Lý luận chung về dự án đầu tư tín dụng đầu tư
phát triển và rủi ro.
I. Đầu tư :
1. Khái niệm :
Đầu tư theo nghĩa rộng, là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành
các hoạt động nào đó nhằm thu về cho nhà đầu tư các kết quả nhất định
trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó.
Nguồn lực của hoạt động đầu tư tạo ra có thể là sự tăng them các tài sản tài
chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy,đường sá, các của cả vật chất
khác…), tài sản trí tuệ (trình độ văn hóa, chuyên môn, khoa học kỹ
thuật…) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc với năng suất cao
hơn trong nền sản xuất xã hội.
2. Phân loại :
Có nhiều cách phân loại hoạt động đầu tư, tuy nhiên xuất phát từ bản chất
và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại, có thể phân chia thành 3 loại hình đầu
tư cơ bản : đầu tư tài chính, đầu tư thương mại, đầu tư phát triển.
II. Dự án đầu tư :
1. Khái niệm :
Dự án đầu tư có thể được xem xét từ nhiều góc độ như về mặt hình thức,
góc độ quản lý, kế hoạch hóa hay xem xét về mặt nội dung thì có những
khái niệm khác nhau ứng với mỗi góc độ đó :
- Là tập hợp các hoạt động nhằm thực hiện một mục tiêu nhất định, trong
quá trình thực hiện mục tiêu đó cần có các đầu vào và kết quả thu được
là các đầu ra.
- Là một lĩnh vực haotj động đặc thù, một nhiệm vụ cụ thể cần phải được
thực hiện với phương pháp riêng, nguồn lực riêng và theo một kế hoạch
tiến độ nhằm tạo ra một thực thể mới.
- Dự án là những nỗ lực có hạn nhằm tạo ra một sản phẩm hoặc một dịch
vụ nhất định
Ở Việt Nam, khái niệm về dự án được thể hiện ở các văn bản pháp quy.
Nghị định 52/1999/NĐ-CP đã xác định : “ Dự án đầu tư” là tập hợp những
đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo
những cơ sở vật chất nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng
hoặc duy trì, cải tiến,nâng cao chất lượng sản phẩm hoặc dịch vụ trong
khoảng thời gian xác định.
2. Chu kỳ của dự án :
Chu kỳ của dự án đầu tư là các bước hoặc các giai đoạn mà một dự án phải
trải qua, bắt đầu từ khi dự án mới chỉ là ý đồ đến khi dự án được hoàn
thành cà chấm dứt hoạt động.
Ta có thể minh hoạ chu kỳ của dự án theo sơ đồ sau đây:
ý đồ về dự
án đầu tu
Sản xuất
kinh
doanh
Thực hiện
đầu tư.
Chuẩn bị
đầu tư
ý đồ về dự án
mới
* Giai đoạn chuẩn bị đầu tư :
- Nghiên cứu về sự cần thiết phải đầu tư và quy mô đầu tư
- Tiến hành tiếp xúc, thăm dò thị trường trong nước và ngoài nước để xác
định nhu cầu tiêu thụ, khả năng cạnh tranh của sản phẩm, tìm nguồn cung
ứng thiết bị, vật tư cho sản xuất, xem xét khả năng về nguồn vốn đầu tư và
lựa chọn hình thức đầu tư.
- Tiến hành điều tra, khảo sát, và chọn địa điểm xây dựng
- Lập dự án đầu tư
- Gửi hồ sơ dự án và văn bản trình người có thẩm quyền quyết định đầu tư,
tổ chức cho vay vốn đầu tư và cơ quan thẩm định dự án đầu tư.
* Giai đoạn thực hiện đầu tư:
- Xin giao hoặc thuê đất (đối với dự án sử dụng đất)
- Xin giấy phép xây dựng(nếu yêu cầu phải có giấy phép xây dựng ) và
giấy phép khai thác tài nguyên (nếu có khai thác tài nguyên)
- Thực hiện việc đền bù giải phóng mặt bằng, thực hiện kế hoạch tái định
cư và phục hồi, chuẩn bị mặt bằng xây dựng
- Mua sắm thiết bị và công nghệ
Hình 1.1: Chu kì của dự án đầu tư.
