Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

Tải Cảm nhận về đoạn thơ Hai chữ nước nhà của Trần Tuấn Khải - Cảm nhận về đoạn thơ Hai chữ nước Ngữ văn lớp 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.08 KB, 3 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Cảm nhận về đoạn thơ Hai chữ nước nhà của Trần Tuấn Khải</b>


Những năm 20 của thế kỉ trước, những bài thơ hát theo làn điệu dân ca, những bài thơ lục bát,
song thất lục bát, thất ngôn... được truyền bá sâu rộng trong dân gian. Những gương anh hùng
được Trần Tuấn Khải nói đến có giá trị khích lệ tinh thần u nước, nói lên nỗi đau nhục nô lệ
lầm than, bày tỏ khát vọng độc lập tự do khơng bao giờ ngi.


Đoạn trích bài thơ “hai chữ nước nhà” gồm có 36 câu thơ song thất lục bát được Trần Tuấn Khải
sáng tác vào năm 1926, in trong tập “Bút quan hoài". Trong lời đề từ, nhà thơ nói rõ cảm hứng
của mình là “nghĩ tới lời ông Phi Khanh dặn ông Nguyễn Trãi khi ông bị quân Minh bắt giải sang
Tàu". Qua đó, ta cảm nhận được “Hai chữ nước nhà” là bài thơ mượn đề tài lịch sử để thể hiện
cảm hứng yêu nước, kích thích lịng u nước cho quốc dân đồng bào khi đang làm thân trâu
ngựa cho thực dân Pháp. Lời đề từ đưa chúng ta trở về những năm tháng đau thương của đất
nước và dân tộc. Năm 1407, giặc Minh xâm lược nước ta, dìm đất nước ta vào trong máu lửa,
chúng ta bắt cha con ông Hồ Quý Li và một số đại thần, trong đó có Nguyễn Phi Khanh giải về
Tàu. Có thể nói bài thơ là lời cha dặn con về “Hai chữ nước nhà”, về mối thù nhà nợ nước.


Trong phần đầu tiên của đoạn trích, tác giả đã gợi lên cảnh đất nước đau thương dưới ách thống
trị của giặc Minh tàn bạo. Những hình ảnh nhân hóa rất gợi: “Mây sâu ảm đạm”, “gió thảm đìu
hiu” “hổ thét chim kêu”... Cảnh vật núi sông như mang nỗi đau con người. Cả một không gian
rộng lớn từ “chốn ải Bắc” đến “chốn ải Nam’' và “khắp bốn bể” đều thấm máu và nước mắt của
hàng triệu con người:


<i>“Chốn ải Bắc, mây sầu ảm đạm,</i>
<i>Cõi trời Nam, gió thảm đìu hiu</i>


<i>Bốn bể hổ thét chim kêu...”.</i>


Trước thảm cảnh “vong quốc”, người cha già trên con đường đi đày càng ngổn ngang nỗi niềm.
Các chữ, các hình ảnh như: “Bất bình”, “hạt máu nóng thấm quanh hồn nước”, “tầm tã châu rơi”
đã nói lên một cách cảm động “di hận” của người anh hùng thất thế, một bi kịch lịch sử của cha


con Phi Khanh và Nguyễn Trãi. Câu thơ như thấm đầy lệ, giọng thơ thiết tha não nùng:


<i>“Trông con tầm tã châu rơi</i>
<i>Con ơi! Con nhớ lấy lời cha khuyên”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Phần thứ hai là những lời thống thiết cha dặn con. Nhớ “hai chữ nước nhà" là nhớ về dòng giống
Hồng Lạc, là nhớ về lịch sử trường tồn “mấy ngàn năm” của dân tộc, là nhớ giang sơn “giời Nam
riêng một cõi này”, là nhớ đến bao “anh hùng hiệp nữ” như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lí Thường
Kiệt, Trần Quốc Tuấn... Nhớ “Hai chữ nước nhà” là để nâng cao lịng tự tơn, tự hào dân tộc:


