh TTPL tại nhà
của người chăm sóc chính tại bệnh viện tâm thần tỉnh Nam Định cịn hạn chế. Tỷ lệ
người chăm sóc có kiến thức đạt là 60%, trong đó mức độ trung bình chiếm tỷ lệ
54,3%; khá 5,7%. Điếm trung bình kiến thức chung về chăm sóc người bệnh TTPL
tại nhà của người chăm sóc chính là 5,33 ± 1,13 (thang điểm 10). Sau can thiệp
100% người chăm sóc chính có kiến thức đạt, trong đó mức đạt tốt chiếm tỷ lệ
97,1% sau 1 ngày và 82,9% sau 1 tháng. Điểm trung bình kiến thức chung đạt 9,29
± 0,48 điểm (tăng 3,96 điểm) sau can thiệp 1 ngày. Sau can thiệp 1 tháng điểm
trung bình kiến thức chung có giảm nhưng vẫn ở mức cao 8,73 ± 0,48 (tăng 3,4

điểm so với trước can thiệp). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,001.
Kết luận: Kiến thức về chăm sóc người bệnh tâm thần phân liệt tại nhà của
người chăm sóc chính trước can thiệp cịn nhiều hạn chế nhưng đã đựơc cải thiện
đáng kể sau can thiệp. Điều này cho thấy tầm quan trọng của giáo dục sức khỏe
trong việc nâng cao kiến thức của người chăm sóc chính về chăm sóc tại nhà cho
người bệnh tâm thần phân liệt.


ii
LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành khóa học này, với tất cả tấm lịng tơi xin được trân trọng cảm
ơn Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo Sau đại học, cùng các thầy cô giáo trường Đại
học Điều dưỡng Nam Định đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn và giúp đỡ tơi trong
q trình học tập và nghiên cứu.
Tơi xin được trân trọng cảm ơn Ban Giám đốc Bệnh Tâm thần Nam Định,
Lãnh đạo Khoa Nam, Khoa Nữ, Khoa Cấp tính Bệnh viện Tâm thần Nam Định, các
đồng nghiệp là Bác sĩ, Điều dưỡng, gia đình người bệnh đã tham gia vào nghiên
cứu, giúp tôi thu thập số liệu thành công.
Tôi xin được gửi tới thầy hướng dẫn của tôi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc
nhất, người đã hướng dẫn, chỉ bảo tận tình và truyền thụ cho tơi kinh nghiệm cũng
như kiến thức về nghiên cứu, giúp tơi hồn thành luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Đảng ủy, Ban Giám hiệu, đồng nghiệp trong Trung
tâm thực hành Tiền lâm sàng - Trường đại học Điều dưỡng Nam Định đã động viên
giúp đỡ về tinh thần và vật chất và tham gia nghiên cứu cùng tôi trong thời gian làm
nghiên cứu.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình tơi, tới bố mẹ người đã
sinh ra và ủng hộ tôi suốt quãng thời gian vừa qua, cũng như các thành viên khác
trong gia đình đã ln động viên, khích lệ tơi trong q trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


Học viên

Nguyễn Thị Dung


iii
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai cơng bố trong bất kỳ
cơng trình nào khác.
Nam Định, ngày

tháng

năm 2020

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Dung


MỤC LỤC
TÓM TẮT ................................................................................................................i
LỜI CẢM ƠN .........................................................................................................ii
LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................. iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ..................................................................... iv
DANH MỤC CÁC BẢNG ...................................................................................... v
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ................................................................................. vi
ĐẶT VẤN ĐỀ......................................................................................................... 1
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU .................................................................................... 3

Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ...................................................................... 4
1.1. Đại cương về tâm thần phân liệt ................................................................... 4
1.2. Chăm sóc người bệnh tâm thần phân liệt tại nhà ......................................... 14
1.3. Các vai trò của người chăm sóc chính cho người bệnh tại nhà gồm có:....... 16
1.4. Khái niệm người chăm sóc chính và kiến thức của người chăm sóc chính. . 19
1.5. Can thiệp truyền thơng giáo dục sức khỏe .................................................. 23
1.6. Giới thiệu về địa bàn nghiên cứu ................................................................ 26
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........................... 27
2.1. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................. 27
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu. .............................................................. 27
2.3. Thiết kế nghiên cứu .................................................................................... 27
2.4. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu ............................................................. 28
2.5. Công cụ nghiên cứu .................................................................................... 28
2.6. Phương pháp thu thập số liệu. ..................................................................... 30
2.7. Các biến số nghiên cứu ............................................................................... 32
2.8. Thang đo và tiêu chuẩn đánh giá................................................................. 33
2.9. Phương pháp phân tích số liệu ................................................................... 34
2.10. Đạo đức trong nghiên cứu......................................................................... 35
2.11. Sai số và biện pháp khắc phục sai số......................................................... 35
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .................................................................. 37
3.1. Đặc điểm chung về đối tượng nghiên cứu ................................................... 37


3.2. Thực trạng kiến thức về chăm sóc người bệnh tâm thần phân liệt tại nhà của
đối tượng nghiên cứu trước can thiệp giáo dục. ................................................. 40
3.3. Kiến thức về chăm sóc người bệnh tâm thần phân liệt tại nhà của đối tượng
nghiên cứu trước và sau can thiệp giáo dục. ...................................................... 46
Chương 4: BÀN LUẬN......................................................................................... 55
4.1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu. .................................................. 55
4.2. Kiến thức về chăm sóc người bệnh tâm thần phân liệt tại nhà của người

