Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

ki thuat hanh vi ung xu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.94 KB, 10 trang )

5. Kĩ thuật hành vi ứng xử.
5.1. Khái niệm hành vi ứng xử
Khi giao nhiệm vụ, yêu cầu học sinh làm việc, nêu câu hỏi, khi học sinh
có hành vi hay kết quả học tập,... giáo viên phải có phản ứng hay thái độ
đáp lại, đưa ra nhận xét, chỉ dẫn, thông báo... giáo viên phải làm thế nào
để đạt hiệu quả sư phạm cao nhất mà vẫn đảm bảo tiến độ giờ học.
Tuy việc này có tính nghệ thuật song giáo viên cần thành thạo các kĩ
thuật hành vi ứng xử tối thiểu không chứa đựng nguy cơ mắc sai lầm.
Các hành vi đáp lại là bộ phận kĩ thuật và nghệ thuật quan trọng của
những biện pháp dạy học tương tác.
* Đó là những hành vi do giáo viên thực hiện sau khi học sinh trả lời
câu hỏi, hoàn thành yêu cầu, chỉ dẫn,... nhằm đáp lại hành vi và kết quả
hành vi của học sinh.
Những lĩnh vực hành vi ứng xử tiêu biểu và quan trọng là:
● Khen ngợi và nhận xét học sinh về hành vi và kết quả học tập.
● Tiếp nhận hành vi của học sinh.
● Nêu yêu cầu hay giao nhiệm vụ cho học sinh.
● Quản lí và giám sát quá trình học tập.
Các hành vi ứng xử liên quan đến các tình huống tương tác giữa giáo
viên-học sinh; còn các kĩ năng hành vi giảng dạy liên quan chủ yếu đến
quan hệ giáo viên-tài liệu học tập.
- Hành vi ứng xử biểu hiện các yếu tố tâm lí, sư phạm, văn hóa, xã hội.
giáo tiếp bộc lộ thái độ, tình cảm, tính khí, kinh nghiệm sống, bản lĩnh
của giáo viên.
Chúng ảnh hưởng đến những nỗ lực của giáo viên về phương pháp dạy
học, hiệu quả tổ chức hoạt động, sử dụng các nguồn khác trong dạy học.
* Có thể chia hành vi ứng xử thành 2 loại: có ảnh hưởng âm tính,
dương tính.
- Những hành vi đáp lại có ảnh hưởng âm tính, hạn chế gò bó suy nghĩ,
hành động của học sinh.
Những hành vi này có thể gây ra những tác hại không lường hết được.


Vì trẻ học cái xấu dễ hơn, ấn tượng xấu sâu đậm hơn, khó quên hơn,
con người nhạy cảm với những khó chịu, bất công.
+ Hành vi chỉ trích học sinh.
Đó là những nhận xét mang giá trị âm tính, có ý chê bai, phê phán,
phán xét hay thái độ không thích hợp với tình huống cụ thể, không thích
hợp với bản chất hành vi và kết quả hành vi của học sinh.
Giáo viên các lớp lớn hay chỉ trích hơn giáo viên tiểu học. Không phải
ngẫu nhiên mà uy tín giảm dần theo chiều tăng của bậc học: thành ở
MN, cha mẹ ở tiểu học; cô bác quen thuộc ở TH; những nhân vật đối tác
ở ĐH.
Một số hành vi điển hình:
- Bác bỏ thẳng, coi là sai, tồi, không tốt, không chấp nhận được,... nếu
dùng không đúng sẽ gây phản ứng ngầm, làm học sinh tự ái. Khi buộc
phải dùng hành vi này, cần dùng lời nói để tránh hiểu lầm, thể hiện này
từ ngay thẳng, hướng thông điệp vào hành vi, chứ không hướng vào
nhân cách.Ví dụ: Em làm chưa đúng-có thế mà cũng làm sai.
- Bác bỏ gián tiếp, dùng lời nói hay cử chỉ lảng tránh.Ví dụ: Học sinh
trả lời sai, giáo viên bỏ qua hỏi em khác,... Về nguyên tắc không nên sử
dụng hành vi này, trừ một số trường hợp rất hiếm, khi câu trả lời hay
hành vi của học sinh quá đặc biệt.
- Chỉ trích hàm ý giễu cợt, mỉa mai, đây là hành vi cần tránh nhất và
tránh triệt để, nó làm hạ thấp uy tín của giáo viên, tổn thương học sinh,
quan hệ thầy-trò. Nhiều trường hợp học sinh tỏ ra vô lễ với giáo viên
xuất phát từ hành vi thiếu kiềm chế của giáo viên.
- Chê trách thô bạo, gay gắt (khác với thẳng thắn, nghiêm khắc). Điều
này dễ gây ra cảm giác bị thành kiến, tự ti, làm học sinh rối trí, thiếu
sáng suốt gây thái độ bất bình. Để hạn chế ảnh hưởng gò bó, cản trở của
hành vi này, cần sử dụng nó càng ít càng tốt. Khi phải dùng thì cần
dùng đúng lúc, đúng chỗ, đúng mức, đúng tình huống.
+ Hành vi tán dương, khen ngợi.

