Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

THỰC TRẠNG MỞ RỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO Ở NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.63 KB, 38 trang )

THỰC TRẠNG MỞ RỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO Ở NGÂN
HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI VIỆT NAM.
2.1. NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI VIỆT NAM
2.1.1. Quá trình hình thành của NHCSXH Việt nam:
Trải qua nhiều thập kỷ đấu tranh và phát triển, tuy nhiệm vụ cách mạng trong
các thời kỳ có khác nhau, nhưng xoá đói giảm nghèo và thực hiện công bằng xã hội
luôn là một trong những nhiệm vụ và chính sách kinh tế, xã hội cơ bản, được Đảng và
Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, thể hiện bản chất của chế độ ta, là một bộ phận quan
trọng góp phần thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển bền vững.
Nhận thức được tầm quan trọng của vốn trong việc phá vỡ vòng luẩn quẩn của
đói nghèo, nhiều chương trình và chính sách của Nhà nước để đưa vốn tới hộ nghèo
đã được thực hiện, chẳng hạn: Cho vay theo kế hoạch của Nhà nước do các NHTM
Nhà nước và Quỹ Hỗ trợ phát triển thực hiện; Chương trình cho vay Xoá đói giảm
nghèo thực hiện cấp vốn thông qua NHNo và các chương trình lồng ghép khác do các
Bộ, ngành và tổ chức chính trị xã hội cùng thực hiện; Chương trình cho vay giải quyết
việc làm, phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, hỗ trợ vùng sâu, xa do Bộ LĐ, TB&XH
quản lý và Kho bạc Nhà nước thực hiện cho vay… Việc triển khai các chương trình
này đã góp phần thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo, tuy nhiên còn nhiều hạn chế,
tiêu biểu là:
Thứ nhất, các món vay đều mang tính chất ưu đãi với lãi suất thấp hơn lãi suất
thị trường theo quy định của Chính phủ, không đủ để trang trải chi phí cần thiết của
các ngân hàng và các chương trình. Hộ nghèo chỉ có thể nhận vốn một vài lần, không
đủ để thoát nghèo dẫn đến lãng phí vốn. Vốn rẻ gây ra các hậu quả tiêu cực trong quá
trình xét duyệt cho vay.
Thứ hai, tất cả các chương trình đều nhằm mục tiêu đưa đồng vốn đến tay hộ
nghèo nhưng lại được thực hiện thông qua rất nhiều kênh khác nhau (NHTM, các tổ
chức chính trị, xã hội, tổ chức phi Chính phủ nước ngoài…) dẫn đến các nguồn vốn bị
chồng chéo, phân tán, thậm chí cản trở lẫn nhau. Nhiều đối tượng được hưởng vốn ưu đãi
từ nhiều nguồn khác nhau dẫn đến sử dụng vốn lãng phí, sai mục đích trong khi một số
đối tượng khác không tiếp cận được với vốn ưu đãi này.
Thứ ba, sự trộn lẫn cho vay chính sách và cho vay theo cơ chế thị trường đã tạo


