Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

TỔNG QUAN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.05 KB, 30 trang )

TỔNG QUAN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1. Tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của tín dụng ngân hàng đối với
các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.1.1.1.Khái niệm.
Tín dụng là một phạm trù của nền kinh tế hàng hoá. Quan hệ tín dụng
phát sinh từ nhu cầu tiêu dùng hoặc sản xuất của các chủ thể trong nền kinh tế.
Tín dụng trước hết được hiểu là quan hệ vay mượn, sử dụng vốn của nhau
dưới hình thức tiền tệ hay hàng hóa dựa trên nguyên tắc có hoàn trả và tin tưởng
nhau. Theo định nghĩa của Luật các tổ chức tín dụng (2003) thì: “Tín dụng là
một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó một bên chuyển giao tiền hay
tài sản cho bên kia sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định, đồng thời bên
nhận tiền hay tài sản cam kết hoàn trả theo thời hạn đã thỏa thuận” .
Căn cứ vào chủ thể tham gia quan hệ tín dụng, các hình thái tín dụng bao
gồm: tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng Nhà nước và tín dụng
doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại,tín dụng Ngân hàng ngày
càng phát triển mạnh mẽ và đóng góp vai trò ngày càng quan trọng vào sự phát
triển của nền kinh tế.
Tín dụng ngân hàng là một giao dịch về tài sản(tiền hoặc hàng hoá) giữa
bên cho vay (Ngân hàng) và bên đi vay(cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể
khác), trong đó Ngân hàng chuyển quyền sử dụng cho bên đi vay trong một
khoảng thời gian nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả
vốn gốc và lãi cho Ngân hàng khi đến hạn thanh toán.
Đây là quan hệ tín dụng gián tiếp mà ngân hàng đóng vai trò trung
gianhuy động vốn từ các chủ thể có nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để cho vay đối
với các chủ thể có nhu cầu về vốn. Vì thế, tín dụng ngân hàng là hình thức tín
dụng chủ yếu trong nền kinh tế thị trường, nó luôn đáp ứng nhu cầu về vốn cho
nền kinh tế một cách linh hoạt đầy đủ và kịp thời.
1.1.1.2. Đặc điểm của tín dụng Ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa
và nhỏ.


Một là: Quan hệ tín dụng được thiết lập trên cơ sở lòng tin. Các DNV&N
tin rằng sau một khoảng thời gian nhất định, phương án và dự án kinh doanh
của họ sẽ có hiệu quả và tạo ra lợi nhuận đảm bảo nguồn trả nợ cho ngân hàng.
Các Ngân hàng cũng tin tưởng rằng sau khoảng thời gian đã thoả thuận trong
HĐTD, khách hàng sẽ hoàn trả đầy đủ và đúng hạn cả gốc và lãi vay. Như vậy
cơ sở lòng tin này được hình thành thông qua uy tín của DNV&N, giá trị tài sản
đảm bảo, tính khả thi và hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh, uy tín của
người bảo lãnh…
Hai là: Tín dụng ngân hàng mang tính thời hạn. Thời hạn của một khoản
vay phụ thuộc vào đặc điểm luân chuyển vốn, chu kỳ sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, tính chất nguồn vốn của ngân hàng.
Ba là: Tín dụng ngân hàng mang tính hoàn trả. Giá trị hoàn trả thông
thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay. Điều đó có nghĩa là, doanh nghiệp vay
vốn phải hoàn trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc. Lãi cho vay chính là chi phí cho
việc sử dụng vốn của DNV&N trong một khoảng thời gian nhất định.
Bốn là: Tín dụng ngân hàng đối với DNV&N mang tính rủi ro cao. Khả
năng thu hồi nợ của Ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào hiệu quả sản xuất kinh
doanh của DNV&N. Trong khi đó môi trường kinh doanh của doanh nghiệp
thường xuyên biến động, chịu tác động của nhiều nhân tố: lạm phát, sự biến
động tỷ giá, lãi suất thị trường…
1.1.1.3. Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và
nhỏ.
a. Tín dụng ngân hàng góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu, tập
trung vào sản xuất và khai thác tối đa tiềm năng của DNV&N.
Trong nền kinh tế thị trường hiếm có doanh nghiệp nào chỉ sử dụng vốn
tự có của mình để sản xuất kinh doanh. Vì như vậy sẽ gây lãng phí, hạn chế khả
năng mở rộng sản xuất cũng như làm tăng giá vốn của doanh nghiệp. Thông
thường ngoài vốn tự có, doanh nghiệp thường sử dụng vốn đi vay từ ngân hàng.
Tuy nhiên nếu sử dụng vốn vay quá lớn sẽ làm tăng chi phí trả lãi, giảm lợi
nhuận cho doanh nghiệp. Do vậy các DNV&N cần thiết phải xây dựng một cơ

