Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DNVVN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.37 KB, 24 trang )

HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DNVVN CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1. TỔNG QUAN VỀ DNVVN.
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1. Tiêu chí phân loại DNVVN
Nói đến DNVVN là nói đến phân loại doanh nghiệp dựa trên độ lớn hay quy
mô các doanh nghiệp. Việc phân loại DNVVN phụ thuộc vào loại tiêu thức sử
dụng quy định, giới hạn các tiêu thức phân loại quy mô doanh nghiệp.Tuy nhiên,
không có tiêu thức thống nhất để phân loại DNVVN cho tất cả các nước vì điều
kiện kinh tế-xã hội mỗi nước khác nhau và ngay trong một nước, sự phân loại cũng
khác nhau tùy theo từng thời kỳ, từng ngành nghề, từng vùng lãnh thổ.
Việc xác định DNVVN của mỗi nước thường được cân nhắc đối với từng giai
đọan phát triển kinh tế, tình hình việc làm nói chung của cả nước và tính chất nền
kinh tế hiện hành của nước đó. Như vậy, xác định DNVVN không có tính cố định
mà có xu hướng thay đổi theo tính chất họat động, mục đích của việc xác định và
trình độ phát triển của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, ở các nước vẫn có một số tiêu thức phân loại chung như:
- Số lao động thường xuyên
- Vốn sản xuất
- Doanh thu
- Lợi nhuận
- Giá trị gia tăng..
Tiêu thức về số lao động và vốn phản ánh quy mô theo các yếu tố đầu vào, còn
tiêu thức doanh thu, lợi nhuận và giá trị gia tăng lại đánh giá quy mô theo hiệu quả
đầu ra. Mỗi tiêu thức có những mặt tích cực và ưu thế riêng. Như vậy, để phân loại
DNVVN có thể dùng các yếu tố đầu vào hoặc các yếu tố đầu ra của doanh nghiệp
hoặc là sự kết hợp của cả hai yếu tố đó.
Để tiện cho việc so sánh quốc tế, một khái niệm về DNVVN dựa trên tiêu thức
lao động được sử dụng có thể là thích hợp nhất, bởi vì nó không dễ dàng chịu ảnh
hưởng của những khác biệt các quốc gia về mức thu nhập cũng như những thay đổi
trong giá trị của đồng tiền nội địa hiện hành qua các thời kỳ khác nhau. Ngoài tiêu


thức lao động, tiêu thức tổng vốn đầu tư cũng được nhiều nước sử dụng.
1.1.1.2. Khái niệm về DNVVN theo quy định ở VN
Từ những phân tích khái niệm chung về DNVVN, các tiêu thức và giới hạn
tiêu chuẩn các tiêu thức được sử dụng trong phân loại DNVVN trên thế giới kết
hợp với điều kiện cụ thể và những đặc điểm riêng biệt về quan điểm phát triển kinh
tế nhiều thành phần và các chính sách, quy định phát triển kinh tế của nước ta.
Chúng ta có thể nêu lên được rõ khái niệm như sau:
DNVVN ở Việt Nam là những cơ sở sản xuất- kinh doanh có tư cách pháp nhân,
không phân biệt thành phần kinh tế, có quy mô về vốn hoặc lao động thỏa mãn các
quy định của chính phủ đối với từng ngành nghề tương ứng với từng thời kỳ phát
triển của nền kinh tế.
Theo Nghị định số 90/2001/NĐ-CP của chính phủ ngày 23/11/2001 thì
DNVVN là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ
đồng hoặc số lao động trung bính hàng năm không quá 300 người. Nghị định quy
định đối tượng áp dụng bao gồm:
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp nhà nước.
- Các hợp tác xã thành lập và họat động theo Luật Hợp tác xã.
- Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 03
tháng 02 năm 2000 của chính phủ về đăng ký kinh doanh.
1.1.2. Vai trò
Xét trên phạm vi toàn cầu hiện nay, tính chất cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
đang chuyển từ cạnh tranh về giá sang cạnh tranh về chất lượng và công nghệ. Vì
thế, lợi thế của các doanh nghiệp có quy mô lớn bị giảm sút. Trong điều kiện như
vậy, sự phát triển của chuyên môn hóa và hợp tác hóa đã không cho phép một
doanh nghiệp tự khép kín chu trình sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả mà
thay vào đó là các DNVVN là vệ tinh của doanh nghiệp lớn tỏ ra rất thích hợp.
Như vậy trong điều kiện một nền kinh tế phát triển thì các DNVVN cũng
không thể tan biến trong các tập đoàn kinh tế lớn mà khả năng hợp tác giữa các
doanh nghiệp này trong nền kinh tế càng trở nên chặt chẽ. Vai trò của DNVVN lại