- Thực hiện việc khảo sát, thiết kế xây dựng
- Thẩm định, phê duyệt thiết kế và tổng dự toán, dự toán công trình.
- Tiến hành thi công xây lắp
- Kiểm tra và thực hiện hợp đồng
- Quản lý kỹ thuật, chất lượng thiết bị và chất lượng xây dựng
- Vận hành thử, nghiệm thu, quyết toán vốn đầu tư, bàn giao và thực hiện
bảo hành sản phẩm.
* Giai đoạn kết thúc đầu tư :
- Nghiệm thu bàn giao công trình
- Thực hiện việc kết thúc xây dựng công trình
- Vận hành công trình và hướng dẫn sử dụng công trình
- Bảo hành công trình
- Quyết toán vốn đầu tư
- Phê duyệt quyết toán
- Hoàn trả vốn đầu tư
Quá trình nghiên cứu, soạn thảo một dự án đầu tư được thực hiện theo từng
giai đoạn rất cẩn thận nhưng không thể tránh khỏi những sai sót nhất định.
Do đó, chúng ta cần phải có một quy trình đánh giá rủi ro trước khi cho vay
vốn dự án thích hợp nhằm phát hiện ra những sai sót để có biện pháp khắc
phục, đảm bảo tính khả thi của dự án.
2. Các nguồn vốn cho dự án :
2.1. Nguồn vốn trong nước
* Nguồn vốn nhà nước :
- Vốn ngân sách : Được hình thành từ nguồn thu thuế và nguồn thu khác
cộng với tiết kiệm chi cho ngân sách. Đây là nguồn có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng cho các đơn vị hoạt động đầu tư trong nước. Nguồn này hiện
nay chủ yếu được tập trung cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế và
xó hội, đầu tư phát triển một số công trình then chốt. Bảo đảm vai trò chủ
đạo của kinh tế quốc doanh trong nền kinh tế.
Đây chính là nguồn chi của ngân sách Nhà nước cho đầu tư. Đó là một
nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lựơc phát triển kinh tế - xã hội
của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này thường được sử dụng cho các dự án kết
cấu kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, hỗ trợ cho các dự án của doanh
nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự tham gia của Nhà nước, chi cho các công
tác lập và thực hiện các quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng,
lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn.
- Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước: Cùng với quá trình đổi
mới và mở cửa, tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ngày càng đóng
vai trò đáng kể trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn vốn tín
dụng đầu tư phát triển của Nhà nước có tác dụng tích cực trong việc giảm
đáng kể việc bao cấp vốn trực tiếp của Nhà nước. Với cơ chế tín dụng, các
đợn vị sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay.
Chủ đàu tư là người vay vốn phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết
kiệm hơn. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là một hình thức
quá độ chuyển từ hình thức cấp phát ngân sách sang phương thức tín dụng
đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp.
- Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp Nhà nước: Được xác định là thành
phần chủ đạo trong nền kinh tế, các doanh nghiệp Nhà nước vẫn nắm giữ
một khối lượng vốn khá lớn. Mặc dù vẫn còn một số hạn chế nhưng đánh
giá một cách công bằng thì khu vực thì khu vực kinh tế Nhà nước với sự
tham gia của các doanh nghiệp Nhà nước vẫn đóng một vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế nhiều thành phần.Với chủ trương tiếp tục đổi mới doanh
nghiệp Nhà nước, hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế này ngày càng
được khẳng định, tích luỹ của các doanh nghiệp Nhà nước ngày càng gia
tăng và đóng góp đáng kể vào tổng quy mô vốn đầu tư của toàn xã hội.
* Nguồn vốn từ khu vực tư nhân.