chăm sóc chính trước và sau can thiệp giáo dục................................................. 57
4.3. Sự thay đổi kiến thức chăm sóc về chăm sóc người bệnh tâm thần phân liệt
tại nhà của người chăm sóc chính trước và sau can thiệp ................................... 67
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 68
KHUYẾN NGHỊ ................................................................................................... 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phụ lục 1: Bản đồng thuận
Phụ lục 2: Phiếu phỏng vấn đối tượng nghiên cứu
Phụ lục 3: Nội dung giáo dục sức khoẻ về chăm sóc người bệnh bệnh tâm thần phân liệt
tại nhà dành cho người chăm sóc chính
Phụ lục 4: Tài liệu phát tay cho người bệnh
Phụ lục 5: Đáp án bộ câu hỏi kiến thức về bệnh tâm thần phân liệt của người chăm
sóc chính.
Phụ lục 6: Kết quả chạy Cronbach's Alpha bộ công cụ kiến thức về chăm sóc người
bệnh TTPL tại nhà của người chăm sóc chính
Phụ lục 7: Danh sách chun gia góp ý bộ công cụ
Phụ lục 8: Phiếu xin ý kiến chuyên gia
Phụ lục 9: Danh sách đối tượng tham gia nghiên cứu


iv

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ĐTNC

GDSK

Đối tượng nghiên cứu
Gia đình

Giáo dục sức khỏe

NB

Người bệnh

NCS

Người chăm sóc

NCSC

Người chăm sóc chính

NVYT

Nhân viên y tế

NCS

Người chăm sóc

WHO

Tổ chức Y tế thế giới (World Health Organization)

SKTT

Sức khỏe tâm thần


TTPL

Tâm thần phân liệt


v

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Tình hình dịch tễ học tại tỉnh Nam Định .................................................. 7
Bảng 3.1. Đặc điểm chung đối tượng nghiên cứu .................................................. 37
Bảng 3.2. Kênh thông tin đối tượng nghiên cứu tiếp cận và tin tưởng .................... 39
Bảng 3.3. Thực trạng kiến thức về bệnh tâm thần phân liệt của đối tượng nghiên cứu
trước can thiệp ...................................................................................... 40
Bảng 3.4. Thực trạng kiến thức về sử dụng thuốc cho người bệnh tâm thần phân liệt
tại nhà trước can thiệp giáo dục ............................................................ 42
Bảng 3.5 Thực trạng kiến thức xử trí, chăm sóc một số tình huống tại nhà cho
người bệnh tâm thần phân liệt trước can thiệp giáo dục ........................ 43
Bảng 3.6. Thực trạng kiến thức chăm sóc về vệ sinh, dinh dưỡng, sinh hoạt, lao
động, giao tiếp tại nhà trước can thiệp ................................................. 44
Bảng 3.7. Điểm trung bình kiến thức chung về chăm sóc người bệnh tâm thần phân
liệt tại nhà trước can thiệp..................................................................... 45
Bảng 3.8. Khác biệt kiến thức về bệnh tâm thần phân liệt của đối tượng nghiên cứu
trước và sau can thiệp ........................................................................... 46
Bảng 3.9. So sánh điểm trung bình kiến thức về bệnh của đối tượng nghiên cứu
trước và sau can thiệp ........................................................................... 47
Bảng 3.10. Khác biệt kiến thức về sử dụng thuốc cho người bệnh tâm thần phân liệt
tại nhà trước và sau can thiệp giáo dục.................................................. 48
Bảng 3.11. So sánh điểm trung bình kiến thức về sử dụng thuốc tại nhà cho người
bệnh tâm thần phân liệt của đối tượng nghiên cứu trước can thiệp ...... 49
Bảng 3.12. Khác biệt về kiến thức xử trí, chăm sóc một số tình huống tại nhà

trước và sau can thiệp giáo dục ........................................................... 50
Bảng 3.13. So sánh điểm trung bình kiến thức về xử trí, chăm sóc 1 số tình huống
tại nhà của đối tượng trước và sau can thiệp giáo dục ......................... 51
Bảng 3.14. Khác biệt kiến thức chăm sóc về vệ sinh, dinh dưỡng, sinh hoạt, lao
động, giao tiếp tại nhà của đối tượng trước và sau can thiệp giáo dục . 52
Bảng 3.15. So sánh điểm trung bình kiến thức chăm sóc về vệ sinh, dinh dưỡng,
sinh hoạt, lao động, giao tiếp tại nhà trước và sau can thiệp giáo dục.. 53
Bảng 3.16. So sánh điểm trung bình kiến thức chung về chăm sóc người bệnh tại
nhà của đối tượng nghiên cứu trước và sau can thiệp .......................... 53


vi

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1: Mối quan hệ của đối tượng nghiên cứu với người bệnh .................... 38
Biểu đồ 3.2: Tỷ lệ đối tượng nghiên cứu được nhận thông tin ............................... 38
Biểu đồ 3.3: Phân loại kiến thức về chăm sóc người bệnh tâm thần phân liệt tại nhà
của đối tượng nghiên cứu trước can thiệp ......................................... 45
Biểu đồ 3.4: Phân loại mức độ kiến thức về chăm sóc người bệnh tại nhà của đối
tượng nghiên cứu trước và sau can thiệp .......................................... 54


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tâm thần phân liệt là một bệnh loạn thần nặng, có khuynh hướng mạn tính và
khá phổ biến ở hầu hết các nước trên thế giới [2], [13]; [22] . Theo Tổ chức Y tế Thế
giới bệnh tâm thần phân liệt chiếm khoảng từ 0,3% đến 1% dân số và ước tính thế
giới có khoảng 26 triệu người mắc bệnh tâm thần phân liệt [9]. Tại Việt Nam theo
điều tra dịch tễ lâm sàng, tỷ lệ người mắc bệnh là 0,47% dân số [9]. Theo Nguyễn

