Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Tín dụng và rủi ro trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.85 KB, 20 trang )

Tín dụng và rủi ro trong hoạt động tín dụng của Ngân
hàng thơng mại
I. Ngân hàng và tín dụng Ngân hàng:
1. Khái quát về ngân hàng th ơng mại:
1.1. Khái niệm Ngân hàng thơng mại:
Khi nghiên cứu về Ngân hàng thơng mại , các nhà kinh tế học đa ra rất
nhiều những quan niệm khác nhau về NHTM. Ngời thì cho rằng" NHTM là tổ
chức tài chính nhận tiền gửi và cho vay tiền ". Ngời khác lại nhận định: " NHTM
là trung gian tài chính có giấy phép kinh doanh của Chính phủ để cho vay tiền và
mở tài khoản tiền gửi, kể cả các khoản tiền gửi có thể dùng séc...". Sở dĩ có tình
trạng này là do hoạt động NHTM rất đa dạng , các thao tác trong từng nghiệp vụ
Ngân hàng lại phức tạp và vấn đề này luôn biến động theo sự thay đổi chung của
nền kinh tế . Mặt khác , do tập quán , luật pháp của mỗi quốc gia , mỗi vùng khác
nhau đã dẫn đến những quan niệm về NHTM không đồng nhất giữa các nớc trên
thế giới .
Theo pháp lệnh:" Ngân hàng , hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính" ban
hành ngày 24/5/1990:" NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ
yếu và thờng xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và
sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phơng tiện
thanh toán".
Nh vậy , NHTM là một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ thông
qua các nghiệp vụ huy động các nguồn vốn để cho vay, đầu t và thực hiện các
nghiệp vụ tài chính khác.
1.2. Các chức năng nghiệp vụ chủ yếu của Ngân hàng thơng mại:
- Chức năng huy động vốn : Đây là chức năng cơ bản đầu tiên của NHTM.
Nó quyết định quy mô cũng nh hiệu quả các hoạt động khác của NHTM. NHTM
có thể huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội bằng cách nhận tiền gửi của các cá
nhân , các tổ chức kinh tế qua các hình thức tiền gửi không kì hạn, tiền gửi có kì
hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Ngoài ra, khi cần thêm vốn, NHTM
có thể huy động vốn qua các biện pháp chủ động nh phát hành kì phiếu ngân
hàng, phát hành các chứng chỉ tiền gửi hay vay vốn của NHNN hoặc các tổ chức


tín dụng khác.
Tuy nhiên, NHTM phải huy động vốn trên cơ sở vốn tự có nh một ràng
buộc về trách nhiệm nhằm hạn chế rủi ro trong các hoạt động của Ngân hàng.
Theo quy định của Việt Nam, các NHTM không đợc phép huy động quá 20 lần số
vốn tự có.
- Chức năng cung cấp tín dụng và đầu t : Đây là hoạt động kinh doanh
mang lại lợi nhuận chủ yếu cho NHTM. Thực hiện nghiệp vụ này, NHTM sử dụng
phần lớn số vốn đã huy động để cung cấp cho các nhu cầu của nền kinh tế qua các
hình thức nh cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh, đầu t chứng khoán,
góp vốn tham gia hay tự đầu t vào các dự án mang lại lợi nhuận.
Qua các chức năng này NHTM đã thực hiện nhiệm vụ quan trọng là tạo
tiền, trở thành nguồn tích luỹ vốn cho nền kinh tế tạo điều kiện làm tăng tổng sản
phẩm xã hội, mở rộng vốn đầu t góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Có thể thấy hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của NHTM,
nó liên quan đến tất cả các ngành các lĩnh vực của nền kinh tế. Tuy nhiên, hoạt
động lại chứa đựng rủi ro tiềm ẩn từ tất cả các ngành các lĩnh vực đó. Chính vì vậy
việc nghiên cứu rủi ro tín dụng là vấn đề cấp bách luôn đợc các NHTM quan tâm.
