Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THẨM ĐỊNH TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÁC NHTM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.25 KB, 23 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THẨM ĐỊNH TRONG HOẠT ĐỘNG
TÍN DỤNG CỦA CÁC NHTM
1.1. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NHTM TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG
1.1.1. Khái niệm tín dụng doanh nghiệp
Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho
vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh
nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho
bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay
có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến
hạn thanh toán. Như vậy, bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản
trên cơ sở có hoàn trả.
Trên cơ sở tiếp cận theo chức năng hoạt động của ngân hàng thì: “Tín
dụng doanh nghiệp là một giao dịch về tài sản giữa ngân hàng và doanh
nghiệp, trong đó ngân hàng sẽ chuyển giao vốn cho doanh nghiệp sử dụng
trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, doanh nghiệp có trách nhiệm
hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho ngân hàng khi đến hạn thanh toán”.
Một số chuyên gia trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng phát biểu bằng một khái
niệm ngắn gọn hơn: “Tín dụng doanh nghiệp là quan hệ giao dịch giữa ngân
hàng và doanh nghiệp, trong đó ngân hàng chuyển giao vốn bằng tiền cho
doanh nghiệp sử dụng với sự tin tưởng rằng doanh nghiệp sẽ thực hiện nghĩa vụ
hoàn trả khi hết thời hạn thoả thuận”.
Dựa theo nhu cầu cần tài trợ vốn của doanh nghiệp, ngân hàng phân tín
dụng theo tiêu thức thời hạn của khoản vay thành hai nhóm: tín dụng ngắn
hạn và tín dụng trung và dài hạn.
1.1.2. Hoạt động kinh doanh tín dụng của NHTM
Tín dụng là hoạt động cơ bản mang tính truyền thống của các NHTM.
Bản thân hoạt động tín dụng mang lại lợi nhuận cao song đây cũng là hoạt
động chứa đựng nhiều rủi ro tiềm tàng nhất trong toàn bộ các dịch vụ của
ngân hàng đặc biệt là tín dụng đối với doanh nghiệp. Rủi ro tín dụng là rủi ro
về sự tổn thất tài chính xuất phát từ việc doanh nghiệp không thực hiện nghĩa
vụ trả nợ đúng hạn theo cam kết hoặc do doanh nghiệp mất khả năng thanh


toán. Có rất nhiều nguyên nhân gây nên việc không trả nợ đúng hạn như: sự
phân tích tín dụng không chính xác về một khoản vay, hoặc ý chí và khả năng
trả nợ của doanh nghiệp có thể thay đổi sau khi khoản vay đã thực hiện, hoặc
do một số khoản vay có những rủi ro phát sinh ngay trong quá trình cho vay,
do khả năng thẩm định yếu kém từ phía ngân hàng hoặc đưa ra quyết định cho
vay vội vã.
Các NHTM luôn tìm lợi nhuận tối đa thông qua việc tìm kiếm các lợi
tức cao nhất có thể có ở các món cho vay, đồng thời cố gắng giảm thiểu rủi ro
liên quan đến các món cho vay đó, như: sàng lọc và giám sát khách hàng vay,
thiết lập mối quan hệ khách hàng lâu dài, quy định các hạn mức tín dụng, yêu
cầu có tài sản thế chấp, quy định số dư bù trên tài khoản và các hạn chế tín
dụng đối với doanh nghiệp. Mặc dù các ngân hàng đã áp dụng các biện pháp
để hạn chế rủi ro tín dụng song không một ngân hàng nào có thể lường hết
được mọi sự bất ngờ có thể dẫn đến việc doanh nghiệp không trả đầy đủ và
đúng hạn các khoản vay. Trong mọi biện pháp để ngăn ngừa rủi ro tín dụng
thì công tác đánh giá doanh nghiệp vẫn là biện pháp mang tính hiệu quả cao.
Bởi nó không những cho thấy tình hình hoạt động thực tế của doanh nghiệp,
tính khả thi trong việc sử dụng tiền vay của doanh nghiệp mà còn cho thấy
nguồn trả nợ và những vấn đề liên quan trực tiếp đến thiện chí trả nợ của
doanh nghiệp trong việc hoàn trả nợ vay. Chính vì lẽ đó, công tác thẩm định
trong hoạt động tín dụng doanh nghiệp luôn được các NHTM coi trọng.
1.2. VAI TRÒ CỦA CÔNG TÁC ĐÁNH GIÁ KHÁCH HÀNG TRONG HOẠT
ĐỘNG TÍN DỤNG
Đánh giá khách hàng doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng là quá
trình ngân hàng tìm hiểu thông tin để phân tích khả năng hiện tại và tiềm tàng
của doanh nghiệp về sử dụng vốn tín dụng cũng như khả năng hoàn trả vốn
vay ngân hàng. Trong quá trình này, ngân hàng với những lí lẽ khoa học dựa
trên cơ sở nghiên cứu cẩn trọng các mặt mạnh và yếu của doanh nghiệp để
đánh giá một cách khách quan về doanh nghiệp. Vì vậy thẩm định doanh
nghiệp vừa có vai trò giúp ngân hàng có những biện pháp thích hợp để hạn