Viết Siêm tỷ lệ này là 0,52% - 0,61% dân số. Tuổi khởi phát trung bình ở nam là
20-25 tuổi, nữ 25-30 tuổi [19].
Việc điều trị người bệnh tâm thần phân liệt hiện nay gồm có điều trị cấp tính
tại bệnh viện, điều trị duy trì và phục hồi chức năng tại gia đình. Theo thống kê có
khoảng 40-80% người bệnh Tâm thần phân liệt sống hiện đang sống cùng gia đình
của họ [19]. Những người bệnh này phải thường xuyên dựa vào gia đình của họ để
được chăm sóc hỗ trợ về thể chất và tinh thần trong suốt cuộc đời [31]. Vì vậy vai
trị của người chăm sóc đối với người bệnh là rất quan trọng và cần thiết. Nếu người
chăm sóc khơng có kiến thức và hỗ trợ đầy đủ, họ có thể khơng thể đảm nhận được
trách nhiệm chăm sóc người bệnh, vì thế dẫn đến tình trạng tái phát nhiều hơn [26],
[33], [37], [29], [43].
Tại Việt Nam đã có một số nghiên cứu về kiến thức về bệnh tâm thần phân
liệt và chăm sóc người bệnh tại nhà của người chăm sóc [12], [15], [25]…Tuy nhiên
các nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở đánh giá thực trạng kiến thức. Kết quả nghiên
cứu của Đinh Quốc Khánh năm 2010 cho thấy tỷ lệ người chăm sóc chính có kiến
thức về chăm sóc bệnh tâm thần phân liệt tại nhà chỉ đạt 50% [12]; Nghiên cứu của
Phạm Xuân Trưởng và cộng sự cho thấy: chỉ có 25,53% số người chăm sóc nhận
thức đúng tâm thần phân liệt là bệnh tiến triển suốt đời; 40,43% số người chăm sóc
nhận thức đúng bệnh tâm thần phân liệt phải điều trị củng cố suốt đời [25]. Điều
này cho thấy kiến thức về chăm sóc người bệnh tâm thần phân liệt của người chăm
sóc tại nhà cịn hạn chế.
Tỉnh Nam Định nằm ở phía nam đồng bằng Bắc Bộ, Việt Nam, thuộc vùng
duyên hải Bắc Bộ; tỉnh gồm có 1 Thành phố và 9 huyện với tổng cộng 229 xã phường.


2

Nam Định là một trong những tỉnh có số lượng người bệnh tâm thần phân liệt được
quản lý tương đối cao. Theo số liệu báo cáo tính đến tháng 6 năm 2019, tồn tỉnh có
5788 người bệnh tâm thần phân liệt được quản lý điều trị ngoại trú, tuy vậy cơng tác

chăm sóc, quản lý tại nhà cịn nhiều hạn chế [7]. Q trình điều trị bệnh sẽ có hiệu
quả hơn khi những người chăm sóc được trang bị kiến thức đầy đủ liên quan đến
tâm thần phân liệt. Do đó, việc nâng cao kiến thức về chăm sóc người bệnh tâm
thần phân liệt tại nhà cho cho người chăm sóc là một vấn đề cấp thiết. Vì vậy chúng
tơi thực hiện nghiên cứu: “Thay đổi kiến thức về chăm sóc người bệnh tâm thần
phân liệt tại nhà cho người chăm sóc chính tại Bệnh viện Tâm thần tỉnh Nam
Định năm 2020” với 2 mục tiêu:


3

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1- Mô tả thực trạng kiến thức về chăm sóc người bệnh tâm thần phân liệt tại
nhà của người chăm sóc chính tại Bệnh viện Tâm thần tỉnh Nam Định năm 2020.
2- Đánh giá sự thay đổi kiến thức về chăm sóc người bệnh tâm thần phân liệt
tại nhà của người chăm sóc chính sau can thiệp giáo dục sức khỏe.


4

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

Chương này sẽ đề cập đến một số khái niệm, các nội dung liên quan đến
người chăm sóc chính, bệnh tâm thần phân liệt, các nghiên cứu về chăm sóc người
bệnh tâm thần phân liệt trong nước và ngồi nước. Tóm tắt nghiên cứu đã thực hiện
liên quan đến kiến thức về chăm sóc người bệnh tâm thần phân liệt của người chăm
sóc chính.
1.1. Đại cương về tâm thần phân liệt
1.1.1. Khái niệm về bệnh tâm thần phân liệt.

Theo bảng phân loại thống kê Quốc tế về bệnh tật và các vấn đề sức khỏe có
liên quan phiên bản lần thứ 10 (ICD-10), định nghĩa “Tâm thần phân liệt là một
bệnh loạn thần nặng, tiến triển từ từ, có khuynh hướng mạn tính, căn ngun hiện
nay chưa rõ ràng, làm cho người bệnh dần tách khỏi cuộc sống bên ngoài, thu dần
vào thế giới bên trong, làm cho tình cảm trở nên khơ lạnh, khả năng học tập, làm
việc ngày một sút kém, có những hành vi, ý nghĩ kỳ dị, khó hiểu” [24].
Theo DSM-5, rối loạn phổ tâm thần phân liệt hay các rối loạn tâm thần khác
bao gồm tâm thần phần liệt, rối loạn tâm thần khác và chứng rối loạn tâm trạng
được xác định bởi những bất thường, bao gồm 1 hoặc nhiều lĩnh vực trong 5 lĩnh
vực sau: Các hoang tưởng; các ảo giác; ngôn ngữ thanh xuân; hành vi thanh xuân
hoặc hành vi căng trương lực; các triệu chứng âm tính [27].
Bệnh tâm thần phân liệt đã được biết từ lâu nhưng đến thế kỷ thứ XVIII mới
được mô tả trong y văn. Năm 1857 nhà tâm thần học người Pháp Morel B.A (1809
- 1873) lần đầu tiên mô tả một loại bênh tâm thần ở người trẻ tuổi và thường dẫn
đến sa sút, gọi là bệnh sa sút sớm. Năm 1863 nhà tâm thần học người Đức
Khalbaum K.L (1828 - 1899) mô tả một bệnh tâm thần phát triển ở người trẻ tuổi
mang tính chất dữ dội gọi là tâm thần thanh xuân (hebephrénia). Năm 1874
Khalbaum K.L lại mô tả một bệnh tâm thần biếu hiện chủ yếu rối loạn tâm lý vận