cấu vốn tối ưu với số lượng nợ vay hợp lý. Điều này không những làm giảm bớt
rủi ro mất vốn cho doanh nghiệp mà còn giúp doanh nghiệp tối đa hoá lợi nhuận
tại mức giá vốn bình quân rẻ nhất.
b. Tín dụng ngân hàng thực hiện quá trình huy động các nguồn vốn
nhàn rỗi đưa vào đầu tư,đáp ứng nhu cầu vốn để dảm bảo cho hoạt động của
doanh nghiệp được liên tục, thuận lợi và góp phần tái sản xuất mở rộng nền
kinh tế.
Thông qua quá trình tập trung và phân phối vốn, NHTM với tư cách là
trung gian tài chính, tiến hành huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của tất
cả các thành phần kinh tế và trong dân cư để cho vay đối với nền kinh tế. Nhờ
nguồn vốn mà ngân hàng cho vay, doanh nghiệp không những đảm bảo cho
hoạt động sản xuất kinh doanh không bị gián đoạn mà còn mở rộng sản xuất, cải
tiến kĩ thuật, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Từ đó các doanh
nghiệp sẽ thúc đẩy sản xuất lưu thông hàng hoá, đẩy nhanh quá trình tái sản
xuất mở rộng. Như vậy tín dụng ngân hàng không chỉ còn là nguồn vốn bổ sung
để bù đắp nhu cầu vốn tạm thời mà đã dần trở thành nguồn vốn chủ yếu, quan
trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNV&N hiện nay.
c. Tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tạo áp
lực buộc các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả.
Bản chất của tín dụng ngân hàng không phải là hình thức cấp phát vốn mà
phải hoàn trả cả gốc và lãi đúng thời hạn đã thoả thuận. Do vậy có thể trả hạn
cho ngân hàng và toạ lập được uy tín trong việc thực hiện hợp đồng tín dụng,
doanh nghiệp phải hoạt động có hiệu quả. Như vậy, tín dụng ngân hàng cũng là
một yếu tố kích thích doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả, tiết kiệm, đảm bảo
tạo ra tỷ suất lợi nhuận lớn hơn lãi suất ngân hàng để có thể trả được nợ vay. Về
phía ngân hàng, để đảm bảo an toàn tránh rủi ro không thu hồi được vốn, ngân
hàng chỉ cho vay đối với doanh nghiệp có uy tín, có phương án sản xuất kinh
doanh khả thi hiệu quả. Muốn vậy doanh nghiệp phải tìm hiểu kỹ thị trường,
định hướng hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đồng thời thúc đẩy đổi
mới công nghệ, cải tiến sản phẩm để rút ngắn chu kỳ sản xuất, tăng nhanh vòng