chế rủi ro trong quá trình cho vay đồng thời đây còn là cơ sở để ngân hàng ra
các quyết định tín dụng.
Mặt khác, thẩm định giúp ngân hàng kiểm tra tính chính xác của các
thông tin do khách hàng cung cấp từ đó có nhận định đúng về thái độ của ngân
hàng. Cụ thể hơn, công tác thẩm định giúp ngân hàng biết được doanh nghiệp có
đầy đủ năng lực pháp lí theo quy định của pháp luật hay không, có sức mạnh tài
chính đến đâu, năng lực kinh doanh và điều kiện kinh doanh như thế nào,
phương án xin vay vốn có khả thi hay không và cuối cùng là các bảo đảm tín
dụng của doanh nghiệp có thể là nguồn trả nợ thứ hai chắc chắn cho ngân hàng?
Từ việc đánh giá các yếu tố liên quan đến việc hoàn trả món vay, ngân hàng sẽ
xem xét món vay đó có phải có chất lượng tốt không và sẽ đưa ra quyết định có
cấp khoản tín dụng cho khách hàng không?
Vai trò to lớn nữa của công tác thẩm định trong hoạt động tín dụng là
nó cho thấy những lợi ích mà doanh nghiệp và ngân hàng có được trong việc
thiết lập mối quan hệ tín dụng giữa hai bên. Ngân hàng có thể cung ứng dịch
vụ của mình cho khách hàng nhằm thu được lợi nhuận, còn doanh nghiệp thì
sử dụng vốn của ngân hàng để tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của
mình theo đúng tiến độ. Lợi ích của hai bên đạt được là những lợi ích về tài
chính và về uy tín, do đó nó sẽ ngày càng đem lại sức mạnh và lợi thế trong
quá trình phát triển của cả doanh nghiệp lẫn ngân hàng.
Vì thế có thể thấy rằng vai trò của công tác thẩm định doanh nghiệp
trong hoạt động tín dụng là hết sức cần thiết và cực kì quan trọng.
1.3. NGUỒN THÔNG TIN CƠ SỞ CHO CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH
Nguồn thông tin để thẩm định trong hoạt động tín dụng doanh nghiệp
gồm hai loại là thông tin từ phía doanh nghiệp cung cấp và thông tin khác do
ngân hàng lưu trữ hoặc tự tìm kiếm.
 Thông tin do doanh nghiệp cung cấp chính là bộ hồ sơ vay vốn doanh nghiệp
gửi đến ngân hàng. Tuỳ theo từng hệ thống ngân hàng, các ngân hàng sẽ thực
hiện theo các văn bản hướng dẫn doanh nghiệp về các tài liệu doanh nghiệp
cần gửi cho ngân hàng phù hợp với đặc điểm cụ thể của từng loại doanh

