Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG DOANH NGHIỆP TẠI VPBANK

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.81 KB, 24 trang )

GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH
TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG DOANH NGHIỆP TẠI VPBANK
3.1. ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG DOANH NGHIỆP CỦA VPBANK
Dựa vào tiềm lực thực tế của ngân hàng, điều kiện kinh tế của đất nước và
khu vực, VPBank đưa ra định hướng đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020:
3.1.1.Định hướng nhiệm vụ chủ yếu trong 5 năm (2006 – 2010 )
 Mục tiêu chiến lược: Phấn đấu trở thành một ngân hàng thương mại bán lẻ
hàng đầu ở Việt Nam, NHTMCP hàng đầu phía Bắc, hoạt động đa năng, mở rộng
các dịch vụ ngân hàng, phục vụ phát triển kinh tế trong nước trên cơ sở định hướng
khách hàng mục tiêu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ và dân cư.
 Trở thành một ngân hàng có công nghệ tiên tiến, hiện đại, hội nhập tốt vào
khu vực và thế giới khi Việt Nam gia nhập AFTA,WTO…
3.1.2. Các chỉ tiêu nhiệm vụ cụ thể:
 Phấn đấu mức tăng trưởng mỗi năm đối với dư nợ là 30%, huy động vốn là
35%, lợi nhuận trước thuế và DPRR từ 20 – 25%.
 Về huy động vốn, Ngân hàng tiếp tục thực hiện chính sách lãi suất linh
hoạt, cung cấp nhiều tiện ích bổ xung cho khách hàng gửi tiết kiệm cũng như
khách hàng sử dụng tài khoản tiền gửi, chuẩn bị điều kiện để quản lí tập trung tài
khoản tiền gửi, đưa tiện ích gửi tiền một nơi, rút tiền nhiều nơi vào giao dịch, phấn
đấu mức tăng trưởng mỗi năm khoảng 35%.
 Về tín dụng, tập trung phục vụ các đối tượng khách hàng là doanh nghiệp
vừa và nhỏ thuộc khu vực tư nhân , khách hàng là cá nhân vay vốn phục vụ nhu
cầu tiêu dùng hoặc sản xuất kinh doanh quy mô gia đình. Phấn đấu mức tăng
trưởng mỗi nsưm là 30%.
 Về các sản hẩm, dịch vụ khác, VPBank ưu tiên phát triển các sản phẩm
ngân hàng điện tử, các sản phẩm thanh toán không dùng tiền mặt( thẻ TD, thẻ ghi
nợ nội địa của VPBank và đại lí thẻ tín dụng quốc tế cho VCB); các sản phẩm dịch
vụ ngân hàng tự động, các sản phẩm, dịch vụ bán lẻ khác…
 Về chính sách giá cả và cạnh tranh,VPBank lựa chọn chính sách “sản
phẩm tốt nhất/ giá cao nhất”. Mục tiêu lâu dài của VPBank là sẽ không cạnh tranh
thông qua giá cả mà sẽ cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm dịch vụ.


 Về phát triển mạng lưới: Để phù hợp với chiến lược bán lẻ, mạgn lưới của
VPBank cần phát triển rộng khắp các đô thị lớn, nơi tập trung đông dân cư. Ngoài
ra cũng tập trung phát triển một số VPBank, văn phòng đại diện tại một số nước
trong khu vực, nơi phát sinh nhiều giao dịch thương mại, giao dịch tài chính với
Việt Nam.VPBank dự kiến đến 2010, mạng lưới sẽ được mở rộng đến ít nhất 20
tỉnh thành trong cả nước với tổng số đầu mối giao dịch lên tới trên 70 đầu mối.
 Luôn đảm bảo các chỉ tiêu an toàn trong phạm vi quy định của NHNN.
Bảng 3: MỘT SỐ CHỈ TIÊU TĂNG TRƯỞNG DỰ KIẾN
(đơn vị : tỉ đ )
Chỉ tiêu 2006 2007 2008 2009 2010
Tổng TS 5700 8000 11200 16000 23000
Tổng DNợ 2500 4200 7000 9500 12000
Tỉ lệ NQH <2% <2% <2% <2% <2%
Vốn điều lệ 300 400 500 660 860
LNST 80 110 140 180 240
Tóm lại, định hướng phát triển của VPBanktrong những năm tới về hoạt
động tín dụng doanh nghiệp nói chung và công tác thẩm định trong hoạt động tín
dụng doanh nghiệp nói riêng là rất rõ ràng, đúng đắn và đang được ngân hàng từng
bước triển khai thành công. Nó không chỉ giúp ngân hàng rút ngắn khoảng cách
với các NHTMCP hàng đầu mà còn giúp ngân hàng tự tin, hăng hái, nhanh chóng
bước vào giai đoạn phát triển mới đầy thử thách mới.
3.2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNGTHẨM ĐỊNH TẠI VPBANK
Để thực hiện được định hướng và các mục tiêu trên đòi hỏi VPBankphải giải
quyết đồng thời nhiều vấn đề. Một trong những vấn đề quan trọng đó là phải nâng
cao chất lượng tín dụng. Muốn vậy, ngân hàng cần có những chính sách, giải pháp
nhằm nâng cao chất lượngthẩm định. Các giải pháp này tập trung giải quyết công
tác tổ chức, hoàn thiện hệ thống báo cáo, nâng cao công nghệ và chất lượng nguồn
nhân lực, mở rộng mối quan hệ với khách hàng.
3.2.1. Nâng cao chất lượng công tác thu thập và xử lý thông tin
Nguồn thông tin là một yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của công

