Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

Tải Phân tích bài thơ Đi đường của Hồ Chí Minh - Bài văn mẫu phân tích bài thơ Đi đường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.34 KB, 3 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Phân tích bài thơ Đi đường của Hồ Chí Minh</b>


Phân tích bài thơ Đi đường của Hồ Chí minh – Bài làm văn của Đặng Thị Lệ Hoa lớp
8A2 lớp chuyên văn trường THCS chuyên Đồng Lạc. (Giải nhì cuộc thi HSG văn cấp
tỉnh năm 2007).


Bài thơ Đi đường (Tẩu lộ) trích từ tập Nhật kí trong tù. Giống như một số bài có cùng
chủ đề như Từ Long An đến Đồng Chính, Đi Nam Ninh, Giải đi sớm, Trên đường đi,
Chiều tối ở bài thơ này, Bác cũng ghi lại những điều cảm nhận được trên đường đi, khác
ở chỗ sự cảm nhận ấy đã được khái quát và nâng cao lên thành triết lí. Do đó, ngồi ý
nghĩa hiện thực, bài thơ cịn chứa đựng ý nghĩa tượng trưng thâm thúy. Bằng nét bút tài
hoa của người nghệ sĩ, Bác đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ và trên cái nền hồnh
tráng đó, nổi bật lên tư thế hiên ngang của người chiến sĩ với quyết tâm vượt khó và tinh
thần lạc quan tin tưởng vào tương lai tươi sáng của cách mạng:


<i>Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan,</i>
<i>Trùng san chi ngoại hựu trùng san;</i>
<i>Trùng san đăng đáo cao phong hậu,</i>


<i>Vạn lí dư đồ cố miện gian.</i>
<i>Dịch ra thơ tiếng Việt:</i>
<i>Đi đường mới biết gian lao,</i>
<i>Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;</i>


<i>Núi cao lên đến tận cùng,</i>
<i>Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.</i>


Nguyên tác bài thơ bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt (bảy chữ, bốn câu). Sự hàm
súc, cô đọng của ngôn từ cùng niêm luật nghiêm ngặt của thơ Đường khơng bó buộc nổi
tứ thơ phóng khống và cảm xúc dạt dào của thi nhân. Bản dịch ra tiếng Việt theo thể lục
bát tuy có làm mềm đi đôi chút cái âm điệu rắn chắc, khỏe khoắn vốn có của nguyên tác


nhưng vẫn thể hiện được nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật của bài thơ.


Câu mở đầu là nhận xét chung của Bác về chuyện đi đường:


<i>Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan (Đi đường mới biết gian lao)</i>


Đây không phải là nhận xét chủ quan chỉ sau một vài chuyến đi bình thường mà là sự đúc
kết từ hiện thực của bao hành trình vất vả, hiểm nguy mà Bác đã phải trải qua. Trong thời
gian mười bốn tháng bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam cầm trái phép, Bác Hồ
thường xuyên bị giải từ nhà lao này đến nhà lao khác khắp mười ba huyện của tỉnh
Quảng Tây. Tay bị cùm, chân bị xích, đi trong sương gió lạnh buốt thấu xương hay trong
nắng trưa đổ lửa. Vượt dốc, băng đèo, lội suối… với những khó khăn thử thách nhiều lúc
tưởng như quá sức chịu đựng của con người. Từ thực tế đó, tác giả khái quát thành
chuyện đi đường.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i>Trùng san chi ngoại hựu trùng san (Núi cao rồi lại núi cao trập trùng)</i>


Giữa khung cảnh thiên nhiên chỉ toàn là núi cao nối tiếp núi cao, con người vốn nhỏ bé,
yếu ớt lại càng thêm nhỏ bé, yếu ớt. Đường xa, dặm thẳm, vực sâu, dốc đứng… biết bao
trở ngại, thách thức dễ làm cho con người chán nản, ngã lòng. Bởi vừa vượt qua mấy đỉnh
núi cao, sức tinh thần, vật chất đã vơi, con người tưởng đã thoát nạn, ngờ đâu lại núi cao
trập trùng chặn đứng trước mặt. Trong câu thơ chữ Hán có chữ hựu ác nghiệt, lời dịch
nhân cái ác nghiệt ấy lên gấp đôi: Núi cao rồi lại núi cao trập trùng.