nghiệp, loại cho vay và khoản vay. Thông thường, các NHTM đều yêu cầu
doanh nghiệp khi đến ngân hàng vay vốn phải nộp các bộ hồ sơ pháp lí, hồ sơ
kinh tế và hồ sơ vay vốn theo quy định của ngân hàng.
 Các nguồn thông tin khác của ngân hàng bao gồm:
 Thông tin do ngân hàng lưu trữ: Đây là các thông tin mà ngân hàng có được
trong quá trình hoạt động, trong quá trình cung cấp các dịch vụ ngân hàng.
Đây là nguồn thông tin vô cùng quan trọng và đáng tin cậy để ngân hàng sử
dụng trong quá trình phân tích, đánh giá doanh nghiệp vì nó là những thông
tin mang tính lịch sử về mối quan hệ trước đây giữa doanh nghiệp và ngân
hàng, đồng thời đây cũng là cơ sở để ngân hàng so sánh với các doanh nghiệp
khác hoạt động trên cùng lĩnh vực kinh doanh.
 Thông tin từ các cuộc phỏng vấn chủ doanh nghiệp, điều tra trực tiếp tại
doanh nghiệp. Mục đích chính của phỏng vấn là thu thập và kiểm tra thông
tin. Người được ngân hàng quan tâm phỏng vấn đầu tiên là chủ doanh nghiệp
và người điều hành, sau đó là những thành viên hoặc những người có quan hệ
với doanh nghiệp. Các thông tin này để bổ sung cho các thông tin về doanh
nghiệp và để ngân hàng kiểm tra tính chính xác và đầy đủ của các thông tin.
 Thông tin từ bên ngoài: là các thông tin ngân hàng có được từ các tổ chức
chuyên cung cấp thông tin, từ các phương tiện thông đại chúng, từ các ấn
phẩm của các cơ quan Chính phủ, thông tin từ các văn bản pháp quy, từ các
ngân hàng khác, từ bạn hàng của doanh nghiệp vay vốn hoặc thậm chí là
thông tin từ các chủ thể thường xuyên có quan hệ giao dịch với ngân hàng.
1.4. NỘI DUNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DOANH NGHIỆP
Hiện nay tất cả các NHTM đều thực hiện cho vay đối với tất cả các
thành phần kinh tế mà Nhà nước công nhận: Nhà nước, tập thể, tư bản nhà
nước, tư bản tư nhân, tư nhân, nước ngoài. Trong hoạt động tín dụng doanh
nghiệp, các NHTM có mối quan hệ tín dụng với các loại hình doanh nghiệp:
DNNN, doanh nghiệp tư nhân, công ti cổ phần, công ti TNHH, công ti hợp
danh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Khi đánh giá doanh nghiệp để
quyết định cho vay, các NHTM đều đánh giá những nội dung sau:

1.4.1. Đánh giá năng lực pháp lý của doanh nghiệp
Năng lực pháp lí là cơ sở pháp lí cho mọi hoạt động của doanh nghiệp,
là khả năng chịu trách nhiệm trước pháp luật của doanh nghiệp về nghĩa vụ
phải thực hiện. Đối với doanh nghiệp đi vay, năng lực pháp lí của doanh
nghiệp chính là khả năng chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện
đúng hợp đồng đã ký kết và nghĩa vụ trả nợ đối với ngân hàng. Năng lực pháp
lí của doanh nghiệp thể hiện ở tư cách pháp nhân, nghĩa là:
 Doanh nghiệp phải được thành lập hoặc được công nhận thành
lập bởi các cơ quan quản lí Nhà nước có thẩm quyền. Đối với doanh
nghiệp cấp trung ương thì phải do các bộ trưởng hoặc chính phủ ra
quyết định, còn đối với doanh nghiệp cấp địa phương phải do Chủ tịch
uỷ ban nhân dân tỉnh hoặc người được uỷ quyền ra quyết định.
 Doanh nghiệp phải có tài sản riêng thuộc quyền quản lí hoặc sở
hữu của chính doanh nghiệp và doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm độc
lập về tài sản đó.
 Doanh nghiệp phải có một cơ cấu tổ chức chặt chẽ, hợp lí, có
quyền tự quyết trong hoạt động như đã đăng ký với Nhà nước.
 Doanh nghiệp phải có con dấu riêng, trụ sở và đăng ký trụ sở với
chính quyền địa phương ở địa bàn đó.
 Doanh nghiệp phải có tên riêng và nhân danh mình tham gia các
hoạt động theo quy định của pháp luật.
Để đánh giá năng lực pháp lí của một doanh nghiệp, ngân hàng cần
kiểm tra, xem xét các giấy tờ của doanh nghiệp như: Quyết định thành lập
hoặc giấy phép đăng ký kinh doanh, quyết định bổ nhiệm giám đốc, kế toán
trưởng, điều lệ tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp, giấy phép hành nghề
đối với ngành nghề bắt buộc… Nếu doanh nghiệp không có đầy đủ hồ sơ
pháp lí thì những hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thực hiện
đều không được Nhà nước chấp nhận và các văn bản của doanh nghiệp ký kết
sẽ vô hiệu. Nếu thực sự doanh nghiệp không chứng minh được năng lực pháp
lí của mình qua bộ hồ sơ pháp lí thì ngân hàng nên từ chối cho vay để thực