5

động gọi là bệnh căng trương lực (catatonia). Năm 1892 nhà tâm thần học Pháp
Magran (1835 - 1816) mô tả bệnh loạn thần hoang tưởng mạn tính mà một số dẫn
đến sa sút và vô cảm. Năm 1989 nhà tâm thần học Đức Karaepelin E. đã thống
nhất các thể bệnh độc lập được tác giả trên mô tả thành một loại bệnh riêng gọi là
bệnh sa sút sớm. Năm 1911 nhà tâm thần học Bleuler E (Thụy Sỹ) đưa ra kết luận
lý thú về các rối loạn chủ yếu của bệnh là sự chia cắt trong các mặt hoạt động tâm
thần, đó là lý do để ơng đưa ra thuật ngữ mới: Bệnh tâm thần phân liệt
(schizophrenia). Theo ông nét đặc trưng của bênh tâm thần phân liệt gồm 4 chữ A

(rối loạn sự liên tưởng: Association, rối loạn loại cảm xúc: Affect, tự kỷ: Autism và
tính hai chiều trái ngược: Ambevalence) [13].
Năm 1939 Schneider K. mô tả một số triệu chứng hàng đầu, được ông coi là
đặc trưng cho tâm thần phân liệt (TTPL): là một bệnh tâm thần nặng, có tính chất
tiến triển, căn ngun chưa rõ ràng, làm biến đổi nhân cách của người bệnh theo
kiểu phân liệt, biểu hiện bằng sự mất thống nhất trong các hoạt động tâm thần, mất
dần liên hệ với thực tại xung quanh, cảm xúc ngày càng khô lạnh, tác phong ngày
càng kỳ dị khó hiểu, tư duy ngày càng lệch lạc trầm trọng [13].
1.1.2 . Một số đặc điểm dịch tễ bệnh tâm thần phân liệt.
* Tình hình dịch tễ học thế giới
Bệnh TTPL là một bệnh tương đối phổ biến, theo WHO tỷ lệ mắc bệnh
khoảng 0,3 – 1% dân số [2].
Theo số liệu đã được thống kê, người ta ước tính có khoảng 2,2 triệu người ở
Hoa Kỳ mắc bệnh tâm thần phân liệt. Tỷ lệ mắc mới được chẩn đoán dao động từ
11 đến 70 trên 100.000 người. Nguy cơ phát triển tâm thần phân liệt được cho là
khoảng 1% đối với dân số nói chung và khơng có sự khác nhau giữa nam và nữ [3].
Hiện nay thế giới có khoảng 24 triệu người mắc bệnh tâm thần phân liệt, mỗi
năm trong số đó có khoảng: 1 triệu người tự sát, 10-20 triệu người có ý định tự sát [3].
* Tình hình dịch tễ học ở Việt Nam
Ở Việt Nam, từ năm 1964 đến nay đã có một số cơng trình điều tra cơ bản về


6

bệnh tâm thần và thu được một số kết quả. Song do phương pháp, công cụ và đặc
biệt là tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh tâm thần ở mỗi thời kỳ có khác nhau nên tỷ lệ một
số rối loạn tâm thần có thay đổi [3].
Năm 1981 Trần Văn Cường, Nguyễn Khánh Hợi điều tra tâm thần ở xã Hồ
Bình. Nguyễn Thị Mai và cộng sự điều tra về các bệnh tâm thần tại phường Lê Đại
Hành, Hà Nội. Nguyễn Văn Siêm và cộng sự điều tra Handicap tâm thần ở 4 xã

(phường) Hà Nội. Các cơng trình này cho tỷ lệ mắc bệnh tâm thần dao động 1820% dân số [3].
Năm 1994 được sự giúp đỡ của WHO khu vực Tây Thái Bình Dương, ngành
tâm thần Việt Nam đã tiến hành điều tra tâm thần tại 3 điểm: xã Tự Nhiên, xã Quất
Động thuộc huyện Thường Tín; xã Tiên Kiên, huyện Lâm thao – Phú Thọ và xây
dựng mơ hình chăm sóc sức khỏe tâm thần dựa vào cộng động; cho tỷ lệ mắc rối
loạn tâm thần phân liệt là 0,3-1% dân số [3].
Năm 2010 Nguyễn Văn Siêm thực hiện nghiên cứu dịch tễ học bệnh tâm
thần phân liệt tại cộng đồng, địa điểm nghiên cứu được tiến hành tại một phường
của thành thị, một xã của nông thôn đồng bằng và một xã miền núi với tổng dân số
23758. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ mắc chung là 0,52 – 0,61% dân số. Tỷ lệ
mắc điểm là 0,49 – 0,53%. Tỷ lệ mới mắc trong một năm 0,29 – 0,56%. Xác suất
mắc bệnh 1,26 – 1,44%. Tỷ số người bệnh nữ/nam là 0,9. Số người bệnh khởi phát
ở độ tuổi 15 – 25 có tỷ lệ cao nhất (49 – 65%). Tuổi khởi phát trung bình ở nam là
20 – 25, ở nữ là 25 – 30. Tỷ lệ độc thân ở người bệnh nam là 40,58%, ở người bệnh
nữ là 38,71%. Tỷ lệ ly hôn, ly thân là 5,33%. Tỷ lệ người bệnh mạn tính và hay tái
phát là 88 – 94% [19].
* Tình hình dịch tễ học tại tỉnh Nam Định
Theo điều tra dịch tễ học 10 rối loạn tâm thần thường gặp của Bệnh viện Tâm
thần Nam Định. Tỷ lệ mắc bệnh tâm thần phân liệt trên địa bàn tỉnh là 0,31%. Kết
quả báo cáo tính đến tháng 6/2019 trong danh sách quản lý và theo dõi của Bệnh viện
Tâm thần Nam Định, toàn tỉnh có 5788 người bệnh tâm thần phân liệt [1].