- Cung cấp các hoạt động dịch vụ:
Ngoài các chức năng cơ bản trên, NHTM còn tiến hành các hoạt động dịch
vụ để đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng nhằm thu hút khách hàng đồng thời
đem lại nguồn thu nhập đáng kể cho ngân hàng. Các hoạt động dịch vụ của
NHTM gồm có:
+ Dịch vụ thanh toán và chuyển tiền
+ Dịch vụ mua bán và môi giới chứng khoán.
+ Dịch vụ t vấn đầu t
+ Dịch vụ quản lý tài sản và các chứng từ có giá.
Thông qua các hoạt động này, NHTM nhận đợc các khoản thu nhập dới
hình thức lệ phí hoặc hoa hồng.
Có thể nói, các chức năng của NHTM đều rất quan trọng và liên quan chặt
chẽ với nhau. Chức năng huy động vốn là tiền đề tạo nguồn vốn tích luỹ cho các

hoạt động nghiệp vụ. Hoạt động tín dụng và đầu t đem lại nguồn thu nhập cho
NHTM. Còn các hoạt động dịch vụ thu hút thêm khách hàng, tạo điều kiện cho
việc mở rộng hoạt động huy động tiền gửi và kinh doanh của NHTM.
2. Tín dụng Ngân hàng:
2.1. Khái niệm tín dụng Ngân hàng:
Tín dụng là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể trong đó một bên
chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia sử dụng trong một thời gian nhất định,
đồng thời bên nhận tiền cam kết hoàn trả theo điều kiện đã thoả thuận.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng với các tổ chức
kinh tế và cá nhân thể hiện dới hình thức nhận tiền gửi của khách hàng, cho khách
hàng vay, tài trợ thuê mua, bảo hành hay chiết khấu....
Tuy nhiên, trong hoạt động tín dụng của NHTM thì hoạt động cho vay là
hoạt động phức tạp nhất. Trong bài viết này tôi chỉ xin đợc đề cập đến khía cạnh
cho vay của hoạt động tín dụng Ngân hàng.
2.2. Vai trò của tín dụng đối với hoạt động của NHTM:
Thứ nhất, tín dụng Ngân hàng thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các
doanh nghiệp, không chỉ đối với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế Nhà
nớc mà còn tác động đến cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
Tín dụng thúc đẩy sự ra đời của các thành phần kinh tế theo mục tiêu phát triển
của đất nớc.
Tín dụng Ngân hàng tham gia vào toàn bộ quá trình sản xuất, lu thông hàng
hoá, ngay cả những hoạt động dịch vụ cũng không thể tách ly sự hỗ trợ của tín
dụng ngân hàng.
Với các nghành sản xuất, chế biến, khai thác... để đảm bảo sản xuất ổn
định cần thiết phải có vốn để dự trữ nguyên nhiên vật liệu, thành phẩm bù đắp các
chi phí sản xuất... Đồng thời để không ngừng nâng cao năng xuất lao động, chất l-
ợng sản phẩm, tìm kiếm lợi thế trong cạnh tranh, các doanh nghiệp buộc phải th-
ờng xuyên cải tiến máy móc, thiết bị , đổi mới công nghệ đặc biệt trong thời đại
khoa học kỹ thuật phát triển nh vũ bão hiện nay. Tất cả những công việc đó sẽ
không thể thực hiện đợc nếu thiếu sự hỗ trợ của ngân hàng thông qua hoạt động

tín dụng.
Trong lĩnh vực lu thông, để đảm bảo đa đợc hàng hoá từ ngời sản xuất đến
ngời tiêu dùng, các doanh nghiệp cần có vốn để dự trữ khối lợng hàng hoá cần
thiết trang trải các chi phí lu thông, thuế... Hơn nữa, để mở rộng sản xuất kinh
doanh, các doanh nghiệp cần phải dự trữ khối lợng hàng hoá lớn với chủng loại
phong phú, nhng thông thờng các doanh nghiệp này không có nhiều vốn lu động.