quay vốn để nâng cao vị thế trên thị trường, tạo lập uy tín đối với ngân hàng.
Trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng tín dụng, ngân hàng thường xuyên kiểm
tra, giám sát việc sử dụng vốn của doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải sử
dụng vốn vay đúng mục đích để đem lại hiệu quả cao nhất. Bên cạnh đó, vai trò
tư vấn của cán bộ tín dụng giúp doanh nghiệp tháo gỡ những khó khăn để tiến
hành hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
d.Tín dụng ngân hàng kích thích tính năng động linh hoạt của các
doanh nghiệp, nâng cao khả năng cạnh tranh của các DNV&N trên thị
trường.
Trong nền kinh tế thị trường hoạt động của các doanh nghiệp chịu sự tác
động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế khách quan: quy luật giá trị, quy luật
cung cầu, quy luật cạnh tranh… Khi nhu cầu của thị trường ngày càng cao, để
có thể đứng vững trên thị trường các DNV&N phải chủ động ứng dụng những
thành tựu mới, đổi mới công nghệ, hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, nâng cao
chất lượng lao động, tìm kiếm thị trường mới, mở rộng quy mô sản xuất một
cách thích hợp…Để thực hiện những hoạt động này, đòi hỏi một khối lượng lớn
về vốn, có thể vượt quá khả năng vốn tự có của doanh nghiệp. Giải quyết khó
khăn này, doanh nghiệp đã tìm tới sự hỗ trợ của ngân hàng. Nguồn vốn tín dụng
ngân hàng giúp doanh nghiệp nâng cao chất lượng mọi mặt của quá trình sản
xuất kinh doanh, giúp doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu thị trường, từ đó tạo chỗ
đứng vững chắc trong cạnh tranh.
e. Tín dụng ngân hàng giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế góp phần tạo
nên một cơ cấu kinh tế hợp lý và là công cụ tài trợ lực cho các ngành kinh tế
mũi nhọn và các ngành kinh tế kém phát triển.
Tín dụng ngân hàng là một công cụ hữu hiệu cho việc thay đổi cơ cấu sản
xuất kinh doanh trong mỗi doanh nghiệp, điều hoà lượng cung cầu về vốn trong
nền kinh tế, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế bằng việc di chuyển vốn từ
ngành này sang ngành khác. Các nhà sản xuất kinh doanh sẽ dễ dàng chuyển từ
những ngành có lợi nhuận thấp sang ngành có lợi nhuận cao, tạo điều kiện cho
việc bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận trong nền kinh tế nhằm hình thành nên một

cơ cấu kinh tế hợp lý. Đối với những ngành kinh tế mũi nhọn hoặc những ngành
kinh tế kém phát triển, Ngân hàng sẽ thực hiện những chính sách ưu đãi về lãi
suất, giúp các ngành nghề hay khu vực đó dễ dàng tiếp cận được vốn vay Ngân
hàng, thông qua đó làm đòn bẩy để các ngành đó phát triển.
f. Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy quá trình
mở rộng quan hệ giao lưu kinh tế quốc tế.
Trong xu thế hội nhập quốc tế, mối quan hệ giữa các nước trong khu vực
và trên thế giới mở rộng, phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Đầu tư vốn ra
nước ngoài và kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá đã và đang là hai lĩnh vực
hợp tác kinh tế phổ biến nhất giữa các nước. Ngân hàng với tư cách là tổ chức
kinh doanh tiền tệ, thông qua hoạt động cho vay, bảo lãnh trở thành người cung
cấp vốn cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá. Đồng thời nguồn tín dụng
bên ngoài cũng góp phần phát triển nền kinh tế đất nước. Từ đó Ngân hàng sẽ
trở thành đòn bẩy thúc đẩy quá trình mở rộng và giao lưu kinh tế quốc tế, là
phương tiện nối liền nền kinh tế các nước.
1.1.2. Các hình thức tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Để đáp ứng được nhu cầu sử dụng vốn vay đa dạng, phong phú và khả
năng kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay của doanh nghiệp đòi hỏi tín dụng
ngân hàng phải có nhiều phương thức cho vay phù hợp. Có thể xem xét một số
hình thức tín dụng chủ yếu sau:
a. Cho vay từng lần:
Hình thức tín dụng này được thực hiện cho vay những khách hàng không
có nhu cầu vay vốn bổ sung thường xuyên hoặc khách hàng có quan hệ lần đầu
và có giá trị khoản vay nhỏ .Mỗi lần vay khách hàng và ngân hàng thực hiện các
thủ tục vay vốn, ký kết, giải ngân, thu nợ theo từng HĐTD. Việc rút vốn vay có
thể được thực hiện một lần hay nhiều lần phù hợp với tiến độ sử dụng vốn vay
thực tế của khách hàng nhưng tổng số tiền của các lần rút vốn không được vượt
quá số tiền trong HĐTD. Thời hạn cho vay của phương thức này được xác định
phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng. Với
hình thức này, ngân hàng có thể kiểm soát, quản lý việc sử dụng vốn vay của