<i>“Giời Nam riêng một cõi này</i>
<i>Anh hùng hiệp nữ xưa nay kém gì!”</i>


Giọng thơ trở nên bừng bừng căm giận khi cha dặn con hãy khắc cốt ghi tâm những tội ác tày trời
của quân “cuồng Minh”:


<i>“Bốn phương khói lửa bừng bừng .</i>
<i>Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông</i>


<i>Nơi đô thị thành tung quách vỡ</i>
<i>Chốn nhân gian bỏ vợ lìa con,</i>


<i>Làm cho xiêu tán hao mịn</i>
<i>(...)</i>


<i>Khói Hùng Lĩnh như xây khói uất</i>
<i>Sơng Hồng Giang nhường vật cơn sầu.</i>


Những từ ngữ hình ảnh “khói lửa bừng bừng”, “xương rừng máu sơng", “thành tung quách vỡ",
“đất khóc giời than”, “xây khối nát”, “vật cơn sầu”... tuy mang tính ước lệ, nhưng trong văn cảnh


vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ vì đã gợi lên bao nỗi nhục mất nước, lòng căm thù đối với quân
xâm lược. Đặc biệt đoạn thơ của Trần Tuấn Khải đã đem đến liên tưởng cho người đọc về
“BìnhNgơ đại cáo” đoạn nói về tội ác giặc Minh tàn bạo:


<i>“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,</i>
<i>Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ</i>
<i>Dối trời, lừa dân, đủ mn nghìn kế,</i>
<i>Gây binh, kết oán, trải hai mươi năm</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Người cha bị cùm trói, bị giải sang Tàu, nhìn cơ đồ giang san mà đau đớn như xé tâm can. Càng
đau đớn, ông càng lo lắng cho vận mệnh của đất nước, tương lai của giống nòi. Câu cảm thán kết
hợp với câu hỏi tu từ cất lên vô cùng thống thiết:


<i>“Con ơi! Càng nói càng đau</i>
<i>Lấy ai tế độ đần sau đó mà?”.</i>


Vần thơ như chứa đầy lệ, có lời than, có tiếng nức nở. Lời cha dặn con cũng là lời non nước.
Tám câu cuối trong phần cuối bài thơ vừa nói lên bi kịch của người cha: “Tuổi già sức yếu”, “sa
cơ đành chịu bó tay”... vừa trông cậy vào con để trả thù, rửa hận nước: “Giang sơn gánh vác sau
này cậy con”... Cha thiết tha dặn con lần cuối: “Vì nước” hãy “nhớ tổ tông”, hãy đem máu đào
mà hi sinh chiến đấu cho độc lập của Tổ quốc. Đó là “hai chữ nước nhà” đó là những lời huyết lệ:


<i>“Con nên nhớ tổ tơng khi trước</i>
<i>Đã từng phen vì nước gian lao</i>


<i>Bắc Nam bờ cõi phân mao</i>
<i>Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây...”.</i>


“Hai chữ nước nhà” là một bài thơ hay và cảm động. Nói lên một cách hàm súc cơ đọng nỗi đau,
nỗi nhục mất nước của dân tộc ta trong thế kỉ XV và căm thù đối với giặc Minh cướp nước. Sâu


xa hơn, bài thơ đã khích lệ lịng yêu nước của đồng bào, khêu gợi khát vọng độc lập tự do của
dân tộc khi đang làm thân trâu ngựa cho thực dân Pháp. “Hai chữ nước nhà” vừa là lời cha dặn
con, vừa là lời Tổ quốc kêu gọi.


Từ ngơn ngữ, hình ảnh đến giọng thơ, vần thơ, từ những cặp câu thất ngơn đối nhau đến những
hình ảnh nhân hóa, tượng trưng ước lệ đều cho thấy một bút pháp nghệ thuật rất già dặn, giàu bản
sắc của Á Nam.


</div>

<!--links-->

×