Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

Những vấn đề cơ bản về tín dụng Ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.51 KB, 40 trang )

Những vấn đề cơ bản về tín dụng Ngân hàng đối
với doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1. Tín dụng Ngân hàng đối với DNVVN NQD
1.1.1. Khái niệm tín dụng
Tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các NHTM, phản
ánh hoạt động đặc trưng của Ngân hàng. Tín dụng là hoạt động tài trợ của ngân
hàng cho khách hàng; đây là hoạt động sinh lời lớn nhất song cũng chịu rủi ro cao
nhất.
1.1.2. Vai trò của tín dụng Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
Vốn là điều kiện không thể thiếu để một DN thành lập và tiến hành hoạt
động sản xuất - kinh doanh. Nguồn vốn của một doanh nghiệp luôn bao gồm hai
phần: vốn chủ sở hữu và các khoản nợ. Tuy nhiên, việc lựa chọn cơ cấu của nguồn
vốn như thế nào là phụ thuộc vào sự ổn định của nền kinh tế, các chính sách kinh
tế vĩ mô, quan điểm của chủ DN...
- Vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao gồm: vốn góp ban đầu (vốn điều lệ),
lợi nhuận không chia, phát hành cổ phiếu, các quỹ...
+ Vốn góp ban đầu: Khi thành lập DN bao giờ chủ DN cũng phải có một số
vốn ban đầu nhất định, đối với các DNNQD hoạt động theo Luật doanh nghiệp thì
chủ doanh nghiệp phải có một số vốn nhất định để xin đăng kí thành lập DN (các
chủ DN tham gia góp vốn, phát hành cổ phiếu...)
+ Lợi nhuận không chia: lợi nhuận không chia của DN thực chất là phần lợi
nhuận cộng dồn để lại của DN; tuy nhiên, trong quá trình hoạt động sản xuất - kinh
doanh, nếu DN hoạt động có hiệu quả thì DN mới có điều kiện để tăng nguồn vốn.
Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia - nguồn vốn nội bộ - là phương thức tạo
nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn vì DN giảm được chi phí, giảm bớt sự
phụ thuộc bên ngoài; vì vậy, các biện pháp làm tăng lợi nhuận của DN như các
biện pháp miễn giảm thuế thu nhập cũng góp phần làm tăng vốn tự có của DN. Rất
nhiều DN coi trọng chính sách tái đầu tư từ lợi nhuận để lại, tuy nhiên, không phải
lúc nào DN cũng có thể dùng lợi nhuận không chia để tài trợ cho dự án, phương án
sản xuất - kinh doanh của mình vì phần lợi nhuận không chia giữ lại không đáng kể
hoặc không đáp ứng được nhu cầu về vốn.


- Nguồn vốn vay và các khoản nợ gồm: tín dụng thương mại, tín dụng Ngân
hàng, phát hành trái phiếu.
+ Tín dụng thương mại được hình thành một cách tự nhiên trong quan hệ
mua bán chịu, mua bán trả chậm hoặc trả góp, chi phí của tín dụng thương mại
“ẩn” ngay trong mức giá. Tín dụng thương mại tuy là phương thức tài trợ rẻ, tiện
dụng và linh hoạt song nếu quy mô tài trợ quá lớn thì tính chất rủi ro rất lớn.
+ Phát hành trái phiếu: Trái phiếu là một công cụ huy động vốn dài hạn, lãi
suất trái phiếu chính là chi phí vốn của việc huy động vốn thông qua phát hành trái
phiếu. Tuy nhiên, ngay cả ở những nước có thị trường tài chính phát triển như Mỹ,
Singapore...thì phát hành chứng khoán cũng không phải là biện pháp hàng đầu để
DN tài trợ cho hoạt động của họ. Chỉ có các công ty có uy tín và năng lực tài chính
vững mạnh, đáp ứng đầy đủ các điều kiện thì mới được quyền phát hành trái phiếu;
các DN nhỏ không được thiết lập vững chắc trên thị trường hầu như không bao giờ
gom đủ vốn bằng cách phát hành chứng khoán. Vì vậy, Ngân hàng vẫn là nguồn
vốn bên ngoài quan trọng để tài trợ cho các DN
+ Tín dụng Ngân hàng: Với điều kiện VCSH thấp, thị trường tài chính chưa
phát triển thì việc các DN coi nguồn vốn tín dụng Ngân hàng là hình thức huy
động vốn chủ yếu là một tất yếu. Tín dụng Ngân hàng không chỉ giúp các DN cân
đối cơ cấu vốn, đảm bảo một cơ cấu vốn hợp lý mà đối với những DN có tỷ lệ nợ
thấp thì có thể sử dụng nợ như một phương pháp để tiết kiệm thuế thu nhập doanh
nghiệp, từ đó tăng lợi nhuận sau thuế (sở dĩ như vậy là vì doanh nghiệp được phép
khấu trừ lãi vay vào lợi nhuận trước thuế của họ). Các DN thường cố gắng cân
bằng giữa nợ và vốn chủ sở hữu để giữ vững khả năng thanh toán, củng cố uy tín
tài chính. Khi tỷ lệ nợ ở mức thấp, nếu cần vốn thì các công ty thường chọn cách
vay Ngân hàng hoặc phát hành trái phiếu, tức là tăng tỷ lệ nợ; nếu tỷ lệ nợ ở mức
cao thì các DN phải tránh tăng tỷ lệ nợ bằng cách phát hành cổ phiếu hoặc cố gắng
dùng lợi nhuận không chia. Tuy nhiên, các DN thường không quan tâm nhiều đến
việc giữ một mức cân bằng nhất định mà việc điều chỉnh vốn chủ sở hữu và các
khoản nợ thường tuỳ thuộc vào thực tế tình hình sản xuất - kinh doanh và các điều
kiện khác.