Gian lao kể sao cho xiết! Cấu trúc khép kín ở câu thơ chữ Hán (Trùng san chi ngoại hựu
trùng san), chuyển sang kết cấu trùng lặp tăng tiến, vế sau nặng trĩu thêm bởi từ trập
trùng ở cuối, cấu trúc khép kín và trùng lặp tăng tiến ấy dường như đẩy con người vào cái
thế bị hãm chặt giữa ba bề bốn bên là rừng núi, khơng thốt ra được, chỉ có kiệt sức, nhụt
chí, bng xi.



Nhưng đối với Bác thì hồn tồn ngược lại:


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Giữa vịng vây núi non trập trùng, chất ngất, hoang vu đó nổi lên điểm sáng, điểm động là
con người với vẻ ngoài tuy nhỏ bé, yếu ớt nhưng bên trong lại là một nghị lực, sức mạnh
phi thường.


Câu thơ trước kết thúc bằng hình ảnh trùng san, câu thơ sau mở đầu cũng bằng hình ảnh
ấy. Trong thơ dịch khơng liền như thế nhưng cũng lặp được núi cao… núi cao… Âm điệu
ấy nâng con người lên cái thế tưởng như bình thường nhưng thực ra lại rất hào hùng. Đạp
lên đỉnh núi cao này bước sang đỉnh núi cao kia như đi trên bậc thang, cứ thế từ tốn lên
đến đỉnh cao chót vót. Câu thơ chữ Hán dừng lại ở âm thanh chắc nịch của chữ hậu, tạo
nên âm hưởng rắn rỏi, mạnh mẽ. Câu thơ dịch có âm điệu dàn trải như tiếng thở phào
sung sướng, nhẹ nhõm: Núi cao lên đến tận cùng.


Đến đây thì mọi gian lao, vất vả đã khép lại; kết quả, phần thưởng xứng đáng mở ra. Lúc
trước là mắt chạm vào vách núi cao thẳng đứng, chỉ tồn đá và cây; nay thì mắt nhìn bốn
phương, đâu đâu cũng thấy mn trùng nước non (vạn lí dư đổ). Leo lên đến tận cùng,
đứng trên đỉnh núi cao nhất (cao phong), phóng tầm mắt ra xa, khơng những tầm nhìn mở
rộng mà cả trí óc, tấm lòng, cuộc đời cũng mở rộng. Con người đã đến đích sau cuộc
hành trình mn vàn gian khổ. Âm hưởng câu thơ cuối ngân vang thể hiện niềm lạc quan
vô hạn trước tương lai tươi đẹp. Cảnh muôn trùng nước non giờ đây đã thu gọn trong tầm
mắt Bác. Bài thơ kết thúc ở niềm vui, niềm kiêu hãnh to lớn đó.


Vậy thì có phải bài thơ này chỉ đơn giản nói đến chuyện đi đường?


Đi đường khơng phải chỉ có gian nan vì núi cao trập trùng mà cịn có bao khó khăn nguy
hiểm khác. Hình ảnh núi cao trập trùng tượng trưng cho vơ vàn khó khăn, nguy hiểm mà
con người thường gặp trong đời. Cho nên đường ở đây không phải là con đường đỉ trên
mặt đất mà nó chính là đường đời, đường cách mạng.



Liệu có mấy ai suốt đời chỉ tồn gặp thuận buồm xi gió, thẳng một lèo đến thắng lợi,
thành cơng? Trở ngại, nguy nan là chuyện thường tình. Muốn vượt qua tất cả, con người
phải có một ý chí kiên cường, nội lực phi thường cùng một niềm tin không gì lay chuyển
nổi. Như vậy mới có thể đạt được chiến thắng vinh quang. Thắng gian lao nguy hiểm và
cao hơn nữa là chiến thắng chính mình.


</div>

<!--links-->

×