nên sự hạn chế rất lớn trong các NHTM. Phụ thuộc, bị động vào chính sách của Chính
phủ đã làm giảm tính năng động của các ngân hàng. Tự chịu trách nhiệm đến cùng –
yếu tố quan trọng để đảm bảo tính hiệu quả của hoạt động cho vay – bị giảm sút trong
cho vay chính sách. Nhiều khoản cho vay không phải chính sách, song khi không thu
được vốn lại chuyển thành cho vay chính sách…
Theo sáng kiến của NHNo, tháng 3/1995, Quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo được
thành lập, với số vốn ban đầu là 400 tỷ đồng từ vốn góp của ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn Việt Nam, ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và các tổ chức
khác của Nhà nước. Quỹ được sử dụng để cho vay hộ nghèo thiếu vốn sản xuất kinh
doanh với lãi suất ưu đãi, thấp hơn lãi suất cho vay của NHTM, thủ tục vay vốn đơn
giản, hộ vay không phải thế chấp tài sản. Từ kết quả hoạt động thực tế của Quỹ cho
thấy cần phải có một tổ chức tín dụng của Nhà nước thực hiện nhiệm vụ cho vay đối
với hộ nghèo thiếu vốn. Do vậy, tháng 8/1995, NHNg được thành lập và đi vào hoạt
động, vốn điều lệ 500 tỷ đồng và huy động các nguồn vốn khác để uỷ thác qua ngân
hàng NHNo cho hộ nghèo vay vốn với lãi suất ưu đãi, không phải thế chấp, cầm cố tài
sản, thủ tục cho vay đơn giản thông qua tổ vay vốn ở các xã, phường.
Hàng triệu người nghèo được hỗ trợ vốn sản xuất, tạo công ăn việc làm, tăng
thu nhập, cải thiện đời sống, làm quen với các dịch vụ ngân hàng. Tính ưu việt trong
hoạt động của NHNg thể hiện:
- Khả năng huy động vốn cho mục tiêu xóa đói giảm nghèo được xác lập. Ngân
hàng đã huy động được một lượng vốn đáng kể, đặc biệt vốn từ ngân sách địa
phương để cho vay hộ nghèo
- Điều kiện vay vốn được nới rộng, hộ vay không phải thế chấp tài sản hoặc xây
dựng các dự án vay vốn. Hộ có thể vay đến 100% nhu cầu vốn cho sản xuất
kinh doanh mà không yêu cầu phải có vốn chủ sở hữu tham gia như các NHTM
khác.
- Nâng cao vai trò kiểm soát thông qua điều hành của Hội đồng quản trị từ trung
ương đến địa phương và qua việc bình xét đối tượng được vay vốn của các tổ
chức cộng đồng.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, NHNg trong quá trình cung ứng vốn cho

hộ nghèo đã bộc lộ một số hạn chế sau đây:
Thứ nhất, là một tổ chức tín dụng Nhà nước, có tư cách pháp nhân, song NHNg
mới chỉ hoạt động như một quỹ ưu đãi, giao điều hành tác nghiệp cho NHNo nên tổ
chức quản lý và tác nghiệp đều theo hình thức kiêm nhiệm, phân định trách nhiệm
không rõ ràng, cán bộ ngân hàng cơ sở coi trọng nhiệm vụ kinh doanh (là nhiệm vụ
của NHNo) mà chưa quan tâm đúng mức đến nhiệm vụ cho vay hộ nghèo. Đến cuối
năm 2002, cả nước vẫn cón 92 xã, phường chưa có quan hệ vay vốn với NHNg (xã
trắng), trong đó có 35 xã thuộc vùng sâu, xa và 57 xã, phường ở khu vực thành thị.
Nguyên nhân của những ‘xã trắng’ này là:
- Đó là các xã ở vùng sâu, xa, dân trí thấp, hạ tầng cơ sở yếu kém, có nơi vẫn
chưa có đường giao thông đến xã nên nhiều hộ nghèo chưa có điều kiện tiếp
cận vốn.
- Số lượng hộ nghèo ngày càng tăng, món vay nhỏ, lại ở vùng xa nên xảy ra tình
trạng quá tải trong công việc, vượt quá khả năng của cán bộ tín dụng. Mặt khác,
chưa có chính sách thoả đáng đối với số cán bộ này, điều kiện làm việc khó
khăn.
Thứ hai, bản chất NHNg là một ngân hàng, song vốn đưa vào hoạt động chủ
yếu là vốn ưu đãi, khả năng tài chính của ngân hàng chưa bền vững nên việc huy động
vốn trong dân cư rất hạn chế nên ngân hàng phải phụ thuộc vào sự hỗ trợ của Nhà
nước. Hơn nữa, trong cơ cấu vốn thì vốn trung hạn chiếm 35% trong khi đó sử dụng
vốn thể hiện qua dư nợ cho vay trung hạn chiếm tới 77,6% đã ảnh hưởng đến khả
năng hoàn trả vốn và mở rộng cho vay của ngân hàng.
Thứ ba, về xác định đối tượng được vay vốn. Ngân hàng không tự xác định
danh sách hộ nghèo mà dựa vào UBND các địa phương nhằm lựa chọn các hộ nghèo
để cho vay. Điều này dẫn đến danh sách thường đơn thuần chỉ là danh sách hộ nghèo,
trong đó có nhiều hộ nghèo không có năng lực và điều kiện tổ chức sản xuất, hộ
nghèo thuộc diện cứu trợ xã hội…Về nguyên tắc, trên cơ sở danh sách hộ nghèo,
NHNg có thể thẩm định lại và từ chối cho những hộ không phù hợp vay vốn nhưng
trên thực tế danh sách đưa lên được chấp nhận hết.
Với những kết quả và kinh nghiệm sau 7 năm hoạt động, trên cơ sở khắc phục