7

Bảng 1.1. Tình hình dịch tễ học tại tỉnh Nam Định
STT

Đơn vị


Số đơn vị cấp xã

Người bệnh TTPL đến 12/2017

1

TP. Nam Định

25

502

2

Giao Thủy

22

506

3

Mỹ Lộc

11

205

4


Vụ Bản

18

416

5

Xuân Trường

20

565

6

Trực Ninh

21

615

7

Hải Hậu

35

832


8

Nghĩa Hưng

25

532

9

Nam Trực

20

655

10

Ý Yên

32

850

229

5678

Tổng


1.1.3 . Một số nguyên nhân gây bệnh tâm thần phân liệt.
Trong suốt quá trình lịch sử của ngành tâm thần học, các tác giả đã kiên trì
nghiên cứu và thử nghiệm, có nhiều giả thuyết của các chuyên ngành liên quan đến
Tâm thần học như: Hoá sinh học, Di truyền học, Thần kinh học, Triết học,...nhưng
cho đến nay bệnh nguyên và bệnh sinh của TTPL vẫn chưa xác định được rõ ràng,
chưa có một giả thuyết nào mang đến một kết quả thuyết phục [13] [11].
Giả thuyết về sinh hóa
Nghiên cứu của nhiều tác giả cho rằng ở NBTTPL có rối loạn chuyển hố
các chất trung gian hố học thần kinh như Serotonin, Catecholamin,....
Giả thuyết về rối loạn cấu trúc và chức năng não
Một hướng nghiên cứu được chú ý gần đây là giả thuyết về rối loạn động hệ
Dopaminergic. Cơ sở khoa học của giả thuyết này là hiệu quả điều trị của các thuốc
hướng thần làm phong tỏa Receptors Dopamin và làm giảm sự dẫn truyền Dopamin
ở các vùng khác nhau của não. Do vậy, bệnh TTPL có thể liên quan đến thừa hoặc
tăng tương đối hoạt tính Neuron hệ thống Dopamine trung ương.
Một số giả thuyết về di truyền học


8

Bệnh TTPL và những rối loạn liên quan đến TTPL xảy ra với tỷ lệ cao trong
số những người có mối liên hệ sinh học với NBTTPL. Một số nghiên cứu cho thấy
rằng nếu bố hoặc mẹ mắc bệnh thì khả năng mắc bệnh của con cái từ 10% - 20% và
nếu cả bố và mẹ mắc bệnh thì tỷ lệ con mắc bệnh tăng lên đến 30% - 40%.
Một số giả thuyết khác
Môi trường tâm lý xã hội, mất khả năng thích ứng với các Stress tâm lý, rối
loạn cấu trúc và xung đột gia đình, các biến đổi văn hóa, các yếu tố liên quan trong
q trình mang thai, sinh nở…tuy không phải là nguyên nhân nhưng cũng là những
nhân tố thúc đẩy bệnh phát sinh và phát triển.
1.1.4 . Triệu chứng lâm sàng bệnh tâm thần phân liệt.

- Rối loạn ngôn ngữ
Ngôn ngữ của người mắc bệnh TTPL thường nghèo nàn, tối nghĩa, khó hiểu,
thường gặp hiện tượng lời nói bị ngắt quãng, thêm vào những từ lạ khi nói, dịng
liên tưởng lỏng lẻo, có lúc nói nhanh, có lúc nói chậm, khơng nói hoặc nói liên hồi,
có lúc nói một mình, nói hỗn độn đầu gà đuôi vịt, lặp đi lặp lại.
- Rối loạn tư duy
Thường là các loại hoang tưởng, (hoang tưởng là những ý tưởng, phán đốn
khơng phù hợp với thực tế nhưng NB cho là đúng khơng thể giải thích thuyết phục
được). Thường gặp hoang tưởng bị truy hại, NB khẳng định có một nhóm người
hoặc một người nào đó âm mưu hại mình nhưng đặc biệt có ý nghĩ chẩn đốn là
hoang tưởng bị chi phối, hoang tưởng bị kiểm tra, NB cảm thấy những cảm giác,
hành vi, ý nghĩa của mình bị chi phối bởi một người nào đó từ bên ngồi, có khi
bằng các máy vơ tuyến điện, tia xạ hoặc bằng phù phép siêu nhiên,…
- Rối loạn tri giác
Thường gặp ảo thanh (nghe tiếng nói khi khơng có người xung quanh), tiếng
nói văng vẳng bên tai hoặc xuất hiện ở trong đầu, trong các bộ phận của cơ thể NB.
Nội dung tiếng nói thường bình phẩm hoặc ra lệnh cho NB. Một số NB có những
rối loạn cảm giác trong cơ thể nhất là các cơ quan nội tạng hoặc có cảm giác biến
đổi các bộ phận trong cơ thể như cảm thấy khơng có tim phổi, chân tay dài ra hay
ngắn lại.


9

- Rối loạn cảm xúc
Những thay đổi cảm xúc thường xuất hiện sớm, đặc trưng là cảm xúc ngày
càng cùn mịn, khơ lạnh, NB mất cảm tình với người xung quanh, bàng quan lạnh
nhạt với vui thú trước đây. Thường gặp cảm xúc trái ngược với nội dung lời nói và
hồn cảnh xung quanh (đi vào đám cưới lại khóc, đi vào đám ma lại cười), hoặc
cảm xúc 2 chiều (vừa yêu, vừa ghét một người, một hiện tượng). NB thường xa lánh