Như vậy, có thể thấy vai trò quan trọng của tín dụng Ngân hàng đối với các
DN của Việt Nam trong điều kiện thị trường tài chính chưa phát triển và hoạt động
chưa hiệu quả. Đối với các DNVVN NQD thì tín dụng Ngân hàng lại càng quan
trọng bởi trong các loại hình DNNQD thì: Công ty hợp danh và công ty tư nhân
không được quyền phát hành bất cứ một loại chứng khoán nào, Công ty cổ phần,
công ty TNHH có quyền phát hành trái phiếu song không phải DN nào cũng có thể
thu hút được công chúng mua trái phiếu vì nhà đầu tư phải đánh giá uy tín của DN
rồi mới quyết định có mua hay không; các DN vững mạnh và có uy tín trên thị
trường thì dễ dàng hơn trong việc phát hành trái phiếu ra công chúng để thu hút
vốn. Trên thực tế, điều kiện để phát hành trái phiếu cũng khá phức tạp, nhất là
trong điều kiện thị trường tài chính hiện nay của Việt Nam, ngoài ra do đa số
DNVVN có thời gian hoạt động chưa lâu nên chưa tạo được uy tín trên thị trường;
để có thể phát hành trái phiếu đối với các DN NQD, nhất là các DNVVN là một
việc rất khó khăn, chi phí lớn và mất thời gian; vì vậy, với yêu cầu về vốn phải
nhanh chóng, kịp thời thì tín dụng Ngân hàng là một giải pháp tốt.
Đồng thời, trong điều kiện mà thị trường tài chính chưa phát triển và hoạt
động chưa hiệu quả thì nguồn vốn tự có của DN là tương đối quan trọng trong việc
mở rộng sản xuất - kinh doanh; tuy nhiên, ở nước ta nguồn vốn này còn rất hạn
chế; vì vậy mà khi cần vốn thì các doanh nghiệp nói chung và các DNVVN NQD
nói riêng chủ yếu vẫn dựa vào nguồn vốn trên thị trường tài chính “phi chính thức”
(nguồn lực vốn và tài sản tự thân, vốn góp của các thành viên, vay của người thân,
bạn bè hoặc đi “vay nóng”, vay trả góp với lãi suất cao...), với lượng vốn “cấu vá”
từ nhiều nguồn nhỏ lẻ khác nhau thì tính chất không ổn định là khá rõ ràng, ảnh
hưởng rất lớn đến kế hoạch mở rộng sản xuất - kinh doanh của DN; nguồn vốn vay
từ Ngân hàng còn chưa được tận dụng hiệu quả, các DNVVN tuy thiếu vốn để đầu
tư sản xuất - kinh doanh song rất khó tiếp cận với các nguồn tài chính chính thức;
tuy vay Ngân hàng là phương thức huy động vốn dài hạn mà các DN Việt Nam áp
dụng phổ biến nhất, song không phải bất cứ doanh nghiệp nào cũng có thể tiếp cận
được với nguồn vốn này và khả năng vay cũng bị hạn chế so với quy mô hiện tại
của doanh nghiệp và nhu cầu của dự án, phương thức sản xuất kinh doanh mà