tác thẩm định trong hoạt động tín dụng, đặc biệt là tín dụng doanh nghiệp. Thông
tin đầy đủ là cơ sở cần thiết để cán bộ tín dụng có thể phân tích và đưa ra nhận
định chính xác về khách hàng, từ đó có những quyết định hợp lí trong việc đáp ứng
nhu cầu vay của khách hàng. Ngoài ra, nguồn thông tin đầy đủ cũng giúp ngân
hàng nắm bắt được diễn biến của thị trường trong nước và quốc tế, những biến
động kinh tế và những thay đổi trong chủ trương, chính sách phát triển kinh tế của
nhà nước, từ đó ngân hàng đề ra các biện pháp kịp thời, nhằm điều chỉnh các hoạt
động tránh những rủi ro thiệt hại và ổn định để phát triển. Vì vậy ngân hàng cần
phải có những giải pháp để nâng cao hơn nữa chất lượng công tác thu thập, nhất là
các thông tin liên quan đến các doanh nghiệp.
 Để có những thông tin có chất lượng cao, ngoài những hồ sơ tài liệu
mà ngân hàng nhận được từ khách hàng vay vốn, ngân hàng cần phỏng vấn
trực tiếp một số người chủ chốt liên quan tới dự án và doanh nghiệp: Giám
đốc, kế toán trưởng, cán bộ lập dự án. Mục đích chính của cuộc phỏng vấn là
kiểm tra tư cách của những người đứng đầu doanh nghiệp, phác thảo về
năng lực trình độ của họ, ý tưởng, sự hiểu biết cũng như sự quan tâm của họ
đối với dự án. Không nên chỉ phỏng vấn người đi giao dịch với ngân hàng.
Kết hợp với phỏng vấn là đi quan sát thực tế tình hình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp để nắm rõ tình hình quá khứ và hiện tại. Tuy nhiên hiệu
quả của những công việc này phụ thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm “nghệ
thuật” của mỗi cán bộ ngân hàng, nó yêu cầu năng lực tư duy và năng lực
quan sát đánh giá của mỗi người - điều mà tự mỗi cán bộ tín dụng phải tạo
cho mình trong thời gian làm việc chứ không có sách vở nào chỉ dẫn cụ thể.
 Khai thác triệt để nguồn thông tin từ trung tâm tín dụng CIC của
NHNN ,các cơ quan thông tin đại chúng và truyền thông và các nguồn thông
tin khác qua nhiều kênh (cấp chủ quản, các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh cùng ngành hàng, các thị trường, khách hàng chuyên tiêu thụ sản
phẩm…). Đây là nơi lưu giữ tất cả các thông tin cần thiết, cơ bản về doanh
nghiệp. Nó cho phép đánh giá sơ bộ khách hàng về các mặt như: lịch sử hình
thành phát triển, tình hình tài chính, tình hình công nợ, mức độ tín nhiệm tín