người thân, hằn học với mọi người, đôi khi biểu hiện cảm xúc đột biến như khóc
lóc, cơn cười vô duyên vô cớ, cơn lo sợ, cơn giận dữ. Có thể xuất hiện những thời
kỳ trầm cảm, biểu hiện buồn chán khơng lý do hoặc hưng phấn nói nhiều.
- Rối loạn hành vi tác phong
Người bệnh TTPL thường xa lánh mọi người, sống độc thân đi lang thang
không có mục đích; có NB lên cơn kích động hị hét, đập phá; có NB có những
động tác định hình lặp đi lặp lại hoặc điệu bộ nhún vai nhếch mép. Đặc trưng là
hiện tượng căng trương lực biểu hiện trạng thái kích động xen kẽ bất động; trong
trạng thái kích động, lời nói và động tác có tính chất định hình; có trường hợp xung
đột tấn cơng. Trong trạng thái bất động, NB nằm sững sờ khơng nói, khơng ăn và
chống đối; có NB ban ngày nằm yên tại giường, tối lại dậy đi lại bình thường. Một
số NB có những hành vi kỳ dị, trời nắng nóng thì mặc áo bông, trời rét lại cởi trần
lội xuống sông bơi; có NB lên cơn xung đột bột phát tự nhiên đốt nhà, chém giết
người một cách thản nhiên.
- Rối loạn ý chí
Người bệnh mất sáng kiến, mất động cơ, khả năng học tập và lao động giảm
sút. Những việc trước kia NB làm dễ dàng thì nay phải cố gắng lắm mới làm được.
Thói quen nghề nghiệp mất dần đến chỗ khơng thiết làm gì nữa. Một NB sau nhiều
năm bị bệnh, đời sống ngày càng suy đồi, lang thang hoặc nằm lì một chỗ, khơng
chú ý đến vệ sinh thân thể.
- Rối loạn về nhận thức
Mặc dù ý tưởng, hành vi của NB rất khơng bình thường nhưng khơng bao
giờ họ thừa nhận là mình sai. Chính vì không nhận thức được bệnh nên họ thường
từ chối việc chăm sóc và điều trị.


10

- Biến đổi nhân cách
Sau một thời gian bị bệnh, NBTTPL thường biến đổi nhân cách gọi là nhân

cách phân liệt; đặc trưng với 2 tính chất cơ bản là tính thiếu hịa hợp trong các mặt
hoạt động tâm thần và tính tự kỷ biểu hiện bằng sự tách rời thế giới thực tại bên
ngoài để quay vào cuộc sống nội tâm bên trong bí ẩn, lạ kỳ chỉ tự mình biết, khơng
ai có thể hiểu được.
Nhìn chung, các triệu chứng lâm sàng của bệnh TTPL là vô cùng phong phú,
phức tạp và luôn biến đổi [20], [22], [13].
1.1.5. Chẩn đoán bệnh tâm thần phân liệt.
Tiêu chuẩn chẩn đoán TTPL theo ICD-10 năm 1992, mục F20 [24], [5], [2]:
a. Tư duy vang thành tiếng, tư duy bị áp đặt hay đánh cắp, tư duy bị phát thanh.
b. Các hoang tưởng bị kiểm tra, bị chi phối hay bị động có liên quan rõ rệt tới
vận động của cơ thể hoặc liên quan tới ý nghĩ, hành vi, cảm giác đặc biệt của
NB hay tri giác hoang tưởng.
c. Các ảo thanh bình phẩm thường xuyên về hành vi của BN, hay thảo luận với
nhau về NB hoặc ảo thanh giả.
d. Các hoang tưởng dai dẳng khác khơng thích hợp.
e. Ảo giác kéo dài bất cứ loại nào, dai dẳng nhiều tuần.
f. Ngơn ngữ gián đoạn, thêm từ khi nói, tư duy khơng liên quan, khơng thích hợp.
g. Tình trạng tăng trương lực như: Kích động tăng trương lực, giữ nguyên dáng,
uốn sáp hay phủ định khơng nói, sững sờ.
h. Các triệu chứng âm tính như vơ cảm rõ rệt, ngơn ngữ nghèo nàn,các đáp ứng
cảm xúc cùn mịn hay khơng thích hợp, cách ly xã hội, giảm sút hiệu suất lao
động. Các triệu chứng trên phải rõ ràng, không do trạng thái trầm cảm hay
thuốc an thần kinh gây ra.
i. Biến đổi thường xuyên và rõ rệt một cách toàn diện tập tính cá nhân, biểu hiện
như: mất hứng thú, thiếu mục đích, lười biếng, mải mê suy nghĩ về bản thân
- Chẩn đốn xác định bệnh TTPL: nếu có 1 triệu chứng rõ trong 4 nhóm triệu
chứng từ a đến d hoặc 2 triệu chứng rõ trong nhóm triệu chứng từ e đến i.
- Tiêu chuẩn về thời gian: các triệu chứng trên phải tồn tại ít nhất một tháng.



11

- Tiêu chuẩn loại trừ:
+ Rối loạn cảm xúc, trầm cảm hay hưng cảm mở rộng.
+ Tổn thương thực thể não, động kinh.
+ Nghiện ma tuý.
1.1.6. Tiến triển của bệnh tâm thần phân liệt
- Giai đoạn báo trước
NB ngày càng giảm sút khả năng học tập và công tác, đầu óc mù mờ, khó
suy nghĩ, cảm xúc lạnh nhạt dần, khó thích ứng với ngoại cảnh, giảm dần các thích
thú trước đây. Một số NB biểu hiện trạng thái giống suy nhược thần kinh như đau
đầu, mất ngủ, chóng mệt mỏi, khó tiếp thu cái mới, bồn chồn lo lắng, dễ nổi nóng,
dễ bùng nổ. Sau nữa, NB có cảm giác bị động tăng dần cảm thấy đuối sức trước
cuộc sống. Một số NB cảm thấy có những biến đổi kỳ lạ trong người như thay đổi
nét mặt, màu da; có NB trở nên say sưa đọc các loại sách như triết học, lý luận viển
vông, không phù hợp với thực tế.
- Giai đoạn toàn phát
Các triệu chứng khởi đầu nặng dần lên; đồng thời xuất hiện các triệu chứng
loạn thần rầm rộ, bao gồm các triệu chứng dương tính (ảo giác, hoang tưởng) và các
triệu chứng âm tính (thiếu hòa hợp). Tùy theo triệu chứng nổi bật lên hàng đầu và
thời gian kéo dài trong giai đoạn kịch phát, người ta chia ra các thể bệnh TTPL khác
nhau. Theo bảng phân loại quốc tế 10, các thể bệnh TTPL gồm: thể hoang tưởng có
các triệu chứng hoang tưởng (đặc biệt là hoang tưởng bị kiểm tra bị chi phối) và ảo
giác, thường gặp ảo thanh; thể thanh xuân xuất hiện ở tuổi trẻ, nổi bật trạng thái
kích động lố lăng, si dại, cảm xúc hỗn độn, tư duy rời rạc, tác phong điệu bộ nhăn
mặt, nheo mắt, tinh nghịch; thể căng trương lực nổi bật là triệu chứng kích động xen
kẽ bất động, chống đối, động tác định hình; thể đơn thuần chủ yếu các triệu chứng
âm tính, thiếu hòa hợp, cảm xúc cùn mòn, giảm sút hiệu quả lao động và học tập, ý
chí giảm sút dần.
- Giai đoạn di chứng