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần
tích luỹ của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Theo đánh giá sơ
bộ, khu vực kinh tế ngoài Nhà nước vẫn sở hữu một lượng vốn tiềm năng
rất lớn mà cuă được huy động triệt để.
Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, một bộ phận không nhỏ
trong dân cư có tiềm năng về vốn do có nguồn thu nhập gia tăng hay do
tích luỹ tryuền thống. Nhìn tổng quan nguồn vốn tiềm năng trong dân cư
không phải là nhỏ, tồn tại dưới dạng vàng, ngoại tệ, tiền mặt ,nguồn vốn
này xấp xỉ bằng 80% tổng nguồn vốn huy động của toàn bộ hệ thống ngân
hàng. Vốn của dân cư phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia
đình. Quy mô của các nguồn tiết kiệm này phụ thuộc vào:
- Trình độ phát triển của đất nước (ở những nước có trình độ phát triển
thấp thường có quy mô và tỷ lệ tiết kiệm thấp).
+ Tập quán tiêu dùng của dân cư.
+ Chính sách động viên của Nhà nước thông qua chính sách thuế thu
nhập và các khoản đóng góp với xã hội.
2.1. Nguồn vốn nước ngoài.
Có thể xem xét nguồn vốn đầu tư nuớc ngoài trên phạm vi rộng hơn đó
là dòng lưu chuyển vốn quốc tế (international capital flows). Về thực chất,
các dòng lưu chuyển vốn quốc tế là biểu thị quá trình chuyển giao nguồn
lực tài chính giữa các quốc gia trên thế giới. Trong các dòng lưu chuyển
vốn quốc tế, dòng từ các nước phát triển đổ vào các nước đang phát triển
thường được các nước thế giới thứ ba đặc biệt quan tâm. Dòng vốn này
diễn ra với nhiều hình thức. Mỗi hình thức có đặc điểm, mục tiêu và điều
kiện thực hiện riêng, không hoàn toàn giống nhau. Theo tính chất lưu
chuyển vốn, có thể phân loại các nguồn vốn nước ngòai chính như sau:
- Tài trợ phát triển vốn chính thức (ODF - official development finance).
Nguồn này bao gồm: Viện trợ phát triển chính thức (ODA -offical
development assistance) và các hình thức viện trợ khác. Trong đó, ODA
chiếm tỷ trọng chủ yếu trong nguồn ODF;
- Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại;
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài;
- Nguồn huy động qua thị trường vốn quốc tế.
* Nguồn vốn ODA.
Đây là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ
nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So với
các hình thức tài trợ khác, ODA mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ nguồn
vốn ODF nào khác. Ngoài các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay
tương đối lớn, bao giờ trong ODA cũng có yếu tố không hoàn lại (còn gọi
là thành tố hỗ trợ) đạt ít nhất 25%.
Mặc dù có tính ưu đãi cao, song sự ưu đãi cho loại vốn này thường di
kèm các điều kiện và ràng buộc tương đối khắt khe (tính hiệu quả của dự
án, thủ tục chuyển giao vốn và thị trường…). Vì vậy, để nhận được loại tài
trợ hấp dẫn này với thiệt thòi ít nhất, cần phải xem xét dự án trong điều
kiện tài chính tổng thể. Nếu không việc tiếp nhận viện trợ có thể trở thành
gánh nặng nợ nần lâu dài cho nền kinh tế. Điều này có hàm ý rằng, ngoài
những yếu tố thuộc về nội dung dự án tài trợ, còn cần có nghệ thuật thoả
thuận để vừa có thể nhận vốn, vừa bảo tồn được những mục tiêu có tính
nguyên tắc.
* Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại.
Điều kiện ưu đẫi dành cho loại vốn này không dễ dàng như đối với
nguồn vốn ODA. Tuy nhiên, bù lại nó có ưu điểm rõ ràng là không có gắn
với các ràng buộc về chính trị, xã hội. Mặc dù vậy, thủ tục vay đối với
nguồn vốn này thường là tương đối khắt khe, thời gian trả nợ nghiêm ngặt,
mức lãi suất cao là những trở ngại không nhỏ đối với các nước nghèo.
Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng
trong kinh doanh ngân hàng (tính rủi ro ở nước đi vay, của thị trường thế
giới và xu hướng lãi suất quốc tế), nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng
thương mại thường được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và
thường là ngắn hạn. Một bộ phận của nguồn vốn này có thể được dùng để
đầu tư phát triển. Tỷ trọng của nó có thể gia tăng nếu triển vọng tăng
trưởng của nền kinh tế là lâu dài, đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu của
nước đi vay là sáng sủa.
* Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài có đặc điểm cơ bản khác nguồn vốn
nước ngoài khác là việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho
nước tiếp nhận. Thay vì nhận lãi suất trên vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận
được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào
nước nhận vốn nên có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là
những ngành đòi hỏi cao về trình độ kỹ thuật, công nghệ hay cần nhiều
vốn. Vì thế nguồn vốn này có tác dụng cực kỳ to lớn đối với quá trình công
nghiệp hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng nhanh ở các
nước nhận đầu tư .
* Thị trường vốn quốc tế.
Với xu hướng toàn cầu hoá, mối liên kết ngày càng tăng của các thị
trường vốn quốc gia vào hệ thống tài chính quốc tế đã tạo nên vẻ đa dạng
vế các nguồn vốn cho mỗi quốc gia và làm tăng khối lượng vốn lưu chuyển
trên phạm vi toàn cầu. Ngay tại nhiều nước đang phát triển, dòng vốn đầu
tư qua thị trường chứng khoán cũng gia tăng mạnh mẽ. Mặc dù vào nửa
cuối những năm 1990, có sự xuất hiện của một số cuộc khủng hoảng tài
chính nhưng đến cuối năm 1999 khối lượng giao dịch chứng khoán tại các
thị trường mới nổi vẫn đáng kể. Riêng năm 1999, dòng vốn đầu tư dưới
dạng cổ phiếu vào Châu á đã tăng gấp 3 lần năm 1998, đạt 15 tỷ USD.
Để đảm bảo tiến độ thực hiện đầu tư của dự án, vừa để tránh ứ đọng vốn,
nên các nguồn tài trợ cần được xem xét không chỉ về mặt số lượng mà về
cả thời điểm nhận được tài trợ.
Phải so sánh nhu cầu về vốn với khả năng đảm bảo vốn cho dự án từ các
nguồn về số lượng và tiến độ thông qua lập bảng cân đối vốn đầu tư.
III. Đặc điểm và vai trò của tín dụng đầu tư phát triển với nền
kinh tế:
1. Khái niệm :
Tín dụng đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng vốn tín dụng nhằm tiến
hành các hoạt động tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các cơ sở
vật chất kỹ thuật nhằm duy trì các tiềm lực sẵn có, làm tăng tài sản mới và
năng lực sản xuất mới cho các cơ sở sản xuất kinh doanh nói riêng và nền
kinh tế nói chung.
Đối với các doanh nghiệp khi nguồn vốn tự có hay vốn huy động không đủ
tài trợ cho việc triển khai dự án thì họ sẽ sử dụng vốn tín dụng Ngân hàng.
Vốn này được huy động qua các trung gian tàì chính là hệ thống Ngân hàng
và các tổ chức tín dingj sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp khi vay vốn
tín dụng Ngân hàng để triển khai các dự án đầu tư của mình, trong quá
trình vận hành phát huy tác dụng cần thu hồi đủ vốn để hoàn trả vốn đầu tư
ban đầu và đem lại lợi ích cho chủ đầu tư.