doanh nghiệp theo đuổi.
Có thể nói: không có doanh nghiệp nào không vay vốn ngân hàng nếu doanh
nghiệp đó muốn tồn tại và phát triển bền vững trên thị trường.Tín dụng ngân hàng
có vai trò rất quan trọng đối với phát triển của các DNVVN, điều này được thể
hiện ở các đặc điểm sau:
- Nâng cao hiệu quả dụng vốn: khi sử dụng vốn tín dụng ngân hàng, DN
phải tôn trọng các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng (HĐTD), bảo
đảm trả nợ một cách đầy đủ và đúng hạn, đồng thời phải tôn trọng các điều khoản
khác của hợp đồng cho dù DN sản xuất - kinh doanh hiệu quả hay không. Ngân
hàng chỉ cho vay khi đã thẩm định đầy đủ về tư cách pháp lý của DN và các điều
kiện khác, tất cả phải chứng minh được rằng DN kinh doanh có hiệu quả, khả năng
tài chính lành mạnh và có khả năng trả nợ cho Ngân hàng. Vì vậy, ngay từ khi
thành lập phương án sản xuất - kinh doanh, DN đã phải cân nhắc "sản xuất - kinh
doanh cái gì”, “bằng cách nào”, “đầu vào và đầu ra như thế nào”, không chỉ quan
tâm tới việc thu hồi đủ vốn mà DN còn phải quan tâm đến việc sử dụng vốn như
thế nào cho hiệu quả, để có thể tăng nhanh vòng quay vốn, đảm bảo tỷ suất lợi
nhuận lớn hơn lãi suất đi vay Ngân hàng thì mới đảm bảo có lãi sau khi trả lãi cho
Ngân hàng. Trong quá trình cho vay, Ngân hàng cũng phải tiến hành kiểm soát
trước, trong và sau khi DN thực hiện dự án để đảm bảo DN sử dụng vốn đúng mục
đích, đồng thời có thể phát hiện những yếu kém của dự án và qua đó có thể tư vấn
cho DN về những biện pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và
hiệu quả sản xuất - kinh doanh.
- Tín dụng Ngân hàng đảm bảo cho DN hoạt động liên tục: tín dụng Ngân
hàng giúp cho DN đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm máy móc thiết bị, trang trải
chi phí cần thiết phục vụ cho quá trình sản xuất - kinh doanh và phát triển DN.
Trong quá trình hội nhập, khi mà sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, DN muốn tồn
tại và phát triển thì phải thường xuyên cải tiến kĩ thuật, đầu tư mới công nghệ, thay
đổi mẫu mã, nghiên cứu tạo ra những sản phẩm mới; song trên thực tế, không có
DN nào có đủ 100% vốn đảm bảo nhu cầu phát triển sản xuất - kinh doanh; vì vậy,
để có thể mở rộng sản xuất - kinh doanh và phát triển thì DN chủ yếu vẫn phải dựa

vào tín dụng Ngân hàng.
1.1.3. Các hình thức tín dụng Ngân hàng
1.1.3.1. Phân theo thời gian
Phân chia theo thời gian có ý nghĩa rất quan trọng đối với Ngân hàng, vì thòi
gian liên quan mật thiết tới tính an toàn và sinh lời cũng như khả năng hoàn trả của
khách hàng.
Phân theo thời gian, tín dụng phân thành:
- Tín dụng ngắn hạn: là các khoản tín dụng có thời gian dưới 12 tháng, nhằm
tài trợ cho tài sản lưu động, hoặc nhu cầu vốn ngắn hạn.
- Tín dụng trung hạn: là các khoản tín dụng có thời hạn từ trên 1 năm đến 5
năm, thường dùng để tài trợ cho các tài sản cố định như: phương tiện vận tải, trang
thiết bị chóng hao mòn hay một số loại cây trồng vật nuôi...
- Tín dụng dài hạn: có thời hạn trên 5 năm, dùng để tài trợ cho các công trình
xây dựng như: nhà cửa, cầu đường... hay các loại máy móc, thiết bị có giá trị lớn,
có thời gian sử dụng lâu, khấu hao chậm.
1.1.3.2. Phân theo hình thức cấp tín dụng
Theo Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam, điều 49 quy định: “Tổ chức tín dụng được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân
dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác,
bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng
Nhà nước”.
Theo hình thức tài trợ, tín dụng phân thành: cho vay, cho thuê, bảo lãnh,
chiết khấu thương phiếu.
- Cho vay là tài sản lớn nhất trong khoản mục tín dụng, là hình thức tín dụng
mà Ngân hàng đưa tiền cho khách hàng và khách hàng cam kết hoàn trả gốc và lãi
trong khoảng thời gian nhất định. Cho vay gồm rất nhiều hình thức đa dạng, như:
cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay thấu chi, cho vay luân
chuyển...
+ Cho vay từng lần: là hình thức cho vay áp dụng đối với đối tượng là khách
hàng có nhu cầu vay vốn không thường xuyên, hoặc không đủ điều kiện để được