càng được thể hiện rõ nét hơn trong điều kiện các nước đang phát triển như Việt
Nam. Điều đó được thể hiện trên những nét cơ bản :
 Các DNVVN cung cấp một lượng sản phẩm hàng hóa dịch vụ đáng kể cho
nền kinh tế.
Các DNVVN của Việt Nam hiện nay chiếm khoảng 90% tổng số hơn
230.000 doanh nghiệp trên toàn quốc. Tỷ trọng GDP cung cấp cho nền kinh tế của
các DNVVN có xu hướng ngày càng gia tăng. Nếu năm 1999 tỷ trọng GDP của
các DNVVN chỉ chiếm 8,01%, năm 2002 chiếm 9,02%, đến năm 2004 tỷ lệ này
khoảng 24-25,5% và năm 2006 tỷ trọng đóng góp khoảng 26% GDP.
 DNVVN trong nền kinh tế góp phần tạo việc làm và thu nhập cho người lao
động.
Hàng năm nước ta có khoảng hơn 1triệu người đến tuổi lao động nhưng khả
năng thu hút lao động của các doanh nghiệp nhà nước lớn ngày càng hạn chế.
Thêm vào đó, trong tiến trình đổi mới và cải tạo doanh nghiệp nhà nước đã khiến
cho nhiều người lao động bị mất việc. Trong điều kiện như vậy, các DNVVN đặc
biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã có vai trò quan trọng trong việc thu
hút lao động.
Năm 2002, cả nước tạo ra được 1,42 triệu việc làm mới thì thành phần kinh tế
ngoài quốc doanh thu hút được 79,1% tổng số chỗ làm việc.Hàng năm khu vực
doanh nghiệp này thu hút hàng chục vạn lao động, góp phần giải quyết các vấn đề
xã hội của đất nước.Theo số liệu ước tính năm 2006 khu vực DNVVN tạo ra
khoảng 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn và chiếm từ 25-26% lực lượng
lao động trong cả nước.
Tuy nhiên, do khu vực sản xuất nông nghiệp ở nông thôn vẫn chiếm một tỉ trọng
lớn trong toàn bộ nền kinh tế nên xét trên tổng thể thì tổng số lao động trong các
DNVVN chiếm tỉ trọng chưa cao trong tổng số lao động xã hội hiện nay.
 Các DNVVN thu hút vốn đầu tư trong nền kinh tế.
Trong năm 2002, trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đã có 7.600 doanh
nghiệp được thành lập mới vơi số vốn đăng ký trên 12.550 tỷ đồng, tăng 11% về số
lượng doanh nghiệp và 16% về số vốn so với năm 2001, trong đó doanh nghiệp tư

nhân là 1.760 doanh nghiệp với số vốn đăng ký là 915 tỷ đồng; 5.200 công ty trách
nhiệm hữu hạn và vốn đăng ký trên 7.600 tỷ đồng; 604 công ty cổ phần với số vốn
đăng ký trên 4.000 tỷ đồng. Tình hình trên cho thấy, DNVVN đã thu hút được khá
nhiều khoản tiết kiệm trong dân cư. Chỉ tính riêng năm 2002, đầu tư khu vực kinh
tế ngoài quốc doanh đạt 28,8% tổng số vốn đầu tư của toàn xã hội;
Tính đến thời điểm 31tháng12năm 2004 số doanh nghiệp thực tế hoạt động
sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế là 91.755 doanh nghiệp, trong
đó, nếu xét tiêu chí lao động thì có 88.233 DNVVN, nếu xét tiêu chí vốn thì có
79.420 doanh nghiệp.
Tính đến tháng 6/2005 cả nước đã có trên 125 nghìn doanh nghiệp thành
lập mới với tổng số vốn đăng ký hơn 240 nghìn tỷ đồng, đưa tổng số doanh nghiệp
trong cả nước lên gần 190 với số vốn đăng ký trên 398nghìn tỷ đồng. Riêng Hà
Nội và thành phố Hồ Chí Minh đã chiếm tới 52% số doanh nghiệp thành lập mới
với 50% tổng số vốn đăng ký so với cả nước.
 Hoạt động của các DNVVN góp phần làm cho nền kinh tế năng động, đạt
hiệu quả kinh tế cao.
Với quy mô vốn và lao động không lớn, các DNVVN dễ dàng được thành
lập, chuyển đổi mặt hàng sản xuất kinh doanh. Điều đó cho thấy, các DNVVN
đóng vai trò quan trọng trong lưu thông hàng hóa và cung cấp hàng hóa, dịch vụ bổ
sung cho các doanh nghiệp lớn, là những vệ tinh, những xí nghiệp gia công cho
những doanh nghiệp lớn cùng hệ thống đồng thời là mạng lưới tiêu thụ hàng hóa
cho doanh nghiệp lớn. Hiện nay DNVVN chiếm khoảng 31% tổng sản lượng công
nghiệp hàng năm, 78%doanh số bán lẻ trong thương nghiệp, 64% khối lượng vận
chuyển hành khách và hàng hóa.
Các DNVVN đáp ứng tích cực, kịp thời nhu cầu tiêu dùng ngày càng phong
phú và đa dạng mà các doanh nghiệp lớn không thể làm được.
 Các DNVVN có vai trò tích cực đối với sự phát triển kinh tế địa phương,
khai thác tiềm năng thế mạnh của từng vùng.
Phát triển các DNVVN sẽ giúp các địa phương khai thác các thế mạnh về đất
đai, tài nguyên, lao động trong mọi lĩnh vực phục vụ phát triển kinh tế địa phương.