Vì vậy, để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp này cần đến sự hỗ trợ của tín
dụng ngân hàng.
Với các doanh nghiệp dịch vụ nh vận tải, khách sạn, du lịch... sẽ hoạt động
ra sao khi không có vốn của ngân hàng tham gia vào đầu t xây dựng trang thiết bị
vật chất, phơng tiện vận tải... Khi bớc vào kinh doanh trong lĩnh vực này đòi hỏi
vốn đầu t rất lớn nên hầu hết các doanh nghiệp đều cần đến tín dụng ngân hàng và
xem nó nh là một trong những nguồn vốn có thể huy động cho mục đích kinh
doanh của doanh nghiệp.
Nói chung, một trong những nguồn vốn quan trọng để bổ sung vốn lu động
và vốn cố định cho các chủ doanh nghiệp là vốn tín dụng ngân hàng vì nếu chỉ
dựa vào vốn tự có thì quá ít ỏi, không đủ sức cạnh tranh và phát triển trong nến
kinh tế thị trờng. Tín dụng ngân hàng sẽ là nguồn vốn tài trợ quan trọng cho các
dự án kinh doanh của doanh nghiệp mới.
Thứ hai, tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế để thực hiện tái sản xuất mở
rộng, ứng dụng công nghệ, kỹ thuật tiên tiến hiện đại nâng cao năng suất và hiệu
quả kinh tế, tạo nhiều sản phẩm hàng hóa tiêu dùng nội địa và xuất khẩu. Ngân
hàng với chức năng huy động vốn, tập trung mọi nguồn vốn trong và ngoài nớc đã
phần nào đáp ứng nhu cầu về vốn của nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng trở thành
đòn bẩy kinh tế quan trọng nhất giúp các nhà sản xuất kinh doanh thực hiện quá
trình tái sản xuất mở rộng và ứng dụng công nghệ để cạnh tranh thắng lợi trên thị
trờng.
Thứ ba, tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ cho các dự án tạo việc làm,
tăng thu nhập, thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo, và các chơng trình, dự án
mang tính xã hội khác.

Muốn nâng dần thu nhập bình quân đầu ngời, giải quyết việc làm không thể
chỉ dựa vào quỹ ngân sách nhà nớc hoặc trông chờ vào các khoản vay nớc ngoài.
Tín dụng ngân hàng thực sự giữ vai trò quan trọng trong việc đầu t cho các dự án
có ý nghĩa kinh tế và xã hội để giải quyết những việc nh vậy.
Thứ t, tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung vốn sản xuất
mở rộng quá trình phân công lao động xã hội và hợp tác kinh tế trong nớc và quốc
tế. Các doanh nghiệp, các công ty làm ăn có hiệu quả và uy tín đợc ngân hàng tập
trung đầu t vốn tạo đà mở rộng quy mô sản xuất và thị trờng tiêu thụ. Tín dụng
ngân hàng sẽ thúc đẩy nhanh chóng quá trình tập trung và tích luỹ vốn, tạo cho
các doanh nghiệp đủ điều kiện hợp tác liên doanh với các tập đoàn kinh tế nớc
ngoài đa nền kinh tế nớc ta hoà nhập vào nền kinh tế thế giới.
Thứ năm, thông qua hoạt động tín dụng ngân hàng, Nhà nớc có thể kiểm
soát các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế để đề ra các biện pháp
chính sách quản lý kinh tế và pháp lý phù hợp. Nhà nớc có thể điều chỉnh cơ cấu
kinh tế và hoạt động của các thành phần kinh tế thông qua các chính sách về tín
dụng nh là các chính sách u đãi về lãi suất và các điều kiện cho vay khác cho các
doanh nghiệp đầu t sản xuất theo mục tiêu định hớng phát triển kinh tế của Nhà n-
ớc.