khách hàng.
b. Cho vay theo hạn mức tín dụng.
Hạn mức tín dụng là mức dư nợ vay tối đa được duy trì trong một thời
gian nhất định mà ngân hàng và khách hàng đã thỏa thuận trong hợp đồng tín
dụng (thường là một năm).Cho vay theo hạn mức tín dụng thường được áp dụng
đối với khách hàng có nhu cầu vay vốn - trả nợ thường xuyên, có đặc điểm sản
xuất kinh doanh luân chuyển vốn không phù hợp với phương thức cho vay từng
lần và có uy tín với ngân hàng . Theo phương thức này khách hàng được cấp
một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định. Ngân hàng
và khách hàng căn cứ vào phương án, kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu
vay vốn của khách hàng, tỷ lệ cho vay tối đa so với tài sản đảm bảo, khả năng
nguồn vốn của ngân hàng để tính toán và thỏa thuận một hạn mức tín dụng duy
trì trong thời hạn nhất định không theo chu kỳ sản xuất kinh doanh. HĐTD hạn
mức chỉ hết hiệu lực khi khách hàng trả hết vốn, lãi vay và các chi phí khác (nếu
có) của tất cả khế ước nhận nợ phát sinh từ HĐTD hạn mức.
c. Cho vay theo dự án đầu tư.
Đây là hình thức cho vay đối với những khách hàng co nhu cầu vay để
thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ và các dự án
phục vụ đời sống. Tổng nhu cầu vốn được tài trợ cho tài sản cố định và nhu cầu
vốn lưu động của dự án. Ngân hàng cho vay cùng với khách hàng kí HĐTD và
thoả thuận mức vốn đầu tư duy trì cho cả thời gian đầu tư của dự án, phân định
các kì hạn trả nợ. Thời hạn cho vay bao gồm thời hạn ân hạn và thời hạn trả nợ,
không được vượt quá thời gian hoạt động của dự án. Trong thời hạn rút vốn quy
định trong HĐTD, khách hàng có thể rút vốn nhiều lần phù hợp với tiến độ thực
hiện dự án nhưng tổng số tiền của các lần rút vốn không vượt quá số tiền cho
vay đã thoả thuận.
d. Cho vay hợp vốn.
Phương thức này áp dụng khi số tiền cho vay tối đa của một ngân hàng
đối với một khách hàng chỉ đáp ưng được một phần nhu cầu vay vốn của khách
hàng để thực hiện dự án đầu tư phát triển kinh doanh. Hình thức này cũng được