những tồn tại về mô hình tổ chức, quản lý và cơ chế hoạt động của NHNg, để thiết lập
một ngân hàng Chính sách của Chính phủ dành riêng cho thực hiện mục tiêu xoá đói
giảm nghèo phù hợp với điều kiện và thực tiễn Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ đã
ban hành Quyết định 131/2002/QĐ-TTg ngày 4/10/2002 về việc thành lập ngân hàng
Chính sách xã hội Việt Nam. NHCSXH được thành lập nhằm tập trung đầu mối huy
động vốn trong xã hội để cho vay đối tượng chính sách, phối hợp và lồng ghép có
hiệu quả với các dự án hỗ trợ xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân.
NHCSXH là tổ chức tín dụng Nhà nước, hoạt động không vì mục tiêu lợi
nhuận, được Nhà nước cấp, giao vốn và đảm bảo khả năng thanh toán; huy động vốn
có trả lãi hoặc tự nguyện không lấy lãi, vốn nhận uỷ thác của các tổ chức và cá nhân
trong và ngoài nước để uỷ thác hoặc trực tiếp cho vay ưu đãi đối với hộ nghèo và các
đối tượng chính sách khác.
Theo đó, là một pháp nhân, NHCSXH Việt Nam có bộ máy quản lý và điều
hành thống nhất trong phạm vi cả nước, ngân hàng có hệ thống giao dịch từ Trung
ương đến địa phương. Bộ phận điều hành tác nghiệp gồm có: Hội sở chính ở Trung
ương, Sở giao dịch và 61 chi nhánh cấp tỉnh, 575 Phòng giao dịch cấp huyện.
Sơ đồ 2: MÔ HÌNH TỔ CHỨC CỦA NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI VIỆT NAM
2.1.2. Các hoạt động cơ bản của NHCSXH Việt Nam:
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
THƯỜNG TRỰC HĐQT
BAN CHUYÊN GIA TƯ
VẤN HĐQT
BAN KIỂM SOÁT HĐQT
TỔNG GIÁM ĐỐC
(HỘI SỞ CHÍNH)
Đại diện HĐQT tỉnh,
thành phố
Chi nhánh tỉnh,
thành phố
Ban đại diện HĐQT quận,

huyện
Phòng giao dịch, chi nhánh
quận, huyện
Đơn vị nhận uỷ thác
Tổ tiết kiệm và vay vốn
Người vayNgười vayNgười vayNgười vay
2.1.2.1. Hoạt động huy động vốn:
Vốn của NHCSXH Việt nam được huy động từ:
Thứ nhất, vốn từ NSNN, bao gồm :
(1) Vốn Điều lệ
(2) Vốn cho vay xóa đói, giảm nghèo, tạo việc làm và thực hiện chính sách xã hội
khác
(3) Hàng năm, UBND các cấp được trích một phần từ nguồn tăng thu và tiết kiệm
chi ngân sách cấp mình
(4) Vốn ODA được Chính phủ giao.
Thứ hai, vốn huy động trên thị trường, bao gồm:
(1) Nhận tiền gửi có trả lãi của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước trong
phạm vi kế hoạch hàng năm được duyệt.
(2) Tiền gửi của các tổ chức tín dụng Nhà nước: Các tổ chức tín dụng Nhà nước có
trách nhiệm duy trì dố dư tiền gửi tại NHCSXH để tạo nguồn. Hạn mức này
bằng 2% tổng dư nợ huy động bằng đồng Việt nam đến 31/12 năm trước đó
của các NHTM. Khoản tiền gửi này sẽ được NHCSXH trả lãi bằng lãi suất tính
trên cơ sở bình quân lãi suất huy động các nguồn vốn hàng năm của các tổ chức
tín dụng cộng phí huy động hợp lý do hai bên thỏa thuận. Do vậy, thực chất
nguồn này tương tự như nguồn ngân hàng tự huy động.
(3) Tiền gửi tự nguyện không lấy lãi của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
(4) Phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, chứng chỉ tiền gửi và các giấy
tờ có giá khác.
(5) Huy động tiết kiệm của người nghèo.
Thứ ba, vốn đi vay:

(1) Vay các tổ chức tài chính, tín dụng trong và ngoài nước.
(2) Vay từ Tiết kiệm Bưu điện, Bảo hiểm xã hội Việt nam
(3) Vay NHNN
Ngoài ra, NHCSXH còn huy động từ nguồn vốn đóng góp tự nguyện không hoàn
trả của các cá nhân, tổ chức kinh tế, tổ chức tài chính, tín dụng, tổ chức chính trị,
xã hội, các Hiệp hội, các Hội, các tổ chức phi Chính phủ trong và ngoài nước. Vốn
nhận ủy thác cho vay ưu đãi của chính quyền địa phương, các tổ chức kinh tế, các
tổ chức chính trị xã hội, tổ chức phi Chính phủ, Hiệp hội, Hội trong và ngoài
nước…
Trong giai đoạn mới đi vào hoạt động, do mục tiêu của NHCSXH thực hiện
cho vay theo lãi suất ưu đãi, ngoài vốn có nguồn gốc từ NSNN thì ngân hàng còn huy
động vốn trên thị trường theo lãi suất thị trường. Xuất phát từ tình hình thực tế chênh
lệch giữa lãi suất đầu vào huy động (lãi suất thị trường) với lãi suất đầu ra cho vay đến
các đối tượng khách hàng (lãi suất ưu đãi theo chương trình và quyết định của Chính
phủ). Chính vì vậy, về mặt nguyên tắc, NHCSXH sẽ không tự bù đắp được chi phí.
Do vậy, nảy sinh cơ chế cấp bù hàng năm. Quy định về cấp bù được thể hiện trong
Thông tư số 56/2003/TT-BTC ngày 9/6/2003, bao gồm cấp bù lãi suất và cấp bù chi
phí quản lý. Mức cấp bù chênh lệch lãi suất hàng năm được xác định trên cơ sở chênh
lệch lãi suất hòa đồng các nguồn vốn với lãi suất cho vay theo quy định và phần phí
quản lý được hưởng. Việc cấp bù được thực hiện theo phương thức tạm cấp hàng quý
theo kế hoạch và có điều chỉnh theo tình hình thực hiện của các quý trước trong phạm
vi dự toán ngân sách Nhà nước hàng năm bố trí cho mục tiêu này; số cấp bù chính
thức cả năm sẽ được xác định sau khi kết thúc năm tài chính. Kết thúc năm tài chính,
căn cứ số liệu quyết toán chính thức được Hội đồng quản trị phê duyệt, NHCSXH tính
toán lại số phải cấp bù cả năm kèm theo thuyết minh gửi Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch
và Đầu tư.
Hàng năm, NHCSXH có trách nhiệm cân đối nguồn vốn và nhu cầu vốn để
thực hiện cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác theo kế hoạch được
Chính phủ phê duyệt. Việc huy động vốn với lãi suất thị trường để cho vay phải đảm
bảo nguyên tắc chỉ huy động khi đã sử dụng tối đa các nguồn vốn không phải trả lãi

hoặc huy động với lãi suất thấp, trong đó, mức lãi suất được coi là thấp để so sánh là :
lãi suất bình quân + phí huy động <= lãi suất trả cho khoản tiền gửi 2% của các
NHTM. Việc huy động các nguồn vốn dưới mọi hình thức theo lãi suất thị trường đều
do Tổng Giám đốc NHCSXH quy định và giao chỉ tiêu huy động cho từng chi nhánh
để tổ chức thực hiện. Ngoài kế hoạch huy động do Tổng giám đốc giao, các chi nhánh
trong hệ thống được chủ động huy động các nguồn tiền gửi tự nguyện không trả lãi
hoặc lãi suất thấp để cho vay tại địa phương nhưng phải đảm bảo nguyên tắc bù đắp
chi phí hoạt động. Tóm lại, hiện nay, hoạt động huy động vốn mới chỉ dừng lại ở việc
nhận nguồn vốn có nguồn gốc từ NSNN, huy động từ tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước với hình thức nhận tiền gửi, tiết kiệm; còn việc huy động vốn thông qua thị
trường chứng khoán (phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, các giấy tờ có giá khác…) chưa
được thực hiện như các NHTM. NHCSXH vay vốn từ NHNN trên cơ sở kế hoạch vốn
hàng năm đã được Bộ Tài chính thông qua, đặc điểm khoản vay này là khoản vay
từng lần, không thường xuyên, thời hạn dài (thường là 5 năm), lãi suất ưu đãi (thông
thường ở mức 0,2%/tháng).
Kết quả hoạt động huy động vốn của ngân hàng đến 31/12/2003:
Tổng nguồn vốn đạt 10.550 tỷ đồng, tăng 3.561 tỷ đồng so với 31/12/2002.
Trong đó, tăng do nhận bàn giao chương trình cho vay giải quyết việc làm từ Kho bạc
Nhà nước và Quỹ đào tạo từ Ngân hàng Công thương Việt Nam là: 1.928 tỷ đồng; tăng
trưởng mới trong năm là 1.633 tỷ đồng. Kết cấu nguồn vốn như trong Bảng 1.
Bảng 1: CƠ CẤU VỐN CỦA NHNG VÀ NHCSXH
Đơn vị: Tỷ đồng
Cơ cấu vốn
Luỹ kễ các năm
1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003
Tổng vốn
Trong đó:
518 1.956 2.340 3.422 4.086 5.022 6.266 6.789 10.550
-Vốn điều lệ 0 500 500 700 700 700 1.015 1.015 1.517
- Vay NHNN 100 600 600 900 900 900 940 1.031 1.531