Đó cũng là lý do cơ bản để Đảng và nhà nước ta đưa ra chính sách hỗ trợ phát triển
các DNVVNcũng như kinh tế trang trại và phát triển các ngành nghề truyền thống
ở các vùng nông thôn nước ta.
 Các DNVVN tạo được mối liên kết chặt chẽ với các tổng công ty nhà nước,
các tập đoàn xuyên quốc gia…
Mặc dù trong thời gian qua, mối quan hệ này mới chỉ được xác lập bước đầu
qua việc cung ứng nguyên vật liệu, hợp đồng phụ và thành lập mạng lưới vệ tinh
phân phối sản phẩm, song đây là một hướng phát triển mới hết sức quan trọng để
thúc đẩy nhanh sự phát triển của các DNVVN nói riêng và sự phát triển chung của
nền kinh tế.
Như vậy, từ việc khẳng định vị trí và vai trò của DNVVN thì ta thầy việc
phát triển DNVVN ở nước ta là một trong những chiến lược quan trọng trong quá
trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Đặc biệt trong quá trình hội nhập
hiện nay việc hỗ trợ tín dụng cho các DNVVN là điều rất cấp bách.
1.1.3. Lợi thế và khó khăn của DNVVN
1.1.3.1. Lợi thế
DNVVN có những lợi thế rõ ràng, đó là khả năng thỏa mãn nhu cầu có hạn
trong những thị trường chuyên môn hóa, khuynh hướng sử dụng nhiều lao động
với trình độ kỹ thuật trung bình thấp, đặc biệt là sự mềm mại và nhanh chóng thích
nghi với nhu cầu và thay đổi của nền kinh tế thị trường, DNVVN có thể bước vào
các thị trường mới mà không thu hút sự chú ý của các DN lớn, và sẵn sàng phục vụ
những nơi xa xôi nhất hoặc các khoảng trống vừa và nhỏ của thị trường vì
markerting khối lượng lớn thường là mối quan tâm của các doanh nghiệp lớn.
DNVVN là loại hình sản xuất lấy quyền sở hữu phân tán thay cho địa điểm sản
xuất tập trung, tổ chức bộ máy chỉ đạo gọn nhẹ, do vậy nó có nhiều điểm mạnh. Nó
được thể hiện cụ thể như sau:
 Dễ dàng khởi sự và năng động nhạy bén với thị trường
DNVVN chỉ cần một số vốn hạn chế, một mặt bằng nhỏ hẹp đã có thể khởi
sự doanh nghiệp. Vòng quay sản phẩm nhanh do đó có thể sử dụng vốn tự có, hoặc
vay bạn bè, người thân dễ dàng, tổ chức quản lý gọn nhẹ dễ quyết định, khi nhu

cầu thị trường thay đổi hoặc doanh nghiệp khó khăn thì dễ dàng thay đổi tình thế,
nội bộ dễ thống nhất.
 Dễ phát huy bản chất hợp tác
DNVVN thường chỉ tiến hành một hoặc một vài công đoạn trong quá trình
sản xuất một sản phẩm hoàn chỉnh, mà các công đoạn sản xuất phải kết hợp với
nhau để hoàn thành một sản phẩm hoàn chỉnh đưa ra tiêu thụ trên thị trường, do đó
các doanh nghiệp phải tự hoàn thiện bản thân mình và tiến hành hợp tác sản xuất
nếu không sẽ bị đào thải.
 Thu hút nhiều lao động, hoạt động có hiệu quả với chi phí cố định thấp
Các DNVVN do có nguồn vốn ít nên đầu tư vào các tài sản cố định cũng ít,
họ thường tận dụng lao động thay thế cho vốn, đặc biệt là nước có lược lượng lao
động dồi dào và giá lao động thấp như nước ta, để tiến hành sản xuất kinh doanh
phục vụ dân sinh và thường họ đạt được hiệu quả kinh tế- xã hội cao.
 Không có hặc ít có xung đột giữa người sử dụng lao động và người lao
động.
Do quy mô vừa và nhỏ nên sự ngăn cách giữa người sử dụng lao động và
người lao động không lớn và bản thân người chủ- người sử dụng lao động luôn sát
với công việc của người lao động do vậy nếu có xung đột xảy ra cũng có thể dễ
dàng giải quyết.
 Có thể duy trì sự tự do cạnh tranh.
Các DNVVN thường không có tình trạng độc quyền, họ giễ dàng và sẵn sàng
chấp nhận tự do cạnh tranh. Tự do cạnh tranh là con đường tốt nhất để phát huy
mọi tiềm lực.
 Có thể phát huy được tiềm lực thị trường trong nước
Sự phát triển DNVVN ở giai đoạn ban đầu cần phương thức tốt để sản xuất
thay thế nhập khẩu. Các nước đang phát triển như nước ta chỉ cần lựa chọn một
mặt hàng để sản xuất thay thế nhập khẩu với mức chi phí và vốn đầu tư thấp, kỹ
thuật không phức tạp, sản phẩm phù hợp với sức mua của người dân, từ đó nâng
cao năng lực sản xuất và sức mua của thị trường.
 Dễ dàng tạo nên sự phát triển cân bằng giữa các vùng