hiện đúng pháp luật và đảm bảo lợi ích của chính bản thân ngân hàng.
1.4.2. Đánh giá tư cách, uy tín của doanh nghiệp
Đánh giá tư cách và uy tín của doanh nghiệp đi vay là một bước quan
trọng của công tác thẩm định. Hầu hết các ngân hàng thường gặp khó khăn
trong việc đánh giá tư cách, uy tín của doanh nghiệp đặc biệt là các doanh
nghiệp có quan hệ với ngân hàng lần đầu, và càng khó khăn hơn cho ngân
hàng trong việc đánh giá những doanh nghiệp có ý định lừa đảo. Vì thế, tư
cách và uy tín của doanh nghiệp vay vốn cần phải được ngân hàng đánh giá
một cách đúng mức dựa trên những thông tin về doanh nghiệp, kỹ năng và kinh
nghiệm của cán bộ tín dụng.
Tư cách thể hiện ở ý thức trách nhiệm trả nợ vay của doanh nghiệp.
Nếu chủ doanh nghiệp có phẩm chất đạo đức tốt thì ý thức trả nợ vay của
doanh nghiệp là đảm bảo và ngược lại. Khi xem xét tư cách của doanh
nghiệp, ngân hàng thường đánh giá những vấn đề sau:
 Tìm hiểu xem các thông tin doanh nghiệp trình bày có gì không nhất quán về
với những thông tin trong bộ hồ sơ mà doanh nghiệp đã cung cấp: về mục
đích vay vốn, tài sản đảm bảo, về phương án và dự án xin vay, các vấn đề liên
quan đến tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
 Những thông tin trong quá khứ của doanh nghiệp có tốt không? Những thông
tin này thể hiện quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong
những năm trước và những thông tin về những lần vay nợ trước như thế nào?
Các hoạt động trong quá khứ của doanh nghiệp chính là tiểu sử cho thấy cách
thức kinh doanh, phẩm chất đạo đức và văn hoá trong kinh doanh của doanh
nghiệp, từ đó phản ánh chính xác tư cách cũng như uy tín của doanh nghiệp.
Đây chính là cơ sở quan trọng cho các cán bộ tín dụng làm công tác đánh giá
doanh nghiệp.
 Những lí lẽ mà doanh nghiệp thuyết phục ngân hàng để vay vốn có quá cường
điệu và phi lí không trong điều kiện hiện tại? Ngân hàng cần phải so sánh
thực tế với những vấn đề mà khách hàng trình bày. Nếu quả thực doanh
nghiệp đã phóng đại những khả năng hiện có của mình và biến những điều bất