- Vay NHTM 332 423 796 1.283 2.103 2.910 3.696 4.097 3.043
- Vay nước
ngoài
0 221 221 221 0 89 151 154 158
- Nhận uỷ thác 86 183 199 289 349 385 412 443 535
- Huy động tiền
gửi, tiền tiết
kiệm
0 20 24 29 34 38 52 49 1.410
- Nguồn 120 Chưa nhận bàn giao chương trình này 1.996
- Nguồn cho
vay HS - SV
Chưa nhận bàn giao chương trình này 160
- Vốn cho vay
mua nhà trả
chậm..
Chưa thực hiện chương trình này 200
Nguồn: Báo cáo hàng năm của NHNg và NHCSXH.
Trong cơ cấu vốn của NHCSXH, đặc biệt có nguồn do các chi nhánh tự huy
động trên thị trường đạt 1.410 tỷ đồng (đạt trên 100% kế hoạch năm 2003). Đây là
bước tiến mới, khắc phục những hạn chế trong cơ chế tạo lập vốn của NHNg trước
đây (chủ yếu phụ thuộc vào nguồn do NSNN cấp và nguồn đi vay các NHTM), mở ra
triển vọng mới trong lĩnh cực hoạt động tín dụng của NHCSXH nhằm thực hiện
nghiệp vụ “đi vay để cho vay”.
Như vậy, so với thời điểm năm 1995, khi NHNg, tiền thân của NHCSXH, ra
đời và tiếp nhận nguồn từ quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo của NHNo 518 tỷ đồng thì
đến nay nguồn vốn đã tăng 10.032 tỷ đồng, phản ánh sự tăng trưởng phù hợp với quy
mô và phạm vi hoạt động.
2.1.2.2. Hoạt động sử dụng vốn:
Hoạt động sử dụng vốn chủ yếu của ngân hàng là cho vay các đối tượng chính

sách, bao gồm:
o Cho vay đối với hộ nghèo theo chuẩn mực do Bộ LĐ, TB&XH công bố từng
thời kỳ;
o Cho vay đối với sinh viên khó khăn đang học đại học, cao đẳng, trung học
chuyên nghiệp và học nghề;
o Cho vay giải quyết việc làm đối với các đối tượng là doanh nghiệp vừa và nhỏ,
hộ sản xuất;
o Cho vay các đối tượng chính sách đi lao động có thời hạn ở nước ngoài;
o Cho vay làm nhà đối với các hộ ở vùng ngập lũ thuộc các tỉnh Đồng bằng sông
Cửu Long và các hộ đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và các đối tượng
chính sách khác theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ…
Hoạt động cho vay của NHCSXH cũng dựa trên các nguyên tắc tín dụng
như các NHTM khác, đó là (i) người đi vay phải sử dụng vốn vay đúng mục
đích xin vay và (ii) người vay phải trả nợ đúng hạn cả gốc và lãi. Bên cạnh đó,
chính sách cho vay của ngân hàng cũng có những điểm khác như: các đối
tượng chính sách khi vay vốn ngân hàng không phải thế chấp tài sản, riêng đối
với hộ nghèo còn được miễn lệ phí làm thủ tục hành chính khi vay vốn.
Theo đó, các đối tượng khách hàng được toàn quyền sử dụng vốn vay vào các
lĩnh vực sản xuất kinh doanh dịch vụ, kể cả trong lĩnh vực tiêu dùng như: nhà cửa,
điện thắp sáng, nước sạch, học tập…là các lĩnh vực mà Nhà nước không cấm.
NHCSXH và các tổ chức có liên quan có trách nhiệm hướng dẫn các đối tượng chính
sách sử dụng vốn vay có hiệu quả.
Vốn vay được giải ngân theo phương thức uỷ thác giải ngân đối với những
đối tượng ở xa và cho vay trực tiếp. Uỷ thác qua các tổ chức tín dụng mà chủ yếu
là qua NHNo, các tổ chức chính trị xã hội (Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu
chiến binh…) nhằm mục tiêu đưa vốn đến đúng đối tượng chính sách và giảm
thiểu chi phí quản lý. Riêng cho vay đối với hộ nghèo vẫn sử dụng hình thức Tổ
tiết kiệm và vay vốn của NHNg trước đây. Tổ tiết kiệm và vay vốn được thành lập
trên cơ sở tự nguyện của những hộ nghèo có nhu cầu gửi tiền tiết kiệm và vay
vốn, quy chế tổ chức và hoạt động của tổ do Hội đồng quản trị ngân hàng ban