Các triệu chứng loạn thần như hoang tưởng, ảo giác mất đi hoặc mờ nhạt, chỉ
còn các triệu chứng âm tính nổi bật lên như cảm xúc cùn mịn, ngơn ngữ nghèo nàn,


12

hoạt động kém, bị động trong cuộc sống, kém chăm sóc bản thân, một số NB sống
lang thang [13] [11].
* Dấu hiệu tái phát
- Căng thẳng ngày một tăng
- Lo lắng viển vông không thể thư giãn
- Rối loạn giấc ngủ
- Mệt mỏi
- Dễ kích thích cáu bẩn
- Hoảng sợ khơng có lý do
- Thu mình, từ chối giao tiếp, ăn uống
- Thờ ơ với mọi người và bản thân, không tự giao tiếp [21].
1.1.7. Điều trị bệnh tâm thần phân liệt tại cộng đồng
TTPL là bệnh chưa rõ căn nguyên và có khuynh hướng tiến triển ngày càng
nặng, trở thành mạn tính. Bệnh làm tan rã sự hồ hợp vốn có của q trình cơ bản
tạo nên đời sống con người. Khi bệnh ở giai đoạn cấp tính cần được điều trị tại bệnh
viện chuyên khoa, đây chỉ là một phần nhỏ trong quá trình điều trị bệnh TTPL. Vấn
đề là phải được điều trị lâu dài tại cộng đồng để phòng tái phát và giúp NB khắc
phục những triệu chứng âm tính, từ đó NB phục hồi được các chức năng sinh hoạt
và tái thích ứng với xã hội [2], [13], [21]. Vì vậy, điều trị bệnh TTPL phải có chiến
lược trước mắt và lâu dài. Chương trình chăm sóc sức khỏe tâm thần cộng đồng ra
đời đã đáp ứng được chiến lược đó.
Đến nay, căn nguyên của bệnh TTPL chưa rõ ràng, vấn đề điều trị chủ yếu là
điều trị triệu chứng và PHCN lao động cho NB. Nói cách khác, điều trị bệnh TTPL
phải kết hợp nhiều liệu pháp như: liệu pháp hoá dược, liệu pháp lao động, liệu pháp

PHCN tâm lý, tái thích ứng xã hội và lý liệu pháp. Tuỳ từng thể bệnh và mức độ
đáp ứng của NB mà sử dụng các liệu pháp cho phù hợp hoặc phối hợp để hiệu quả
hơn. Trong những liệu pháp trên thì liệu pháp hố dược là quan trọng nhất, nó là
nền tảng cho việc áp dụng phối hợp các liệu pháp khác [22].
* Liệu pháp hoá dược
Sau khi ra viện, người bệnh TTPL và người có nhiệm vụ chăm sóc chính


13

được nhân viên Y tế (NVYT) chuyên khoa tâm thần tư vấn để tiếp tục điều trị bằng
thuốc an thần kinh tại nhà như: Aminazine, Haloperidol, Amitriptyline, Seduxen,
clozapine (Clozaril), Invega Sustenna, Invega Trinza, aripiprazole (Abilify).... Hàng
tháng, NCS chính đưa NBTTPL đi lĩnh thuốc và khám lại để điều chỉnh liều lượng
thuốc cho phù hợp. Bên cạnh đó, NCS chính cũng được tư vấn những bất thường
của NB và khi nào cần phải đưa NB đi khám ngay.
*Liệu pháp về tâm lý
Cộng đồng cần có thái độ tâm lý tốt, tơn trọng NB. Mục đích của liệu pháp
tâm lý là làm cho NB an tâm, tin tưởng vào kết quả điều trị, chống tư tưởng bi quan
lo lắng, chán đời, giúp NB hăng hái tham gia lao động, học nghề và tham gia các
hoạt động xã hội khác. Bên cạnh đó, gia đình và cộng đồng cần biết cách nâng đỡ,
khơng mặc cảm, để chung sống với NB, giúp dự phòng biến chứng, giảm tái phát.
* Liệu pháp lao động và tái thích ứng xã hội
Là biện pháp quan trọng trong điều trị NBTTPL tại cộng đồng, giúp NB và
gia đình giải quyết các tình huống trong cuộc sống, đỡ một phần gánh nặng kinh tế
cho gia đình và xã hội.
Bệnh tâm thần phân liệt ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc sống người bệnh và làm
cho họ mất đi nhiều khả năng sinh hoạt bình thường. Mặt khác, phần lớn người
bệnh bắt đầu bị bệnh khi còn trẻ và bệnh tâm thần phân liệt được coi như một bệnh
mạn tính làm cho họ mất đi hoặc suy yếu những khả năng sinh hoạt như: suy nghĩ,

học hỏi, giao tiếp xã hội, làm việc, tình cảm, các mối quan hệ cá nhân cũng như
quan hệ xã hội [21].
Phần khó khăn nhất trong điều trị bệnh tâm thần phân liệt là làm sao giúp
người bệnh giảm bớt mức độ tàn phế và có thể sống một cuộc sống tương đối bình
thường trong thời gian sau cơn bệnh.
Trái với những thay đổi mau chóng và rõ rệt trong việc dùng thuốc điều trị và
kìm chế những triệu chứng nổi, việc phục hồi sinh hoạt cho người bệnh chỉ mang lại
những thay đổi chậm và nhỏ. Tuy nhiên giảm bớt những tàn phế và cải thiện cuộc
sống của người bệnh là hai mục tiêu quan trọng trong chương trình phục hoạt cho
người bệnh tâm thần phân liệt.