DNVVN có thể phát triển khắp mọi nơi, mọi vùng của đất nước, lấp vào
khoảng trống và thiếu vắng của doanh nghiệp lớn, tạo nên sự phát triển cân bằng
giữa các vùng, đây là một chiến lược kinh tế-xã hội quan trọng của đất nước.
 Có thể nhanh chóng giảm bớt nạn thất nghiệp
DNVVN lấy mục tiêu phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân là chủ yếu,
do vốn đầu tư thấp và thường thu hút nhiều lao động cho nên trong thời gian ngắn
tạo được nhiều việc làm, giải quyết được tình trạng thất nghiệp ở từng địa phương,
nâng cao giá nhân công, có lợi cho nhân dân.
 DNVVN là nơi đào luyện các nhà doanh nghiệp và là cơ sở kinh tế ban đầu
để phát triển thành doanh nghiệp lớn.
Qua thực tế hoạt động sản xuất- kinh doanh, một mạng lưới DNVVN khắp
trên mọi miền của đất nước đã đào tạo, sàng lọc nên các nhà doanh nghiệp, có thể
nói đây là nơi đào tạo hữu hiệu nhất. Mặt khác quá trình phát triển DNVVN cũng
là quá trình tích tụ vốn, tìm kiếm mạng lưới thị trường.. để phát triển doanh nghiệp
lớn. Hầu hết các doanh nghiệp lớn ở các nước phát triển đều trải qua quy mô vừa
và nhsỏ trừ một số doanh nghiệp lớn của nhà nước.
1.1.3.2. Khó khăn
 Khó khăn chung
Nhìn chung, các DNVVN ở Việt Nam hiện nay đều gặp phải một số khó khăn
sau:
 Hệ thống đăng ký kinh doanh chưa thống nhất từ trung ương đến cơ sở, chỉ
mới thành lập được phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh thuộc sở kế hoạch và đầu
tư. Vì vậy việc quản lý nội dung kê khai trong giấy chứng nhận kinh doanh và việc
kiểm tra, giám sát các hoạt động của doanh nghiệp còn hạn chế, chưa sớm được
phát hiện những sai phạm của doanh nghiệp trong quản lý kinh doanh và vì vậy
việc xử lý bị chậm.
 Phần lớn DNVVN có quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ, vốn ít, công nghệ lạc
hậu, thiếu điều kiện đầu tư mở rộng sản xuất, thuê chuyên gia có trình độ. Mặc dù
đã có nỗ lực từ phía chính quyền địa phương xong vẫn có sự phân biệt đối xử giữa
các thành phần(doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) trong các lĩnh vực như đất đai, mặt bằng sản
xuất, vay vốn tín dụng dẫn đến tình trạng DNVVN thiếu mặt bằng sản xuất kinh
doanh, thiếu vốn đầu tư cho sản xuất, đổi mới công nghệ.
 Thiếu sự liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp lớn với các DNVVN dẫn đến
chất lượng, hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh thấp của các doanh nghiệp.
 Phần lớn cán bộ quả lý trong các doanh nghiệp khi thành lập doanh nghiệp và
hoạt động kinh doanh dựa trên kinh nghiệm là chính, chưa được đào tạo qua
trường lớp căn bản nên có nhiều hạn chế trong công tác quản lý kinh tế cũng như
ảnh hưởng đến việc thực hiện quy định của pháp luật trong quá trình họat động và
kinh doanh.
 Trình độ tay nghề của người lao động trong doanh nghiệp chưa được quan tâm
đào tạo thường xuyên, phần lớn người lao động được truyền dạy nghề thông qua

×