sử dụng khi ngân hàng muốn phân tán rủi ro khi cho vay một dự án lớn. Khi đó
các ngân hàng tham gia cho vay hợp vốn sẽ cùng kí vào hợp đồng đồng tài trợ
để xác định quyền và nghĩa vụ của mỗi ngân hàng trong toàn bộ quá trình cho
vay. Trong phương thức này, sẽ có một ngân hàng đầu mối đứng ra ký khế ước
cho vay mỗi lần giải ngân và thu nợ khách hàng.
e. Cho vay trả góp.
Là hình thức cho vay trong đó người đi vay trả nợ (gồm số tiền gốc và
lãi) cho ngân hàng nhiều lần, theo những kỳ hạn nhất định trong thời hạn cho
vay, mỗi kỳ trả một phần gốc và lãi vay. Phương thức này thường được áp dụng
đối với những khoản vay có giá trị lớn, người đi vay có nguồn thu nhập định kỳ,
nhưng không đủ khả năng thanh toán hết một lần số nợ vay. Khách hàng thường
có nhu cầu vay vốn để mua sắm tài sản tiêu dùng sinh hoạt, chi trả chi phí du
lịch… hoặc phục vụ cho nhu cầu sản xuất. Đối với phương thức này, lãi suất
cho vay có thể tính theo lãi suất trả góp hoặc tính theo dư nợ vốn gốc thực tế.
f. Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng.
Phương thức này áp dụng đối với khách hàng cần dự phòng nguồn vốn
tín dụng trong một khoảng thời gian nhất định nhằm đảm bảo khả năng chủ
động về tài chính khi thực hiện dự án đầu tư. Sau khi hoàn tất các thủ tục cần
thiết, khách hàng và ngân hàng ký HĐTD hạn mức dự phòng, trong đó ngân
hàng cam kết sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng
dự phòng trong một khoảng thời gian nhất định và khách hàng phải trả phí cho
hạn mức tín dụng dự phòng. Trong thời hạn rút vốn, nếu khách hàng có nhu cầu
rút vốn thì phải ký khế ước nhận nợ và gửi kèm bản sao các tài liệu chứng minh
mục đích sử dụng vốn vay phù hợp với HĐTD hạn mức đã ký. Tổng số lần rút
vốn không được vượt quá hạn mức tín dụng dự phòng và thời hạn cho vay trong
từng khế ước nhận nợ không được vượt quá thời hạn cho vay quy định trong
HĐTD hạn mức dự phòng.
g. Cho vay theo hạn mức thấu chi.
Trong hình thức cho vay thấu chi, theo đó ngân hàng cho phép khách hàng
chi vượt số tiền hiện có trên tài khoản thanh toán của mình đến một giới hạn

nhất định và trong một khoảng thời gian cho phép. Hầu hết các NHTM áp dụng
hình thức tín dụng này đối với các khách hàng quen thuộc, độ tin cậy cao,
thường xuyên có số dư tiền gửi thanh toán lớn, nhu cầu thanh toán thường
xuyên. Đây là một hình thức tín dụng linh hoạt tạo thuận lợi cho khách hàng
trong thanh toán, còn các ngân hàng được mở rộng, tăng cường khả năng thu
hút được nhiều hơn khách hàng đến với ngân hàng, tăng nguồn thu từ dịch vụ
thanh toán .
h. Các hình thức cho vay khác.
Ngoài các hình thức cho vay trên, tuỳ thuộc vào thoả thuận giữa ngân
hàng và doanh nghiệp, còn có các phương thức cho vay khác như chiết khấu,
cho thuê tài chính, cho vay dưới hình thức bảo lãnh…
1.1.3. Quy trình tín dụng ngân hàng đối với DNV&N.
Để nâng cao hiệu quả của hoạt động tín dụng nhằm giảm thiểu rủi ro và
nâng cao doanh lợi, mỗi ngân hàng cần thiết phải thiết lập một quy trình tín
dụng hợp lý. Có thể nói quy trình tín dụng là quy phạm nghiệp vụ bắt buộc
trong nội bộ ngân hàng. Một khoản tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
phải được thực hiện theo một quy trình sau:
Bước 1: Khi có nhu cầu vay vốn, khách hàng gửi hồ sơ vay vốn tới ngân
hàng. Hồ sơ vay vốn bao gồm:
* Giấy đề nghị vay vốn.
* Các tài liệu chứng minh năng lực pháp lý, năng lực hành vi dân sự như
giấy phép thành lập, đăng ký kinh doanh, điều lệ hoạt động…
* Phương án, dự án vay vốn.
* Các tài liệu liên quan đến mục đích sử dụng vốn vay, tính khả thi của
phương án, dự án vay vốn.
* Các tài liệu chứng minh tình hình sản xuất kinh doanh, khả năng tài
chính của khách hàng vay, bên bảo lãnh (nếu có): báo cáo tài chính và thuyết
minh báo cáo tài chính (trong 3 năm gần nhất), báo cáo tình hình vay nợ, hàng
tồn kho, khoản phải thu, phải trả và các tài liệu khác có liên quan đến tình hình
tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh.