2. Đặc điểm của tín dụng ĐTPT :
- Tín dụng đầu tư phát triển có sự tham gia của các Ngân hàng vào dự án
đầu tư. Điều này thể hiện ở chỗ khi doanh nghiệp muốn vay vốn tín
dụng để đầu tư họ phải có dự án và dự án đó được Ngân hàng thẩm định
trước khi cho vay. Khác với hoạt động đầu tư bằng vốn tự có, doanh
nghiệp phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về hiệu quả dự án, thì tín dụng
đầu tư phát triển có sự chịu trách nhiệm về hiệu quả của dự án. Ngân
hàng giám sát, đánh giá từ khi trình hồ sơ xin vay vốn, cho đến khi thực
hiện dự án, vận hành kết quả của dự án. Trong quá trình sử dụng vốn,
Ngân hàng cũng tham gia dưới góc độ xem vốn có sử dụng đúng mục
đích không, tiến hành giải ngân theo khối lượng công việc đã hoàn
thành và nghiệm thu.
- Các kết quả của tín dụng đầu tư phát triển chủ yếu là để haotj động chứ
không phải dịch chuyển. Tín dụng đầu tư phát triển tạo ra các tài sản
hoạt động cho doanh nghiệp, tạo thành công cụ lao động cho doanh
nghiệp theo nghĩa rộng đó là máy móc, kho tang, thiết bị… Các tài sản
dung để sản xuất hàng hóa vật phẩm bán ra thị trường chứ không phải
dung vào việc mua đi bán lại. Kết quả của hoạt động tín dụng đầu tư
phát triển là tạo ra năng lực sản xuất mới them cho doanh nghiệp.
- Tín dụng đầu tư phát triển sử dụng nhiều nguồn vốn ngắn hạn. Đây là
đặc điểm riêng có của Việt nam. Đúng ra các kết quả của hoạt động tín
dụng đầu tư phát triển khi có thời gian phát huy tác dụng và hoàn vốn
thì đòi hỏi nguồn vốn để tài trợ phải là nguồn vốn dài hạn. Vốn ngắn
hạn chỉ tập trung tài trợ cho tài sản lưu động để vận hành các kết quả
đầu tư này. Tuy nhiên ở Việt nam các công cụ huy đọng vốn dài hạn
còn chưa thực sự hấp dẫn thì vốn ngắn hạn chiếm một tỷ trọng lớn trong
tổng nguồn vốn huy động, trong khi nhu cầu vốn trung và dài hạn lại
lớn. Việc sử dụng vốn ngắn hạn tài trợ cho vốn trung và dài hạn làm
hiệu quả đồng vốn không cao do chi phí huy động lớn, vốn huy động
thường xuyên biến động, tín dụng đầu tư phát triển sử dụng vốn ngắn
hạn không tạo ra được sự chủ động về vốn cho đầu tư, do tính ổn định
của đồng nguốn vốn không cao.
- Tín dụng đầu tư phát triển chứa đựng nhiều rủi ro. Trước hết là rủi ro về
nguồn vốn cho đầu tư. Cụ thể khi chi phí về vốn tăng lên làm cho chi
phí sản xuất tăng, giá thành sản phẩm tăng, giảm sức cạnh tranh gây nên
thất bại cho dự án. Ngoài ra, Ngân hàng có thể không huy động được đủ
số vốn cần thiết, công tác giải ngân chậm… làm ảnh hưởng đến tiến độ
của dự án. Thứ hai là rủi ro thuộc về bản than dự án. Một dự án đầu tư
bao giờ cũng chứa đựng rủi ro bởi các chi phí thì được bỏ ra ở hiện tại
nhưng kết quả có được hoàn toàn mang tính chất dự đoán trong tương
lai.
3. Vai trò của Tín dụng đầu tư phát triển với nên kinh tế.
3.1. TD ĐTPT góp phần huy động vốn và nâng cao hiệu quả đầu tư vốn
trong nền kinh tế.
TD ĐTPT góp phần huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền
kinh tế cho đầu tư phát triển. Để tiến hành TD ĐTPT phải có vốn tín dụng.
Vốn tín dụng được huy động từ người thừa vốn trong tất cả các thành phần
kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu cho người thiếu vốn là doanh nghiệp, cá