Phát huy vai trò của tín dụng ngân hàng để đạt mục tiêu phát triển là một
nhiệm vụ đầy khó khăn thử thách. Song song với việc này là phải đảm bảo an toàn
tín dụng và đó là mục tiêu lớn trong hoạt động kinh doanh của các NHTM nói
chung và của Chi nhánh NHCT Thanh Xuân nói riêng.
2. Rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thơng mại :
2.1. Khái niệm rủi ro:
Rất có nhiều cách quan niệm khác nhau về rủi ro tuỳ thuộc vào chủ thể và
hoạt động của chủ thể đó trong mối quan hệ với các yếu tố khác của môi trờng.
Tuy nhiên , các quan niệm đó đều thống nhất một nội dung coi rủi ro là sự bất trắc
không mong đợi , gây ra thiệt hại và có thể đo lờng đợc .
Nh vậy , trong hoạt động kinh tế nói chung và trong hoạt động Ngân hàng
nói riêng thì vấn đề rủi ro là không thể tránh khỏi. Vì thế , các nhà quản trị không

thể loại bỏ đợc rủi ro mà chỉ có thể phát hiện kịp thời để có những biện pháp chủ
động xử lý. Trong sự cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trờng hiện nay, các
nhà quản trị phải biết nhận biết và dự đoán trớc các rủi ro để sớm đa ra các giải
pháp phòng ngừa chống đỡ tác hại của nó.
2. Các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng th ơng mại:
Rủi ro tồn tại trong hoạt động kinh doanh dới các hình thức khác nhau. Do
đặc điểm đặc thù của hoạt động Ngân hàng làm cho hoạt động này có độ rủi ro rất
lớn. Có các loại rủi ro chủ yếu sau trong hoạt động của NHTM.
.2.1. Rủi ro tín dụng:
Tín dụng là hoạt động chủ yếu của NHTM. Nguồn thu từ hoạt động tín
dụng luôn chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng thu nghiệp vụ ngân hàng và đem lại
phần lớn lợi nhuận cho Ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng lại là hoạt động
có nhiều rủi ro nhất và phức tạp nhất. Hoạt động tín dụng liên quan chặt chẽ đến
mọi lĩnh vực của nền kinh tế . Mỗi rủi ro trong các lĩnh vực này đều tiềm ẩn rủi ro
trong hoạt động tín dụng của NHTM. Trong hoạt động tín dụng, NHTM luôn đặt
ra mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận , đồng thời tối thiểu hoá rủi ro. Để đạt đợc mục
tiêu đó đòi hỏi NHTM phải có những giải pháp thích hợp để quản lý và phòng
ngừa rủi ro tín dụng.
2.2. Rủi ro lãi suất:
Đây là loại rủi ro mang tính xã hội, nó ảnh hởng đến hầu hết các tổ chức
kinh tế , các cá nhân trong nền kinh tế quốc dân. Ngời ta quan niệm lãi suất là chi
phí để vay hoặc giá phải trả để thuê vốn trong một thời gian nào đó . Trong cơ chế
thị trờng, lãi suất luôn biến động và điều này có thể gây ra rủi ro cho hoạt động
của NHTM. Chẳng hạn, ngân hàng đã ký hợp đồng cho vay một kỳ hạn với lãi
suất cố định, sự thiệt hại của ngân hàng sẽ diễn ra khi lãi suất trên thị trờng tăng
lên. Ngợc lại, khi nhận vốn với một thời hạn và lãi suất ấn định, ngân hàng sẽ bị
thiệt hại khi lãi suất thị trờng giảm xuống.
Rủi ro lãi suất là loại rủi ro do sự biến động của yếu tố tiền tệ. Rủi ro lãi
suất nảy sinh trong những trờng hợp sau:
+ Lạm phát tăng, lãi suất buộc phải điều chỉnh theo xu hớng tăng làm chi

phí của ngân hàng phải bỏ ra cũng tăng lên, do đó làm giảm thu nhập của ngân
hàng. Khi lạm phát cao thì thờng có lợi cho ngời vay vốn và bất lợi cho ngời cho
vay.