lợi thành những tiềm năng to lớn và cơ hội mang tính khả thi cao thì chứng tỏ
tư cách của doanh nghiệp không tốt và ngân hàng càng phải chú ý xem xét kỹ
hơn.
Uy tín của doanh nghiệp thể hiện ở lòng tin của các chủ thể kinh tế có
quan hệ với doanh nghiệp trong kinh doanh: các bạn hàng, các tổ chức tài
chính và các cơ quan nhà nước. Khi đánh giá uy tín của doanh nghiệp, ngân
hàng phải xem xét mối quan hệ của doanh nghiệp với bạn hàng: các hợp đồng
mua bán có được thực hiện theo đúng hợp đồng hay không, việc mua bán chịu
của doanh nghiệp như thế nào… Ngân hàng xem tình hình doanh nghiệp thực
hiện nghĩa vụ thuế ra sao và quan hệ vay nợ các tổ chức tín dụng, có vay trả
sòng phẳng không?
Ngoài ra, đối với những doanh nghiệp lần đầu tiên quan hệ với ngân
hàng thì điều ngân hàng cần hết sức chú ý là phải tìm hiểu rõ xem tại sao
doanh nghiệp lại tìm đến ngân hàng mình. Liệu đây có phải là doanh nghiệp
đã bị các ngân hàng khác từ chối vì thiếu tư cách, uy tín trong quan hệ kinh doanh?
Tóm lại, để đánh giá tư cách và uy tín của doanh nghiệp đi vay, ngân
hàng phải nghiên cứu kỹ hồ sơ của doanh nghiệp mang đến xin vay, tìm hiểu
các thông tin khác từ bên ngoài và các mối quan hệ của doanh nghiệp, đồng
thời trực tiếp gặp gỡ doanh nghiệp để có những đánh giá và nhận định thực tế.
1.4.3. Đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp
 Phân tích các hệ số tài chính : Các hệ số tài chính được chia thành các nhóm:
 Nhóm các hệ số thanh toán (còn gọi là các hệ số thanh khoản): Các hệ số thanh toán
dùng để đo lường khả năng doanh nghiệp có thể trả các khoản nợ bằng tiền hay khả
năng chuyển đổi các tài sản của doanh nghiệp thành tiền.
 Hệ số thanh toán nợ ngắn hạn:
Hệ số này cho thấy doanh nghiệp có đủ tài sản lưu động và các khoản
đầu tư ngắn hạn có thể chuyển đổi thành tiền trong thời hạn ngắn để thanh
toán nợ ngắn hạn hay không. Có thể thấy, để đảm bảo cho việc thanh toán nợ
được thuận lợi, hệ số này phải lớn hơn 1. Nhược điểm của hệ số này là không
cho thấy khả năng thanh toán nợ thực tế của doanh nghiệp khi so sánh hai

doanh nghiệp có cùng một hệ số thanh toán. Để khắc phục nhược điểm này,
ngân hàng phải phân tích nó kết hợp với một chỉ tiêu phân tích là chỉ tiêu vốn
lưu động thuần:
Vốn lưu động thuần = TSLĐ và đầu tư ngắn hạn - Nợ ngắn hạn
Như vậy, nếu hai doanh nghiệp cùng loại, hoạt động trên cùng một
ngành nghề kinh doanh và có cùng một hệ số thanh toán nợ ngắn hạn thì
doanh nghiệp nào có vốn lưu động thuần lớn hơn sẽ có khả năng thanh toán
nợ tốt hơn.

 Hệ số khả năng thanh toán nhanh và khả năng thanh toán tức thời:
Hệ số thanh toán n ngắn hạn =
TSL
Đ
v
à
đầu t
ư
ngắn hạn
N

quá hạn
Hệ số thanh toán nhanh =
Tiề
n
+ ĐTT
C
ngắn hạn + Cá
c
kho


n ph

i thu
N

ngắn hạn
vn
ngun
Tng
tr
i
ph

N
= n
s

H
n
s

H
- 1 =
vn
ngun
Tng
u h
s

ch


vnNgun
=
tr

ti

tsut

T
Thụng thng, cỏc ngõn hng tớnh toỏn v thy rng i vi cỏc doanh
nghip cú chu kỡ kinh doanh ngn thỡ ch tiờu ny cú th bng hoc nh hn 1
(khong 0,7 l tt), cũn i vi cỏc doanh nghip cú chu kỡ kinh doanh di thỡ
ch tiờu ny bng 1 l lớ tng.
Kh nng tr n ca doanh nghip (kh nng thanh toỏn n di hn).
T l ny phn ỏnh (tng i) quy mụ ca khon n di hn so vi
ngun vn ch s hu. T s ny cng cao thỡ kh nng tr n cng thp v
ngc li. Theo kinh nghim ca mt s ngõn hng thỡ t l khụng c vt quỏ 1.