dụng, uy tín thanh toán trên thị trường… Để đảm bảo việc cung cấp thông
tin có chất lượng cao cho hoạt động đánh giá doanh nghiệp, trong các trường
hợp đặc biệt cần thiết, ngân hàng nên tính đến việc mua các thông tin.
Những thông tin quan trọng mang tính chuyên môn cao và không có sẵn như
thông tin công nghệ kỹ thuật, các phân tích đánh giá thị trường… có thể
được cung cấp bởi những nguồn tin cậy nhưng chỉ khi ngân hàng chịu chi
phí cho nó. Đồng thời ngân hàng phải trang bị các thiết bị kết nối internet,
thiết bị kết nối với trung tâm thông tin thương mại, trung tâm phòng ngừa
rủi ro để có những thông tin đầy đủ và cập nhật về các doanh nghiệp, đặc
biệt là các doanh nghiệp đang có nhu cầu vay vốn ngân hàng. Ngoài ra ngân
hàng cũng cần hoàn thiện hệ thống cung cấp thông tin báo cáo nội bộ, đồng
thời xây dựng một hệ thống thu thập, xử lí và lưu trữ dữ liệu riêng phục vụ
cho công tác đánh giá. Đó là một bộ phận các cán bộ được cung cấp đầy đủ
các trang thiết bị và phương tiện để chuyên nghiên cứu dự báo thông tin
phục vụ trực tiếp cho ngân hàng.
 Điều tra kỹ lưỡng thông tin về thị trường sản phẩm, kênh phân phối
của doanh nghiệp, thị trường các yếu tố đầu vào để xem xét các sản phẩm
của phương án, dự án có phù hợp với nhu cầu thị trường không, đang ở giai
đoạn nào của chu kì sống, yếu tố đầu vào có được cung cấp ổn định phù hợp
với yêu cầu của phương án, dự án không? Đây là những thông tin ảnh hưởng
rất lớn đến hiệu quả của phương án , dự án nhưng ngân hàng lại thường làm
hết sức chiếu lệ, hình thức, chủ yếu dựa trên thông tin do chính khách hàng
cung cấp mà không chú ý thu thập cụ thể, cẩn thận. Ngoài ra, điều tra các
nhà cung cấp để đánh giá uy tín doanh nghiệp trong thanh toán, đánh giá
chính xác thực trạng “phải thu”, “phải trả”. Ngoài ra, Ngân hang cũng có thể
khai thác thông tin từ một nguồn khác, đó là cơ quan thuế.
 Với những báo cáo tài chính, ngân hàng phải yêu cầu doanh nghiệp
cung cấp số liệu của ít nhất là 3 năm gần nhất. Hiện nay, các doanh nghiệp
thường chỉ bị yêu cầu cung cấp trong 2 năm, nhưng số liệu tại 2 năm không
thể nói lên được xu hướng phát triển (điều này mang ý nghĩa thống kê). Đặc

biệt, đối với các doanh nghiệp mới quan hệ hay có uy tín không cao, NH cần
kiểm toán các báo cáo này. Ngân hàng có thể thuê kiểm toán hoặc yêu cầu
doanh nghiệp có những xác nhận của kiểm toán vào những báo cáo quyết
toán trình ngân hàng.
 Các cán bộ tín dụng cần phải tham khảo các thông tin về chủ trương
chính sách của nhà nước, định hướng ưu tiên phát triển của địa phương nơi
dự án sản xuất hay kinh doanh, những quy định về vấn đề bảo vệ môi
trường, xử lí ô nhiễm… để đánh giá tính hợp lí, hợp pháp của dự án, đảm
bảo dự án không gặp phải những trắc trở về các vấn đề trên.
 Với những thông tin đã thu thập, xử lí, cần có hoạt động sắp xếp lưu
trữ hợp lí. Hợp tác chặt chẽ với trung tâm CIC, sẵn sàng cung cấp thông tin
cho họ để phục vụ các đơn vị khác. Từ mối quan hệ này, ngân hàng mới có
thể dễ dàng khai thác thông tin tại đây hoặc từ các ngân hàng khác. Xây
dựng quan hệ trao đổi thông tin với các ngân hàng trên địa bàn và trong hệ
thống
3.2.2. Hoàn thiện nội dung, quy trình của công tác thẩm định
Đánh giá khách hàng doanh nghiệp là vấn đề mà tất cả các NHTM luôn tìm
các biện pháp để hoàn thiện chứ không riêng đối với VPBank. Các phương pháp
kỹ thuật, chỉ tiêu, chỉ số định mức của công tác thẩm định thường xuyên thay đổi
theo sự phát triển của sản xuất kinh doanh, sự thay đổi của hệ thống quản lí tài
chính. Các ngân hàng nếu không có sự quan tâm đúng mức thì khó có thể cập nhật
những thay đổi này.
 Trong quá trình hoạt động, ngân hàng phải luôn bám sát các mục tiêu
phát triển kinh tế của đất nước, các ngành và địa phương: tốc độ tăng trưởng
chung, tốc độ tăng trưởng ngành, chính sách khuyến khích ngành nghề cụ
thể… để đưa ra các nhiệm vụ cụ thể nhằm định hướng mục tiêu cho công tác
thẩm định doanh nghiệp của ngân hàng phù hợp với từng thời kì.
 Hàng năm, VPBank cần tiến hành xây dựng hoàn thiện chương trình
hoạt động đối với công tác đánh giá doanh nghiệp của cả ngân hàng.
Chương trình hoạt động này sẽ bao gồm việc đánh giá những kết quả đạt