14

Những chương trình phục hồi khả năng sinh hoạt cho người bệnh là một phần
trong kế hoạch trị liệu bao quát cho người bệnh tâm thần phân liệt sau khi họ đã
tương đối ổn định, khơng cịn các triệu chứng rối loạn tinh thần nữa.
1.2. Chăm sóc người bệnh tâm thần phân liệt tại nhà
Mục tiêu của chăm sóc người bệnh tâm thần phân liệt là đề cập tới các điểm
chính như sau [4]:
- Khả năng sống cịn:
Biết tự chăm sóc bản thân, biết cách ăn uống lành mạnh hợp với tình trạng
sức khoẻ, biết cách nấu ăn, mua sắm, giữ gìn vệ sinh thân thể, thu xếp chỗ ăn ở, biết
cách sử dụng những phương tiện công cộng để đi lại.
- Khả năng giao tiếp xã hội:
Người bệnh được hướng dẫn để dần dần lấy lại và tăng cường lòng tự tin, sự
tự trọng, biết cách giao tiếp và đối thoại với người khác, biết cách giải quyết những
khúc mắc, bất đồng ý kiến với người khác một cách thoả đáng.
- Khả năng thích nghi và đối phó với những khó khăn hàng ngày:
Người bệnh được giúp đỡ và hướng dẫn trong việc tìm cách giảm bớt những

căng thẳng tinh thần.
- Khả năng tổ chức cuộc sống:
Người bệnh được hướng dẫn trong việc thu xếp và tổ chức cuộc sống hàng
ngày sao cho có nề nếp, thành một thơng lệ, có giờ giấc, biết sử dụng giờ rảnh một
cách hữu ích và thoải mái.
- Khả năng làm việc:
Làm việc cũng giúp cho con người cảm thấy mình có ích, thoả mãn vì mình
đã hồn thành được một điều gì đó, tự tin vào khả năng của mình, đồng thời đóng
góp phần của mình vào cuộc sống xã hội. Làm việc còn tạo cho con người cơ hội để
giao tiếp với người khác, có bạn bè quan hệ tình cảm lành mạnh.
Việc điều trị bằng thuốc không thể phục hồi được những khả năng này một
cách toàn vẹn. Một số người bệnh đã từng nằm điều trị trong các bệnh viện tâm thần
nhiều năm và đã quen với lối sống phụ thuộc vào sự giúp đỡ, chỉ dẫn và chăm sóc
của các bác sỹ, điều dưỡng và các nhân viên y tế khác trong mọi chuyện; họ thường


15

không phải lo lắng đến việc ăn ở cho bản thân cũng như khơng phải lo cho gia đình.
Sau nhiều năm sống như vậy, nghị lực, tinh thần, óc sáng tạo, khả năng ứng biến
với cuộc sống ngoài xã hội của họ bị ảnh hưởng nặng nề, cho đến khi họ phải trở về
sống với gia đình thì họ trở thành gánh nặng cho gia đình. Nếu họ khơng được có cơ
hội để làm lại cuộc đời thì họ sẽ tiếp tục là gánh nặng cho gia đình và xã hội [34].
Từ những đặc điểm trên chúng ta thấy việc cung cấp kiến thức cho NCS
người bệnh tâm thần phân liệt là vô cùng quan trọng thông qua việc giáo dục sức
khỏe. Người bệnh tâm thần phân liệt khi ổn định chủ yếu là sống tại gia đình vì vậy
để người bệnh được chăm sóc tốt nhất thì gia đình người bệnh phải có kiến thức về
bệnh tâm thần phân liệt, về chăm sóc để người bệnh tái hịa nhập cộng đồng một
cách tốt nhất. Những quan điểm sai lệch về bệnh tâm thần phân liệt sẽ ảnh hưởng
đến việc chăm sóc người bệnh, và đây cũng là con đường đẩy người bệnh xa rời

cuộc sống cộng đồng, bị mọi người xa lánh. Chính vì vậy gia đình có vai trị vơ
cùng quan trọng trong chăm sóc người bệnh tâm thần phân liệt:
- Gia đình phải thực sự là tổ ấm của mọi thành viên. Tạo khơng khí tình cảm
thoải mái hài hồ trong gia đình, mọi người phải thực sự thơng cảm hiểu biết nhau.
Tránh gây căng thẳng, xích mích, to tiếng, tranh luận hoặc cãi nhau, hiểu lầm
nhau... đó đều là những yếu tố thuận lợi (stress) để bệnh phát triển, tái phát.
- Khi gia đình phát hiện các biểu hiện bất thường của một người trong gia
đình cần phải đưa đi khám bệnh các thầy thuốc, tư vấn tâm lý đặc biệt các bác sĩ
chuyên khoa. Phát hiện sớm, điều trị tích cực là phương châm chính của cơng tác
chăm sóc sức khoẻ tâm thần tại cộng đồng.
- Gia đình quản lý thuốc và cho người bệnh uống theo đúng qui định của bác
sĩ chuyên khoa để tránh tái phát bệnh và duy trì cuộc sống bình thường của người
bệnh. Khơng tự ý ngừng thuốc.
- Gia đình thường xun thơng tin chính xác, đúng sự thật cho các bác sĩ về
biểu hiện bất thường của người bệnh và những tiến triển tốt.
- Gia đình cần có thái độ xem người bệnh như những thành viên khác, không
phân biệt đối xử.
- Gia đình cần chấp nhận những hành vi kỳ dị của người bệnh, cần tỏ rõ tình


×