+ Do cơ cấu tài sản nợ và tài sản có của ngân hàng không hợp lý. Ngân
hàng dùng tài sản nợ ngắn hạn để đầu t vào tài sản có dài hạn. Nếu lãi suất ngắn
hạn tăng, chi phí ngân hàng phải bỏ ra cũng sẽ tăng lên, trong khi thu nhập ở tài
sản có dài hạn vẫn giữ nguyên, nh vậy thu nhập của ngân hàng không đủ bù đắp
chi phí kinh doanh, dẫn đến ăn mòn vào vốn.
+ Ngoài ra, rủi ro lãi suất cũng có thể xảy ra do trình độ thấp kém bị thua
thiệt trong việc cạnh tranh lãi suất trên thị trờng. Hoặc do yếu tố của nền kinh tế
tác động đến lãi suất nh cung, cầu, yếu tố thị trờng... Khi Nhà nớc có quyết định
điều chỉnh lãi suất theo hớng giảm xuống, trong khi tiền gửi có kỳ hạn cha đến
hạn trả. Nh vậy, lãi suất cho vay bị giảm thấp, nhng phần trả lãi cho những khoản
tiền gửi có kỳ hạn lại không giảm tơng ứng dẫn đến rủi ro lãi suất.
2.3. Rủi ro nguồn vốn:
2.3.1. Rủi ro do thừa vốn:
Nh ta biết, nguồn vốn hoạt động chủ yếu của NHTM là nguồn vốn huy
động. Để huy động đợc vốn Ngân hàng phải trả lãi cho ngời gửi tiền. Nếu số vốn
này bị ứ đọng, không thể cho vay hoặc đầu t vào các loại tài sản có thể sinh lời
trong khi ngân hàng vẫn phải trả lãi cho số vốn đã huy động thì có nghĩa là các
thiệt hại của ngân hàng đang diễn ra. Nếu quá trình này kéo dài ở mức độ lớn có
thể dẫn đến thua lỗ trong kinh doanh. Giải quyết vấn đề này, NHTM cần phải tăng
cờng công tác kế hoạch hoá, đảm bảo cân đối giữa vốn huy động và vốn cho vay.
2.3.2. Rủi ro do thiếu vốn:
Loại rủi ro này xảy ra khi Ngân hàng không đáp ứng đợc các nhu cầu cho
vay và đầu t, thậm chí không đủ vốn để thanh toán cho ngời gửi tiền khi đến hạn.
Rủi ro này xuất phát từ chức năng chuyển hoán các kỳ hạn sử dụng vốn và nguồn
vốn của ngân hàng, thông thờng các kỳ hạn sử dụng vốn dài hơn kỳ hạn các
nguồn vốn, hoặc do mất lòng tin mà các hàng loạt khách hàng đến rút tiền, khiến
cho ngân hàng không có đủ tiền để chi trả cùng một lúc. Trong bối cảnh đó, ngân

hàng khó lòng huy động đợc nguồn vốn dồi dào, từ đó kinh doanh có thể bị thu
hẹp và vỡ nợ rất có thể xảy ra. Rủi ro này còn có thể do ngân hàng cha thực hiện
tốt công tác huy động vốn thể hiện ở việc không thu hút đủ vốn để cho vay hoặc
do sự mất cân đối trong cơ cấu vốn huy động , thiếu các nguồn vốn trung dài hạn
trong khi nhu cầu vay vốn trung dài hạn lại ở mức cao. Điều này đã làm cho Ngân
hàng mất cơ hội đầu t vào những dự án an toàn và có thể đem lại lợi nhuận cao.