cấp hạn mức tín dụng; mỗi lần vay vốn, khách hàng phải làm đơn, trình Ngân hàng
phường án sử dụng vốn; Ngân hàng và khách hàng thoả thuận về các điều khoản
của hợp đồng tín dụng và làm các thủ tục vay vốn cần thiết.
Số tiền vay vốn bằn tổng nguồn vốn của dự án trừ đi vốn chủ sở hữu hoặc vốn tự
có, vốn khác tham gia.
+ Cho vay theo dự án đầu tư: Ngân hàng cho khách hàng vay vốn để thực
hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất - kinh doanh dịch vụ và phục vụ đời sống.
Khi khách hàng có kế hoạch mua sắm, xây dựng tài sản cố định nhằm thực hiện dự
án nhất định thì khách hàng phải xây dựng dự án, thể hiện mục đích, kế hoạch đầu
tư và quá trình thực hiện dự án; qua đó, Ngân hàng sẽ thẩm định để đưa ra quyết
định cuối cùng.
STCV = Tổng nhu cầu vốn của dự án - VCSH và các nguồn vốn khác tham gia
+ Cho vay luân chuyển: là nghiệp vụ cho vay dựa trên việc luân chuyển
hàng hoá của DN; DN thuế vốn khi muốn mua thì có thể vay Ngân hàng, khi DN
bán hàng thì Ngân hàng sẽ thu nợ. Cho vay luân chuyển thường áp dụng đối với
DN thương nghiệp hoặc DN sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn, có quan hệ vay - trả
thường xuyên với Ngân hàng.
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng: áp dụng đối với các khách hàng có nhu
cầu vốn thường xuyên hoặc có đặc điểm sản xuất - kinh doanh không phù hợp với
phương thức cho vay từng lần.
Hạn mức tín dụng được xác định căn cứ vào phương án, kế hoạch sản xuất -
kinh doanh, nhu cầu vay vốn, tỷ lệ cho vay tối đa so với giá trị tài sản đảm bảo tiền
vay theo quy định của NHCT Việt Nam và khả năng nguồn vốn của Ngân hàng để
tính toán và thoả thuận với khách hàng một hạn mức tín dụng duy trì trong một
thời gian nhất định hoặc theo chu kỳ sản xuất - kinh doanh; trong suốt thời gian
duy trì hạn mức tín dụng, khách hàng được quyền rút vốn phù hợp với tiến độ và
yêu cầu sử dụng vốn thực tế nhưng phải đảm bảo không vượt quá hạn mức đã ký;
mỗi lần rút vốn, khách hàng phải trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp các
chứng từ chứng minh đã mua hàng hoá, dịch vụ và lập một giấy nhận nợ với Ngân
hàng.

Hạn mức tín dụng có thể cấp cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Trong kỳ khách hàng
có thể vay - trả nhiều lần song dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng, nếu
quy định hạn mức tín dụng cuối kỳ thì trong kỳ dư nợ DN có thể vượt hạn mức tín
dụng nhưng đến cuối kỳ thì DN phải trả nợ để dư nợ nhỏ hơn hạn mức đã được
cấp.
+ Cho vay thấu chi: Ngân hàng thoả thuận bằng văn bản với khách hàng,
qua đó Ngân hàng chấp thuận cho khách hàng chi vượt mức số tiền có trên tài
khoản thanh toán phù hợp với các quy định của Chính phủ và NHNN về hoạt động
thanh toán qua các tổ chức tín dụng cung ứng dịch vụ thanh toán.
- Cho thuê tài sản: là việc Ngân hàng bỏ tiền để mua tài sản và cho khách
hàng thuê với những thoả thuận nhất định, trong đó bao gồm việc khách hàng phải
hoàn trả gốc và lãi cho Ngân hàng. Cho thuê tài chính áp dụng trong trường hợp
khách hàng không đủ (hoặc chưa đủ) điều kiện để vay; để mở rộng tín dụng, Ngân
hàng mua tài sản theo yêu cầu của khách hàng để cho khách hàng thuê; tài sản cho
thuê vẫn thuộc quyền sở hữu của Ngân hàng, Ngân hàng có thể thu hồi khi khách
hàng không trả được nợ.
- Bảo lãnh: là việc Ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính thay
khách hàng của mình, khi khách hàng không thực hiện đúng các nghĩa vụ đã cam
kết.
- Chiết khấu thương phiếu: là việc Ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng
tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của Ngân hàng khi sở
hữu thương phiếu chưa đến hạn.
1.1.3.3. Phân theo phương thức tài trợ
- Cho vay kinh doanh: là các khoản cho các doanh nghiệp, các hộ kinh
doanh cá thể vay để phục vụ hoạt động sản xuất - kinh doanh như: mua tài sản cố
định, mua nguyên vật liệu, mua hàng hoá...
- Cho vay tiêu dùng: là các khoản tín dụng mà Ngân hàng cấp cho khách
hàng là các cá nhân, hộ gia đình để mua nhà, mua các tài sản có giá trị...
- Cho vay khác
1.2. Những vấn đề cơ bản về DNVVN NQD