hành.
Mức cho vay tối đa căn cứ vào nhu cầu của khách hàng và dựa trên quy định
cho vay tối đa đối với từng đối tượng khách hàng của ngân hàng.
Lãi suất cho vay là lãi suất ưu đãi theo mức thống nhất trong toàn quốc theo
từng thời kỳ do Thủ tướng Chính phủ quy định. Cụ thể, người vay không phải thực
hiện đảm bảo tiền vay bằng tài sản, quy trình và thủ tục vay vốn đơn giản, được
miễn các lệ phí và hồ sơ vay vốn ngân hàng. Lãi suất vốn vay bằng khoảng 50% lãi
suất cho vay của các NHTM khác (lãi suất cho vay thông thường của NHCHXH là
0,5%/tháng; đối với hộ nghèo khu vực III miền núi hưởng lãi suất 0,45%/tháng; đối
với cho vay tạo việc làm nếu người vay vốn là thương, bệnh binh hoặc có sử dụng
lao động là thương, bệnh binh thì lãi suất là 0,35%/tháng).
Kết quả cho vay đến 31/12/2003, tổng dư nợ đạt: 10.348 tỷ đồng, tăng so với
31/12/2002 là 3.326 tỷ đồng, trong đó dư nợ nhận bàn giao từ chương trình cho vay
giải quyết việc làm và cho vay học sinh – sinh viên là 1.609 tỷ đồng, tăng trưởng dư
nợ trong năm là 1.717 tỷ đồng. Kết cấu dư nợ như sau:
Bảng 2: DƯ NỢ CHO VAY CÁC ĐỐI TƯỢNG CHÍNH SÁCH CỦA
NHNG VÀ NHCSXH
Đơn vị: Tỷ đồng
TT Các chương trình, dự án Dư nợ qua các năm
1995 2000 2003 Luỹ kế
Tổng số 489 4.704 10.348 10.348
1 Cho vay hộ nghèo 489 4.704 8.272 8.272
2 Cho vay học sinh – sinh viên - - 88 88
3 Cho vay chương trình 120 - - 1.940 1.940
4 Cho vay Xuất khẩu lao động - - 5 5
5 Cho vay trả chậm. nhà ở - - 43 43
Nguồn: Báo cáo hàng năm của NHNg và NHCSXH.
Trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng, dư nợ cho vay hộ nghèo đạt 8.272 tỷ
đồng, tăng 1.250 tỷ đồng so với 31/12/2002 đạt 125% kế hoạch năm 2003. Trong đó:
+ Uỷ thác qua NHNo: 6.617 tỷ đồng, tăng 267 tỷ đồng so với 31/12/2002;