2.4. Rủi ro hối đoái:
Rủi ro hối đoái là loại rủi ro do sự biến động của tỷ giá hối đoái. Nếu tỷ
giá hối đoái bán ra lớn hơn tỷ giá mua vào thì nhà kinh doanh có lãi, ngợc lại thì
bị lỗ. Sự thay đổi tỷ giá dẫn đến sự thay đổi về giá trị ngoại hối, cụ thể:
+ Nếu ngân hàng có d dật về ngoại tệ (vị thế trờng - net long position): Nếu
ngoại tệ đó lên giá thì ngân hàng sẽ có lãi khi đánh giá lại và ngợc lại ngân hàng
sẽ lỗ khi ngoại tệ đó xuống giá.
+ Nếu ngân hàng ở vị thế đoản (net short position) về loại ngoại tệ nào đó,
khi ngoại tệ đó lên giá, ngân hàng sẽ lỗ và ngợc lại ngân hàng sẽ có lãi khi ngoại
tệ đó xuống giá.
Một trạng thái ngoại hối dù ở thế trờng hay thế đoản đều có nguy cơ gây ra
tổn thất cho ngân hàng. D dật về ngoại tệ (vị thế trrờng) càng lớn thì rủi ro càng
cao khi tỷ giá giảm, ngợc lại, đoản về ngoại tệ nào đó càng mạnh thì rủi ro cũng
không ít khi tỷ giá tăng.
Khi phân biệt tình hình lãi lỗ ngoại hối theo vị thế ngoại hối, ngời ta so
sánh lỗ, lãi thực tế xảy ra so với mức lãi, lỗ dự kiến, qua đó đánh giá chất lợng
quản lý rủi ro tỷ giá hối đoái của một ngân hàng.
2.5. Rủi ro trong thanh toán:
Một ngân hàng hoạt động bình thờng phải đảm bảo đợc khả năng thanh
toán. Khả năng thanh toán tức là đáp ứng đợc các nhu cầu thanh toán hiện tại, đột
xuất khi có vấn đề nảy sinh và đáp ứng đợc khả năng thanh toán trong tơng lai.
Khi ngân hàng thiếu khả năng thanh toán, nếu không đợc giải quyết một cách kịp
thời có thể dẫn đến mất khả năng thanh toán. Khi ngân hàng thừa khả năng thanh
toán sẽ dẫn đến ứ đọng vốn, làm giảm khả năng sinh lời, thu nhập của ngân hàng

giảm.
Rủi ro thanh toán nảy sinh do những nguyên nhân sau:
+ Do mất cân bằng giữa nguồn vốn và sử dụng vốn, nguồn vốn d thừa quá
lớn, trong khi đó thị trờng đầu ra hạn hẹp nên một số ngân hàng đã dùng vốn huy
động ngắn hạn để cho vay trung dài hạn quá mức, dẫn đến thiếu hụt khả năng
thanh toán cuối cùng.
+ Đến hạn các khoản cho vay khó thu hồi đợc, uy tín của ngân hàng giảm
sút, ngời gửi tiền và ngời đi vay thờng phản ứng trớc những khó khăn của ngân
hàng bằng cách rút hết hạn mức tín dụng để đảm bảo có tiền cho những nh cầu về
sau hoặc rút hết số d tiền gửi vì sợ có thể không rút đợc. Tất cả những khía cạnh
trên đều dẫn đến những rủi ro trong thanh toán của ngân hàng.
+ Loại rủi ro này còn có thể phát sinh trong quá trình thanh toán của ngân
hàng, có thể do ngân hàng bị lợi dụng trong thanh toán điện tử, thanh toán séc
chấp nhận thanh toán các chứng từ giả mạo hoặc do nhầm lẫn, sai sót trong hoạt
động nghiệp vụ... dẫn đến sự thiệt hại của ngân hàng.
2.6. Rủi ro thuần tuý:
Đây là loại rủi ro khách quan do thiên tai gây ra nh: lụt lội, động đất, hoả
hoạn hoặc do bị mất trộm, bị lừa đảo, tham nhũng... làm thiệt hại hay phá huỷ các
tài sản của ngân hàng. Các rủi ro này xảy ra cũng gây mất mát, thiệt hại không
nhỏ cho ngân hàng.
2.7. Rủi ro mất khả năng thanh toán;

×