được, chỉ ra những vướng mắc, tồn tại và rút ra những bài học qua công tác
đánh giá doanh nghiệp của năm trước. Đồng thời chương trình vạch ra kế
hoạch đạt được để hoàn thiện hơn nữa công tác thẩm định trong hoạt động
tín dụng doanh nghiệp tại ngân hàng..
 Khi thẩm định doanh nghiệp, ngân hàng cần xử lí linh hoạt, sáng tạo
để khắc phục những hạn chế trong nội dung của công tác thẩm định.
 Đánh giá năng lực pháp lí: Các cán bộ tín dụng cần yêu cầu tất
cả các doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp có quan hệ tín dụng lâu dài với
ngân hàng, phải nộp đầy đủ giấy tờ chứng minh năng lực pháp lí để tránh rủi
ro không đáng có cho ngân hàng. Đặc biệt, các cán bộ tín dụng cũng cần
xem xét, kiểm tra một cách kỹ lưỡng các giấy tờ này có đầy đủ tính hợp
pháp, hợp lệ hay không. Nếu các doanh nghiệp cung cấp các giấy tờ này còn
thiếu thì cán bộ tín dụng phải yêu cầu các doanh nghiệp nhanh chóng hoàn
tất bộ hồ sơ pháp lí trước khi quyết định cho vay. Chỉ khi các ngân hàng xác
định được chắc chắn khả năng pháp lí của doanh nghiệp thì mới đảm bảo
khả năng chịu trách nhiệm trước pháp luật của doanh nghiệp đối với ngân
hàng.
 Về đánh giá khả năng tài chính của doanh nghiệp:
 Khi đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp vay vốn, phân
tích các chỉ số tài chính đóng vai trò quan trọng. Các hệ số tài chính cho thấy
tình hình hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc tính toán các
hệ số này chưa được thực hiện một cách thống nhất đối với tất cả các doanh
nghiệp vay vốn. Ngân hàng cần yêu cầu tất cả các cán bộ tín dụng tính toán
một số hệ số quan trọng: hệ số khả năng thanh toán, hệ số cơ cấu vốn, hệ số
phản ánh tình hình hoạt động và hệ số sinh lời để việc đánh giá doanh
nghiệp được khách quan và chính xác. Hiện nay VPBANKchưa có các chỉ
tiêu định mức để so sánh. Vì thế, ngân hàng nên cố gắng xây dựng định mức
cho một số chỉ tiêu quan trọng để làm cơ sở cho việc đánh giá. Đây là giải
pháp rất khó thực hiện, thường phải dựa vào kinh nghiệm của cán bộ tín
dụng giỏi, tuy nhiên nếu làm được thì sẽ đem lại lại lợi ích lớn. Ngoài ra,

Ngân hàng có thể tham khảo chỉ số định mức của các ngân hàng khác, các tổ
chức tài chính trong và ngoài nước để phục vụ việc xây dựng hệ thống chỉ số
này. Trên cơ sở các chỉ số định mức này, ngân hàng phải yêu cầu các cán bộ
tín dụng phải tính toán các hệ số tài chính chứ không chỉ liệt kê một số chỉ
tiêu tuyệt đối để đánh giá đúng khả năng tài chính của doanh nghiệp.
 Cán bộ tín dụng cần phải dựa vào sự biến động lên xuống của
các hệ số, chỉ tiêu để tìm nguyên nhân và đánh giá từng khoản mục tài chính
của doanh nghiệp chứ không phải chỉ là việc tính toán các hệ số đơn thuần
như hiện nay. Việc phân tích nguyên nhân này có ý nghĩa to lớn trong việc
đánh giá doanh nghiệp. Nếu một doanh nghiệp vì một lí do khách quan nào
đó mà có khoản mục tài chính chưa đạt tiêu chuẩn chung của ngân hàng thì
vẫn có thể xem xét cho vay. Nếu không phân tích cụ thể nguyên nhân thì có
thể ngân hàng sẽ bỏ lỡ cơ hội cho vay một doanh nghiệp có tình hình tài
chính tốt và sẽ cho doanh nghiệp có tài chính không thực sự tốt vay vốn, từ
đó sẽ làm giảm hiệu quả và làm tăng rủi ro tín dụng của ngân hàng.
 Phân tích điểm hoà vốn và phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ
là các bước đặc biệt cần thiết trong quá trình đánh giá doanh nghiệp. Ngân
hàng cần yêu cầu các cán bộ tín dụng thực hiện đầy đủ các bước này. Hiện
nay, việc phân tích chỉ được tiến hành đối với các doanh nghiệp có lập báo
cáo lưu chuyển tiền tệ mà thôi.
 Đánh giá năng lực kinh doanh: Rủi ro tín dụng mà ngân hàng
gặp phải có thể xuất phát từ năng lực kinh doanh, khả năng điều hành sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc đánh giá năng lực kinh doanh của
doanh nghiệp là khó khăn chung của các NHTM trong nền kinh tế thị
trường. Tuy nhiên không phải vì vậy mà ngân hàng được phép xem nhẹ và
bỏ qua việc đánh giá. Cán bộ tín dụng cần phải gặp gỡ từng người trong đội
ngũ cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp để xác định trình độ, khả năng nắm bắt cơ
hội, khả năng giao tiếp… của họ để đánh giá năng lực của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo. Song việc đánh giá năng lực kinh doanh của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo còn phụ thuộc vào kinh nghiệm của từng cán bộ tín dụng. Bên cạnh đó,