Đó là những nhận xét có ý khen, phụ họa, đồng ý, nâng đỡ, thúc đẩy.
Tuy giá trị của thông điệp là dương tính nhưng ảnh hưởng là âm tính. Ai
cũng có nhu cầu được thừa nhận và tôn trọng nhưng hoàn toàn không
thích những lời khen lộ liễu ngoài miệng.
Về mặt sư phạm, tán dương làm học sinh phấp phỏng, thiếu tự tin, thiếu
quyết đoán, trở nên nhút nhát.
Tán dương có tác dụng tốt trong một số trường hợp.
Học sinh đang chán nản, mất động cơ, hoặc đang cố vượt lên sau một
giai đoạn sụt giảm thành tích, đang tìm cách thay đổi tình thế.
Những học sinh nhỏ (MN,TH).
Những nhiệm vụ học tập ở trình độ thấp, đơn giản.
Những nhiệm vụ, công việc đơn điệu, nhàm chán...
Khi nhiệm vụ, công việc đã hoàn thành, có kết quả, và đã được thừa
nhận.
Nhận định, lời khen, phần thưởng có tiêu chí rõ ràng, hợp lí.
Giúp học sinh nhận thức rõ hơn, đầy đủ hơn, đánh giá đúng hơn về quá
trình và kết quả học tập.
Ảnh hưởng của hành vi chỉ trích, tán dương không chỉ ở nội dung thông
điệp mà còn ở chỗ những thông điệp đó được nói lên, biểu thị như thế
nào, vì sao đưa ra, sau đó giáo viên xử sự thế nào. Nó được biểu hiện có
văn hóa, chân thành, thân thiện xuất phát từ mối quan tâm thông cảm, vì
sự tiến bộ của học sinh hay giận dữ, cáu kỉnh, thành kiến, trù dập, xuề
xòa, gây thiện cảm riêng,...
Có thể đối chiếu hai tác dụng của tán dương-khen ngợi:
TDKN có hiệu quả TDKN không hiệu quả
1. Được đưa ra tự nhiên, bất
ngờ.
Đưa ra tùy tiện, không rõ lý
do
2. Đặc tả rõ bản chất của

thành tích học sinh đạt
được.
Có tính chất chung chung,
mơ hồ, không cụ thể
3.Có tính khách quan,độc
đáo, tỏ rõ sự quan tâm, tín
nhiệm
Xuề xòa, chỉ có ý nghĩa đáp
lại hành vi của học sinh.
4. Tỏ rõ đó là dành cho
thành tích nỗi bật, cố gắng
đặc biệt...
Có tính hình thức, đơn giản
có tham gia là được khen,
không do kết quả.
5. Giúp học sinh hiểu rõ
năng lực của họ, giá trị của
thành tích đạt được
Học sinh không thu được
thông tin về khả năng và vị
thế thực sự của họ.
6. Giúp học sinh cảm nhận
rx hơn hành vi công vụ và
tư duy giải quyết vấn đề
Khiến học sinh suy bì, tỵ
nạnh,ý nghỉ cạnh tranh, kèn
cựa
7. Có sử dụng thành tích
trước đó của học sinh để
làm nỗi bật sự tiến bộ

Lấy thành tích của học sinh
để ví von, so sánh
8.Thừa nhận nổ lực và mức
độ thành công với những
mức độ khó khăn nhất định
của học sinh là hợp lý
Không chú ý đến nổ lực bỏ ra
hoặc ý nghĩa của thành tích
học sinh đạt được
9. Coi cố gắng và năng lực
của học sinh là nguyên nhân
của thành tích.
Coi thành công là do năng
lực và nhân tố bên ngoài, may
mắn.
10. Đề cao những khả năng Đề cao những tác nhân bên
nội sinh như tình cảm, trí
tuệ...
ngoài như làm vui lòng giáo
viên, cha mẹ, hiếu thắng.
11. Hướng học sinh vào loại
hành vi thực hiện nhiệm vụ
Hướng chú ý của học sinh
vào giáo vên, quyền uy của
giáo viên
12. Đề cao những phẩm
chất mong muốn của hành
vi hợp nhiệm vụ.
Làm nhiễu quá trình học tập,
phân tán sự chú ý ra khỏi

nhiệm vụ.
Hiện nay đa số giáo viên sử dụng khen, phạt chưa đúng mức chưa xác
đáng, lạm dụng điểm số, dựa vào sự hài lòng hay không hài lòng của
mình.
- Những hành vi đáp lại có ảnh hưởng dương tính (duy trì gợi mở,
phát huy suy nghĩ, hành động của học sinh). Có 4 loại sau:
* Giữ im lặng một lát hay chờ đợi hành vi của học sinh.
+ Sau khi nêu câu hỏi, yêu cầu cho học sinh, giáo viên chờ 1-2 giây trẻ
có xu hướng trả lời cụt lủn. Nếu thời gian chờ đợi tăng lên trẻ trả lời câu
hoàn chỉnh hơn, đầy đủ hơn, có suy nghĩ và chín chắn hơn.
+ Sự chờ đợi làm học sinh thấy giáo viên mong chờ hành động thực
hiện nhiệm vụ của học sinh, tin tưởng vào khả năng của trẻ, tạo tâm
trạng bình tĩnh, sâu lắng để học sinh yên tâm suy nghĩ.
+ Hành vi này đơn giản, tiện sử dụng. Để sử dụng hành vi có hiệu quả,
trước đó giáo viên đặt câu hỏi, giao nhiệm vụ phải rõ ràng, sinh động,
hướng vào số đông học sinh.
-Những qui tắc chung của hành vi chờ đợi:
Dùng sau khi giao nhiệm vụ, câu hỏi nêu vấn đề, tương đối phức tạp,
cho số đông học sinh.
Khoảng chờ đợi tăng theo chiều giảm của lứa tuổi học sinh.
Không chờ đợi quá một phút cho mỗi lần hỏi đáp, tương tác.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×