+ NHCSXH trực tiếp uỷ thác qua các tổ chức chính trị – xã hội tại địa bàn thành phố,
thị xã và một số huyện (triển khai từ tháng 5/2003): 1.655 tỷ đồng, tăng 983 tỷ đồng
so với thời điểm nhận bàn giao từ NHNo.
Cơ cấu dư nợ cho vay (i) dư nợ cho vay ngắn hạn chiếm 21% (2.159 tỷ đồng)
(ii) dư nợ cho vay trung và dài hạn chiếm 79% (8.189 tỷ đồng).
Sau 8 năm hoạt động, NHNg và nay là NHCSXH tình hình sử dụng vốn đã có
sự thay đổi đáng kể với việc tăng lên không ngừng về tổng dư nợ của các chương
trình, phù hợp với sự tăng lên về kết cấu nguồn vốn của NHCSXH trong giai đoạn
mới.
Nhìn chung, mức vốn cho vay đến hộ nghèo tuy nhỏ nhưng thời hạn cho vay
hợp lý. lãi suất cho vay ưu đãi đã giúp các đối tượng chính sách phát huy tiềm năng
sẵn có về tài nguyên, đất đai, sức lao động cũng như kinh nghiệm sản xuất. Thông qua
các món vay này đã giúp hơn 50 ngàn lượt học sinh, sinh viên có cơ hội học hành,
hơn 8 triệu lượt hộ nghèo có vốn sản xuất và hơn 4 triệu lao động có việc làm mới. Về
chất lượng, vốn của NHCSXH đã góp phần làm chuyển biến nhận thức của đại bộ
phận người nghèo cũng như các đối tượng chính sách khác, họ biết tính toán hiệu quả
kinh tế, biết áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất để nâng cao năng suất lao
động, tăng thu nhập, cải thiện đời sống.
Ngoài hai hoạt động chính trên, NHCSXH cung cấp dịch vụ bảo lãnh, tư vấn
đầu tư, thanh toán…Là ngân hàng chuyên doanh nên các hoạt động khác của ngân
hàng ít đa dạng so với NHTM khác.
2.2. THỰC TRẠNG CHO VAY ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO Ở NHCSXH VIỆT NAM
2.2.1. Các đặc điểm của hộ nghèo ở Việt Nam:
Các số liệu điều tra Mức sống dân cư Việt nam 1992-1993 do Thụy Điển, WB
và UNDP tài trợ đã cho thấy hơn 60% số dân sống dưới ngưỡng nghèo quốc tế. Nhờ
những nỗ lực giảm nghèo của quốc gia kết hợp với những thành tựu đem lại từ hội
nhập kinh tế quốc tế đã đưa con số này xuống còn 32% vào năm 2000. Xét theo tiêu
chuẩn nghèo của Việt nam, con số này giảm từ 30% năm 1992 xuống còn 17% năm
2000 và 12% năm 2003. Tỷ lệ nghèo đói về lương thực cũng giảm từ 25% xuống còn
15%. Điều này cho thấy thậm chí bộ phận nghèo nhất của dân số cũng đã nâng cao

đáng kể mức sống trong thời kỳ này. Về mức độ cải thiện mức sống của các thành
viên trong xã hội, kết quả điều tra cho thấy giảm nghèo ở Việt nam trong giai đoạn từ
1990 trở lại đây diễn ra cả ở thành thị và nông thôn. Cụ thể, tỷ lệ dân số sống dưới
ngưỡng nghèo đói chung giảm từ 66% xuống còn 45% ở khu vực nông thôn và từ
25% xuống còn 9% ở khu vực thành thị. Trên bình diện cả nước, nghèo đói đã giảm ở
tất cả các vùng, mặc dù mức độ giảm chưa cân bằng, giai đoạn 1993-1998, nghèo đói
giảm mạnh ở vùng Đông Nam bộ và đồng bằng sông Hồng, trong khi tốc độ này chậm
hơn ở vùng núi phía Bắc và đồng bằng sông Cửu Long.
Chuẩn nghèo của Việt nam do Bộ LĐ, TB&XH công bố từng thời kỳ và dựa
trên các căn cứ cơ bản: (i) mức sống trung bình của dân cư, trong đó tiêu chí thu nhập
bình quân đầu người là quan trọng nhất; (ii) cơ cấu chi tiêu của dân cư mà trước hết là
chi tiêu cho lương thực và thực phẩm và (iii) khả năng của nền kinh tế, cụ thể là khả
năng huy động các nguồn lực (đặc biệt là NSNN cho công tác xóa đói giảm nghèo).
Theo đó, các mức chuẩn nghèo đã được công bố 4 lần (năm 1993, 1996, 1997 và năm
2001). Trong giai đoạn 2001-2005, hộ nghèo là hộ:
- Ở vùng nông thôn miền núi có thu nhập bình quân đầu người dưới 80 nghìn
đồng/người/tháng;
- Ở vùng nông thôn đồng bằng là hộ có thu nhập bình quân đầu người dưới 100
nghìn đồng/người/tháng;
- Ở vùng thành thị là hộ có thu nhập bình quân đầu người dưới 150 nghìn
đồng/người/tháng.
Ngoài ra, Chính phủ còn khuyến khích các địa phương có thể tính toán và sử dụng
chuẩn nghèo cao hơn chuẩn của quốc gia, nếu có đủ 3 điều kiện (i) thu nhập bình quân
đầu người cao hơn thu nhập bình quân chung của cả nước; (ii) có tỷ lệ đói nghèo thấp
hơn tỷ lệ bình quân chung của cả nước và (iii) có đủ nguồn lực cho giải pháp hỗ trợ
xóa đói giảm nghèo của mình. Đến cuối năm 2002, cả nước đã có 11 tỉnh, thành phố
sử dụng chuẩn nghèo riêng, cao hơn chuẩn nghèo chung.
Một cách tổng quát, có thể xác định hộ nghèo ở Việt Nam dựa trên một số đặc
điểm sau:
Thứ nhất, hộ nghèo thường là những hộ gia đình lớn, đặc biệt là các hộ có