1.2.1. Các khái niệm và phân loại
1.2.1.1. Doanh nghiệp vừa và nhỏ
a. Khái niệm
Theo Nghị định của Chính phủ số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 thì
DNVVN là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đăng ký kinh doanh theo pháp luật
hiện hành, có số vốn đăng ký kinh doanh không quá 10 tỷ đồng và số lao động
trung bình hàng năm không quá 300 người.
b. Các tiêu thức phân loại
Quy mô doanh nghiệp được xác định dựa trên các tiêu chí: nguồn vốn kinh
doanh, quy mô lao động, doanh thu thuần và giá trị nộp Ngân sách Nhà nước.
- Lao động: là số lao động thực tế được sử dụng tính bình quân trong 3 năm
gần nhất.
- Giá trị nộp Ngân sách: lấy theo số thực nộp vào Ngân sách Nhà nước theo
số phát sinh trong kỳ, bao gồm các loại thuế và các khoản nộp khác theo quy định
của Nhà nước trong năm báo cáo (không tính các khoản thuế xuất nhập khẩu, bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn, các khoản tiền phát, phụ thu).
1.2.1.2. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
a. Khái niệm
Theo Luật doanh nghiệp năm 2005, doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên
riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy
định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
- Doanh nghiệp ngoài quốc doanh là doanh nghiệp là doanh nghiệp có tính
chất hữu (không kể doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài). Các loại hình
DNNQD chủ yếu là: Công ty cổ phần, công ty TNHH, công ty hợp danh và doanh
nghiệp tư nhân.
b. Các loại hình DN NQD
Theo Luật doanh nghiệp năm 2005, các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc
doanh được quy định như sau:
 Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
1. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là doanh nghiệp do một tổ

chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu (chủ sở hữu công ty); chủ sở hữu chịu trách
nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn
điều lệ của công ty.
2. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên không được quyền phát hành
cổ phiếu.
3. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có tư cách pháp nhân kể từ
ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
 Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
1. Công ty trách nhiệm hữu hạn là doanh nghiệp, trong đó:
- Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng thành viên không vượt quá
năm mươi.
- Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của
công ty trong phạm vi số vốn cam kết góp vào doanh nghiệp.
- Phần vốn góp của thành viên chỉ được quyền chuyển nhượng theo quy định
của pháp luật.
2. Công ty trách nhiệm hữu hạn không được quyền phát hành cổ phiếu.
3. Công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh.
 Công ty cổ phần
1. Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó:
- Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
- Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh
nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
- Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác,
trừ một số trường hợp do pháp luật quy định;
- Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và
không hạn chế số lượng tối đa.
2. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn.
3. Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh.