trả iphả Lãi
trả iphả Lãi + thuế trước nhuậnLợi
= vaytiền lãi toán thanh Khả năng
H s
thanh toỏn lói tin vay (hay cũn gi l kh nng tr lói): dựng o lng
mc an ton ca thu nhp cú th tr lói cho cỏc ch n.
Ch tiờu lớ tng c nhiu ngõn hng ỏp dng ú l kh nng thanh
toỏn lói tin vay phi ln hn hoc ớt nht phi bng 2, cú nh vy thỡ kh
nng thanh toỏn lói ca doanh nghip cho ngõn hng mi c m bo.
Nhúm cỏc h s v c cu vn (cũn gi l c cu ti chớnh): Ngõn hng
c bit quan tõm n h s n bi h s ny cho bit cú bao nhiờu phn trm

ngun vn ca doanh nghip c huy ng t bờn ngoi.
H s thanh toỏn
n
tc thi
=

Tin +
Cỏc
khon
ti
chớnh ngn hn
N ngn
h
n
u
K
h
nng thanh toỏn n di hn =
N

di hn
Ngu
n
v
n
ch s

h
Một doanh nghiệp có cơ cấu vốn an toàn khi hệ số nợ bằng 0,5 (tức
50% tổng tài sản) vì nó cho thấy có ít nhất một nửa tài sản của doanh nghiệp

được hình thành bằng nguồn vốn chủ sở hữu. Trong thực tế, có rất nhiều các
doanh nghiệp có hệ số này lớn, thậm chí có trường hợp lên tới 80% - 90%.
Điều này cho thấy doanh nghiệp hoạt động chủ yếu bằng vốn đi vay. Chính vì
vậy, ngân hàng cần hết sức thận trọng trong khi cho vay đối với những doanh
nghiệp này.
Một hệ số nợ hợp lí đối với các doanh nghiệp đi vay là 0,5. Tuy nhiên,
nó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như: quy mô của doanh nghiệp, thâm
niên của doanh nghiệp, cơ cấu của tài sản và chất lượng của tài sản, sự ổn
định về mặt tài chính, tính thận trọng hay mạo hiểm của doanh nghiệp...
 Nhóm các hệ số tỉ lệ hoạt động: cho thấy mức sử dụng các loại tài sản khác
nhau để đạt một mức doanh thu nhất định. Các chỉ tiêu này cho thấy tính hiệu quả
trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đối với từng loại tài sản.
 Hệ số quay vòng hàng tồn kho:
Hệ số này đo lường số lần vốn đầu tư vào hàng tồn kho trong một kì
tính toán, nó cho thấy hiệu quả của việc doanh nghiệp quản lí hàng tồn kho.
Nếu hệ số này ở mức thấp (hoặc đang giảm) thì doanh nghiệp đang trong tình
trạng ứ đọng vốn, ảnh hưởng đến việc sử dụng vốn của doanh nghiệp. Nếu hệ
số này ở mức cao (hoặc đang tăng) thì có thể là doanh nghiệp đã dự trữ một
mức hàng tồn kho quá ít, không đủ hàng hoá cho hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, hoặc không đủ hàng hoá để cung cấp cho khách hàng, gây nên
mất khách hàng. Tuy nhiên, trong trường hợp giá vốn hàng bán cao do đầu
vào cao, doanh nghiệp vẫn dự trữ đủ hàng tồn kho thì hệ số này ở mức cao là
hoàn toàn hợp lí.
 Hệ số vòng quay các khoản phải thu:
Hệ số quay vòng của các khoản phải thu được dùng để đánh giá hiệu
quả của việc kiểm soát các khoản phải thu và quy mô các khoản phải thu của
b
Hệ số vòn
g
quay hàng tồn kh

o
=
Gi
á
vố
n
hàng bán
Hàng tồn kh
o

quâ n nhì
nhì
Hệ số quay vòn
g
các kho

n ph

i thu =
Doan
h
thu thuần

c
kho

n ph

i thu b
quân

×