nhiều trẻ em và người già hoặc không có vợ hoặc chồng. Hộ có nhiều trẻ em không
những phải trả chi phí cho giáo dục cao hơn, hay phải chịu thêm các chi phí khám
chữa bệnh mà còn có ít lao động hơn so với số miệng ăn trong gia đình.
Thứ hai, hộ nghèo thường tập trung ở các nhóm dân tộc thiểu số. Ngay cả khi
mọi điều kiện khác giống nhau, chi tiêu của một người thuộc dân tộc thiểu số thấp hơn
chi tiêu của một người thuộc hộ người Kinh hoặc người Hoa là 13%. Ở những vùng
định cư của các dân tộc thiểu số thường đất đai không thuận lợi cho sản xuất nông
nghiệp, ít được tiếp cận các dịch vụ xã hội, “đói thông tin” được coi là nhân tố cản trở
sự hội nhập của các dân tộc này vào quá trình phát triển kinh tế, xã hội nói chung.
Không những thế, bản thân các hộ dân tộc thường có nhiều con hơn các hộ khác, trình
độ học vấn của chủ hộ và của vợ hoặc chồng cũng thấp hơn. Khoảng 15% dân tộc
thiểu số của Việt Nam sống ở vùng Bắc trung bộ và Duyên hải miền Trung hoặc Đông
Nam bộ, trong đó khoảng 3/4 trong nhóm này có mức tiêu dùng dưới ngưỡng nghèo
và được cải thiện rất ít trong thập kỷ qua.
Thứ ba, hộ nghèo thường là hộ mà các thành viên trong đó có trình độ học vấn
thấp, họ thiếu kinh nghiệm, không có khả năng và năng lực để áp dụng những kỹ thuật
canh tác mới. Khoảng 90% số người nghèo là những người chỉ có trình độ phổ thông
cơ sở hoặc thấp hơn, trong khi đó chỉ có 4% người có trình độ đại học là người nghèo.
Thứ tư, hộ nghèo thường là những hộ di cư từ nông thôn lên thành thị. Nếu
nghèo ở nông thôn tập trung ở nhóm dân tộc thiểu số thì nghèo ở đô thị có xu hướng
tập trung ở những người di cư. Họ dễ bị loại ra không được hưởng những lợi ích mà
hộ nghèo có hộ khẩu được hưởng (thẻ khám chữa bệnh, miễn học phí, tiếp cận các
chương trình giáo dục chung…). Họ gặp trở ngại về hành chính khi mua nhà hay đăng
ký địa chỉ chính thức, do vậy họ dễ bị tác động trong những trường hợp phát triển đô
thị đòi hỏi giãn dân.
Thứ năm, mặc dù bộ phận dân cư thoát nghèo đã tăng dần ở Việt Nam nhưng
nhiều hộ vẫn có nguy cơ tái nghèo nếu gặp phải những đột biến bất lợi: bệnh tật hoặc tai
nạn nghề nghiệp, đặc biệt nếu xảy ra với người kiếm thu nhập chính trong hộ; mất mùa

×