 Công ty hợp danh
1. Công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó:
- Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau
kinh doanh dưới một tên chung (gọi là thành viên hợp danh), ngoài các thành viên
hợp danh còn có thể có thêm thành viên góp vốn;
- Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản
của mình về các nghĩa vụ của công ty;
- Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty
trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
2. Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh.
3. Công ty hợp danh không được phát hành bất kỳ một loại chứng khoán nào.
 Doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
* Như vậy, trong tất cả các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì chỉ
có công ty cổ phần là có quyền phát hành cổ phiếu, còn lại tất cả các doanh nghiệp
khác đều không có quyền phát hành cổ phiếu. Mặt khác, công ty Cổ phần, công ty
TNHH, doanh nghiệp tư nhân cũng có quyền phát hành trái phiếu song điều kiện
để các doanh nghiệp phát hành chứng khoán ra công chúng rất khó khăn bởi trên
thực tế, các doanh nghiệp này hầu hết đều có quy mô vừa và nhỏ, thời gian hoạt
động chưa lâu và chưa có uy tín trên thị trường.
1.2.2. Đặc điểm của DNVVN NQD
DNVVN NQD là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có quy mô vừa và
nhỏ. Tại Việt Nam, đa số các DNNQD đều có quy mô vừa và nhỏ; vì vậy, đặc điểm
của DNVVN NQD cũng chính là đặc điểm của các DNVVN nói chung.
Thứ nhất, đặc điểm nổi bật của các DNVVN chính là quy mô vốn ban đầu
thấp, vốn ban đầu để thành lập doanh nghiệp là do các thành viên góp vốn, do vậy
có quy mô không lớn, hiện tiềm lực tài chính của khu vực này rất bé, số vốn chủ sở
hữu bình quân chỉ khoảng 1.800 triệu đồng. Các DNVVN luôn gặp khó khăn do

chính quy mô vừa và nhỏ của mình, chính đặc điểm này đã dẫn tới hệ quả là hầu
hết các DNVVN sử dụng trang thiết bị, công nghệ lạc hậu nên sản phẩm hàng hoá -
dịch vụ sản suất ra thường có giá trị công nghệ thấp, hàm lượng chất xám ít, không
có tính ổn định và khả năng cạnh tranh không cao, không thích ứng được với nhu
cầu của thị trường, nhất là thị trường thế giới; hầu hết sản phẩm tạo ra không có
tính định hướng lâu dài trong kinh doanh và DN thường xuyên thay đổi ngành
nghề và cơ cấu mặt hàng, các mặt hàng phong phú về chủng loại song số lượng
không lớn. Mặt khác, cũng chính vì phần lớn công nghệ mà các DNVVN sử dụng
đã lạc hậu hàng chục năm, thậm chí vài chục năm nên không thể nâng cao năng
suất, giảm giá thành sản phẩm và thường gây ra ô nhiễm môi trường, và đây cũng
là nguyên nhân chính của tình trạng lãng phí trong sử dụng năng lượng, nguyên vật
liệu.
Các DN muốn mua sắm thiết bị, đổi mới công nghệ song do vốn chủ sở hữu
thấp, tín dụng Ngân hàng thì khó tiếp cận, không phải DN nào cũng có thể tiếp cận
được với tín dụng Ngân hàng; ngay cả khi có thể vay Ngân hàng thì nhiều khi số
vốn vay được và thời gian vay cũng chưa thực sự phù hợp với thời hạn của dự án.
Trong một cuộc hội thảo về vai trò và thực trạng của các DNVVN, 2/3 số Giám
đốc của các DNVVN cho rằng: đôi khi các DNVVN cũng tiếp cận được với tín
dụng Ngân hàng song chỉ là ngắn hạn, tín dụng dài hạn để đầu tư mua sắm máy
móc thiết bị, nhà xưởng là rất khó, có tới 80% số các khoản tín dụng là ngắn hạn;
điều này chủ yếu là do để đầu tư cho máy móc, trang thiết bị thì cần nguồn vốn dài
hạn trong khi nguồn vốn của Ngân hàng chủ yếu là không kỳ hạn và ngắn hạn nên
thường không đáp ứng được nhu cầu của các DN.
Thứ hai, các DNVVN tuy hoạt động linh hoạt nhưng kém hiệu quả. Cơ sở
sản xuất của đại đa số DNVVN thường phân tán, quy mô nhỏ lẻ, manh mún,
thường sử dụng đất đai, nhà ở của gia đình trong khu dân cư làm mặt bằng sản xuất
- kinh doanh. Hiện nay, đa số các DNVVN làm ăn có hiệu quả muốn mở rộng sản
xuất - kinh doanh đều nằm trong tình trạng thiếu đất làm mặt bằng; việc xin cấp đất
của các DNVVN bị cản trở bởi hồ sơ, thủ tục vẫn còn khá phức tạp. Trước sức ép
của thời buổi “tấc đất, tấc vàng”, có chủ DN đã phải thốt lên: “Nghĩ đến việc xin