cán bộ tín dụng cũng phải đánh giá số lượng và chất lượng của đội ngũ công
nhân viên chức cũng như tình hình máy móc, công nghệ mà doanh nghiệp
đang sử dụng để có những đánh giá khái quát về tình hình của doanh nghiệp.
 Về đánh giá phương án, dự án vay vốn
 Khi đánh giá về phương án kinh doanh, dự án đầu tư, các cán
bộ tín dụng cần xem xét cụ thể về thị trường đầu vào và đầu ra về nguyên
vật liệu và sản phẩm cũng như tính ổn định của nó; tính cạnh tranh của sản
phẩm, dịch vụ tại thị trường trong nước, khu vực và quốc tế; tính tiên tiến,
hiện đại của dây chuyền thiết bị… chứ không chỉ dựa trên tài liệu của
phương án, dự án mà doanh nghiệp cung cấp để đưa ra được những kết luận
chính xác về sản phẩm hàng hoá.
 Các phương pháp có sử dụng giá trị thời gian của tiền sẽ phản
ánh xác thực hơn hiệu quả của dự án bởi nó đã tính đến chi phí cơ hội.
 Tính dòng tiền của dự án: VPBank cần yêu cầu chủ dự án xây
dựng bảng lưu chuyển tiền tệ của dự án. Trên cơ sở đó kiểm tra và đánh giá
các khoản thực thu, thực chi từ dự án để biết được có khi nào dự án vấp phải
khó khăn thanh toán, đồng thời biết được tính thực tế của kế hoạch trả nợ.
Thông qua phân tích bảng này, ngân hàng có thể giúp doanh nghiệp trong
việc điều chỉnh luồng tiền vào, ra cho hợp lí.
Ngân hàng cần tăng cường mối quan hệ với các chuyên gia kỹ thuật giỏi để
đánh giá kỹ thuật của dự án. Đánh giá về mặt kỹ thuật là những mảng mà ngân
hàng thường tỏ ra yếu kém bởi nó không phải là chuyên môn của cán bộ tín dụng.
Tạo lập mối quan hệ thường xuyên với các chuyên gia này có thể giúp cho ngân
hàng có được những đánh giá khách quan, chuẩn xác hơn về lĩnh vực mà mình
không thực sự nắm vững.
 Đánh giá tài sản thế chấp: Ngân hàng phải xác định được tính
hợp pháp giá trị hiện tại của tài sản thế chấp, cầm cố. Xem xét kế hoạch sử
dụng, khấu hao, đánh giá mức độ hao mòn vô hình để đảm bảo giá trị thực
của chúng cũng như giá trị, khả năng chuyển nhượng để khi cần thiết nó
thực sự là nguồn trả nợ phụ, là “cứu cánh” của ngân hàng. Tuy nhiên, không

thể coi giá trị tài sản thế chấp, cầm cố là cơ sở chủ yếu để quyết định cho
vay, mà chỉ nên coi chúng là một trong những biện pháp bảo đảm tiền vay,
phòng ngừa rủi ro. .
 Tăng cường kiểm tra sau giải ngân: Cần liên tục tiến hành kiểm tra sự
hoạt động của phương án, dự án, giám sát việc sử dụng vốn đầu tư, quá trình
sản xuất kinh doanh, tình hình sử dụng, bảo quản tài sản thế chấp. Có thể
định kì phân tích tình hình tài chính dự án để có những yêu cầu, giúp đỡ chủ

×