* Hồ sơ tài sản đảm bảo khoản cho vay.
* Các tài liệu khác nếu có.
Bước 2: Ngân hàng tiến hành thẩm định khoản vay.
Dựa trên cơ sở hồ sơ vay vốn của khách hàng và các nguồn thông tin thu
thập được, cán bộ tín dụng tiến hành thẩm định để ra quyết định cho vay. Nội
dung phân tích tín dụng bao gồm:
* Năng lực pháp lý của doanh nghiệp: giấy phép thành lập đăng ký kinh
doanh, cơ cấu tổ chức…
* Uy tín của doanh nghiệp: ngành nghề kinh doanh, phẩm chất đạo đức,
năng lực của người lãnh đạo, văn hoá doanh nghiệp…
* Năng lực tài chính của doanh nghiệp thể hiện qua việc phân tích báo
cáo tài chính, các hệ số tài chính cơ bản…
* Đánh giá năng lực kinh doanh về thị trường, sản phẩm, các nguồn lực
của doanh nghiệp, năng lực quản lý…
* Phân tích môi trường kinh doanh.
* Thẩm định phương án sản xuất kinh doanh về mục tiêu của dự án đầu
tư, thị trường tiêu thụ, hiệu quả kinh tế, tính khả thi…
* Phân tích bảo đảm tiền vay của khách hàng.
Bước 3: Quyết định cho vay.
Từ việc phân tích, thẩm định khách hàng vay vốn, cán bộ tín dụng đưa ra
quyết định và thông báo chấp nhận hay từ chối cho vay đối với khách hàng. Nếu
quyết định cho vay, ngân hàng và khách hàng ký kết HĐTD. Trong HĐTD bao
gồm các nội dung chủ yếu sau:
• Điều kiện vay vốn.
• Mục đích sử dụng tiền vay.
• Số tiền vay, lãi suất, thời hạn cho vay.
• Phương thức giải ngân.
• Phương thức, kỳ hạn trả nợ.
• Hình thức đảm bảo tiền vay, giá trị tài sản đảm bảo.
• Quyền và nghĩa vụ giữa các bên.

• Các cam kết khác được hai bên thoả thuận.
Bước 4: Giải ngân.
Cơ sở để ngân hàng thực hiện giải ngân là kế hoạch sử dụng vốn tín dụng
đã cam kết trong HĐTD. Việc giải ngân phải đảm bảo nguyên tắc vận động của
tín dụng gắn liền với vận động của hàng hoá. Tức là việc phát tiền vay phải có
hàng hoá đối ứng, phù hợp với mục đích vay của hợp đồng tín dụng. Một khoản
tín dụng có thể được giải ngân một lần toàn bộ số tiền vay hoặc giải ngân thành
nhiều đợt, với nhiều phương thức giải ngân bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản.
Bước 5: Giám sát và thu nợ đối với khoản vay.
Ngân hàng có trách nhiệm và có quyền kiểm tra, giám sát quá trình vay
vốn, sử dụng vốn, tình hình hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính và đảm
bảo tín dụng của khách hàng, việc tuân thủ các nguyên tắc, các cam kết cho vay.
Quá trình kiểm tra giám sát của ngân hàng giúp ngăn ngừa các hành vi vi phạm
của khách hàng, hạn chế rủi ro đạo đức nhằm đảm bảo an toàn tín dụng. Đồng
thời phát hiện kịp thời những biểu hiện vi phạm để có biện pháp xử lý kịp thời.
Ngân hàng có trách nhiệm theo dõi lịch trả nợ của khách hàng đã cam kết trong
HĐTD, tiến hành thu hồi các khoản nợ cả gốc và lãi khi đáo hạn. Trong trường
hợp do điều kiện khách quan mà khách hàng không thể trả nợ đầy đủ và đúng
hạn, ngân hàng có thể xét gia hạn nợ để khách hàng vượt qua khó khăn và trả nợ
cho ngân hàng.
Bước 6: Thanh lý hợp đồng tín dụng.
Khi khoản nợ đã được hoàn trả đầy đủ thì ngân hàng tiến hành thanh lý
hợp đồng, giao lại tài sản thế chấp cho khách hàng (thanh lý tín dụng mặc
nhiên). Đối với các khoản nợ quá hạn, không có khả năng thu hồi, ngân hàng
dựa vào cơ sở pháp lý để tìm kiếm các nguồn bù đắp để xử lý như phát mại tài
sản thế chấp, trích quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp…(thanh lý tín dụng bắt buộc).
1.2. Chất lượng tín dụng ngân hàng đối với DNV&N.
1.2.1. Khái niệm và sự cần thiết nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng.
1.2.1.1. Khái niệm về chất lượng tín dụng ngân hàng.
Chất lượng tín dụng ngân hàng là một chỉ têu tổng hợp phản ánh chế độ