cấp đất, thuê đất tôi như nhìn thấy trên con đường có những tấm rào không thể
vượt qua”. Mặt khác, với đặc điểm sản xuất nhỏ lẻ, phân tán, đó vừa là lợi thế song
cũng tạo nên những khó khăn cho các DNVVN. Lợi thế của việc sản xuất phân tán,
quy mô nhỏ là có thể hoạt động được ở những vùng dân cư sống phân tán, len lỏi
vào những khu vực thị trường “ngách” mà các DN lớn bỏ qua, lĩnh vực hoạt động
đa dạng, phong phú, cũng chính vì vậy mà có thể dễ dàng thay đổi ngành nghề,
lĩnh vực hoạt động để chuyển sang các ngành nghề, lĩnh vực khác có lợi hơn khi
thị trường có những biến động, chi phí rút lui khỏi thị trường thấp, dễ chuyển địa
điểm kinh doanh hơn các DN lớn; tuy nhiên cũng chính vì điều này làm cho DN
khó đương đầu với những biến động bất ngờ của thị trường, nếu không thực sự cố
gắng thì sẽ bị thị trường đào thải. Các DNVVN thường không có chiến lược kinh
doanh dài hạn mà chỉ làm ăn chạy theo phong trào, khi thấy có cơ hội thì tận dụng
tối đa, triệt để nhất mọi nguồn lực để thu được lợi nhuân trước mắt mà không tính
đến lâu dài.
Thứ ba, các DNVVN cũng thường phải chịu thiệt thòi, phải gánh chịu những
thông lệ và điều kiện cạnh tranh không bình đẳng không chỉ ở thị trường trong
nước mà còn trên thị trường thế giới. Phần lớn các DNNQD hiện nay hoạt động
trong tình trạng thiếu cập nhật thông tin về các cơ chế chính sách mới ban hành
cũng như thông tin về các thị trường đầu vào như: thị trường vốn, thị trường
nguyên vật liệu, thị trường công nghệ, thiết bị kỹ thuật..; thiếu thông tin về thị
trường tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt là thị trường xuất khẩu và chưa tiếp cận được
với công nghệ thông tin trong quản lý DN. Trong điều kiện hiện nay, khi chúng ta
đang trên đường hội nhập với thế giới, Việt Nam đang rất tích cực đàm phán để gia
nhập WTO trong năm nay thì các DNVVN càng cần phải nâng cao trình độ tiếp
cận thông tin, nhất là thông tin về các quy định của pháp luật ở trong và ngoài
nước, bởi gia nhập WTO cũng có nghĩa là cạnh tranh sẽ không ngừng tăng lên, các
tranh chấp thương mại trên thị trường sẽ xảy ra ngày càng nhiều hơn và khốc liệt
hơn. Khi Việt Nam gia nhập WTO, các DNVVN chính là lực lượng tiên phong,
được hưởng lợi và cũng là lực lượng chịu sự cạnh tranh khốc liệt nhất; tuy nhiên,
cho đến thời điểm này, khi mà Việt Nam đã đứng trước ngưỡng cửa của WTO thì

các DN thuộc khu vực này vẫn chưa có sự chuẩn bị tích cực.
Theo ông Lý Đình Sơn - Phó chủ tịch hiệp hội DNVVN của Việt Nam - “khi
các DN có quan hệ làm ăn chặt chẽ với các đối tác nước ngoài thì cũng là lúc các
vụ kiện thương mại tăng lên; trong đó các vụ kiện bán phá giá giày dép, cá tra, cá
basa, hay mới đây là vụ Liên minh Châu Âu kiện các DN Việt Nam bán phá giá xe
đạp và các vụ kiện do giao hàng chậm...mà các DN Việt Nam gặp phải trong thời
gian qua là những ví dụ điển hình. Trong bối cảnh như vậy, ngoài việc tự tăng
cường kiến thức hội nhập, kiến thức về luật pháp quốc tế, các DNVVN Việt Nam
cũng nên hợp tác với nhau. Có một sự thật là các DN Việt Nam có chung lợi ích rất
ngại hợp tác với nhau, mà lại thường cạnh tranh làm cho vấn đề càng trở nên phức
tạp, trong khi phía đối tác nước ngoài thì hoàn toàn ngược lại”.
Do quy mô nhỏ nên mô hình tổ chức của các DNVVN rất gọn nhẹ, số lượng
lao động không nhiều, không có quá nhiều các khâu trung gian nên hoạt động năng
động, dễ thích nghi với những thay đổi của thị trường, dễ dàng chuyển đổi; các
quyết định, chỉ đạo nhanh chóng đến với người lao động, giảm độ “trễ” do các
khâu trung gian tạo ra, công tác kiểm tra, giám sát cũng nhanh chóng và hiệu quả
hơn; điều này làm giảm chi phí, tăng hiệu quả hoạt động của DN đồng thời. Tuy
nhiên, cũng chính vì quy mô nhỏ nên nhiều DN chưa quan tâm đến việc xây dựng
nội quy lao động để đưa người lao động vào một “khuôn khổ, quy củ” nhất định;
có DN xây dựng nhưng chỉ để lấy lệ, chưa kiểm tra chặt chẽ. Việc thực hiện các
nội quy này việc xây dựng nội quy trong mỗi DN là rất quan trọng vì điều này
không chỉ giúp tăng kỷ luật lao động mà còn giúp người lao động hiểu được nhiệm
vụ của mình và cũng qua đó để DN xác định mức độ hoàn thành công việc của
người lao động; vì vậy, các DN cần quan tâm hơn nữa đến việc này.
Thứ tư, các doanh nhân, các nhà quản lý DN chưa được đào tạo bài bản về
chuyên môn, nghiệp vụ, thiếu hiểu biết đầy đủ về quản trị doanh nghiệp hiện đại
trong điều kiện hội nhập kinh tế nên trình độ quản lý chưa cao; các DN chủ yếu do
chủ DN đứng ra làm giám đốc, hầu như chưa có DN nào thuê giám đốc, và các chủ
DN quản lý DN chủ yếu dựa vào kinh nghiệm. Văn hoá lãnh đạo quản lý là nhân tố
then chốt, trực tiếp quyết định khả năng phát triển kinh tế - xã hội. Trong lịch sử

cũng như hiện nay, sự thịnh - suy của một quốc gia hay một DN... suy cho cùng
bao giờ cũng có nguồn gốc trực tiếp từ sự quản lý của nhà lãnh đạo. Yếu tố con
người, nhất là những người giữ vai trò lãnh đạo có ý nghĩa rất quan trọng; các nước
như: Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc... đã học tập người Nhật và đã thành công
khi đặc biệt chú ý đến vấn đề đào tạo đội ngũ quản lý DN; đây cũng là bài học quý
báu mà chúng ta cần học tập ở họ. Trong thời gian tới, cần tập trung vào việc tăng
cường công tác đào tạo về pháp luật kinh doanh, thương mại quốc tế cho đội ngũ
lãnh đạo các DNVVN; trang bị cho họ những kiến thức bài bản để họ có thể
“đương đầu” với những thách thức ngày càng gay gắt hiện nay.
Thứ năm, tay nghề của lực lượng lao động trong các DNVVN của chúng ta
hiện nay được đánh giá là thấp so với nhu cầu. Theo ông Nguyễn Hữu Dũng - Viện
trưởng Viện Khoa học Lao động và các vấn đề xã hội - tuy Việt Nam là một nước
có nguồn lao động dồi dào, trẻ và rẻ; lao động Việt Nam có truyền thống cần cù,
sáng tạo và tư chất thông minh, song đa số lao động Việt Nam không có trình độ
chuyên môn kỹ thuật (đến năm 2010 mới phấn đấu có 25% lao động qua đào tạo,
trong đó có 15,5% được đào tạo nghề trong khi đó ở các nước tỷ lệ này là 50%),
lao động trình độ cao thiếu trầm trọng do giáo dục đào tạo chưa phù hợp với nhu
cầu của nền kinh tế, năng suất lao động trung bình thấp, thể lực và sức bền của
người Việt Nam còn yếu, ý thức kỷ luật lao động và tác phong lao động công
nghiệp chưa cao. Lực lượng lao động của Việt Nam hiện nay đang trong tình trạng
“thừa thày, thiếu thợ”, hiện tượng thiếu lao động lành nghề, lao động có trình độ
cao ở một số khu công nghiệp đã dẫn tới tình trạng cạnh tranh không lành mạnh để
tranh giành lao động có chất lượng giữa các DN. Mặt khác, do người lao động
chưa hiểu biết nhiều về kỷ luật lao động nên trong thời gian vừa qua đã liên tục
xảy ra một số vụ đình công bất hợp pháp, tự phát của công nhân một số nhà máy ở
Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh...không chỉ gây thiệt hại cho DN mà còn gây
bất ổn cho xã hội.
Ngoài những đặc điểm của DNVVN, DNVVN NQD còn có những đặc điểm
của các DNNQD. Để tìm hiểu về đặc điểm của các DN Việt Nam nói chung và
DNNQD nói riêng, chúng ta sẽ tìm hiểu thông qua bảng sau:

Bảng mô tả sơ lược về các loại hình DN tại VN năm 2003 (bảng 1)

×