thích nghi của ngân hàng đối với sự phát triển của môi trường bên ngoài, thể
hiện sức mạnh của ngân hàng trong quá trình cạnh tranh và phát triển. Hay nói
các khác, nó là sự đáp ứng yêu cầu hợp lý của khách hàng có lựa chọn, đảm bảo
sự tồn tại và phát triển của ngân hàng đồng thời góp phần thúc đẩy tăng trưởng
xã hội.
Như vậy, chất lượng tín dụng được nhìn nhận dưới các góc độ kinh tế
khác nhau: từ phía khách hàng, từ phía ngân hàng và từ phía nền kinh tế.
- Đối với Ngân hàng:
Chất lượng tín dụng thể hiện ở pham vi,mức độ giới hạn tín dụng phải
phù hợp với thực lực theo hướng tích cực của bản thân ngân hàng và phải đảm
bảo được sự cạnh tranh trên thị trường, tuân thủ nguyên tắc hoàn trả đúng hạn
và có lãi, hạn chế thấp nhất khả năng rủi ro có thể xảy ra.
Chất lượng tín dụng thể hiện ở các chỉ tiêu về lợi nhuận cao, dư nợ ngày
càng tăng trưởng nhưng vẫn đảm bảo an toàn, tỉ lệ nợ quá hạn thấp, đảm bảo cơ
cấu nguồn vốn tín dụng hợp lý. Để đạt được chất lượng tín dụng tốt, cần có sự
tổ chức và quản lý đồng bộ trong mỗi ngân hàng. Xác định đúng đối tượng cho
vay phù hợp với khả năng, quy mô ngân hàng, thực hiện tốt quy trình cho vay từ
khâu thẩm định các điều kiện vay vốn, kiểm tra giám sát tình hình tài chính,
mục đích sử dụng vốn vay… Để đảm bảo món vay được hoàn trả đầy đủ và
đúng hạn, hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất.
- Đối với khách hàng:
Nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp là để tiến hành hoạt động sản xuất
kinh doanh, đầu tư, mua sắm thiết bị công nghệ hiện đại, nâng cao chất lượng
sản phẩm… Từ đó tạo ra lợi nhuận, trả nợ ngân hàng, tăng tích luỹ cho doanh
nghiệp, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Như vậy, chất lượng tín dụng chính là sự dáp ứng kịp thời các nhu cầu
hợp lý của doanh nghiệp với lãi suất và kì hạn hợp lý, thủ tục đơn giản, thuận
lợi, thu hút được khách hàng nhưng vẫn phải đảm bảo đúng nguyên tắc tín
dụng. Việc nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp sẽ làm lành
mạnh tài chính doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong

doanh nghiệp, góp phần duy trì sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
- Đối với sự phát triển kinh tế xã hội:

×