PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
2.1. Phương pháp luận:
2.1.1.KHÁI NIỆM – Ý NGHĨA - NHIỆM VỤ - NỘI DUNG CỦA PHÂN TÍCH
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
2.1.1.1. Khái niệm :
Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh là quá trình nghiên cứu để đánh giá toàn bộ
quá trình và hiệu quả hoạt dộng kinh doanh tại doanh nghiệp nhằm làm rõ chất lượng hoạt
động kinh doanh và các nguồn tiềm năng cần khai thác, từ đó đề ra các phương án và giải
pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh.
2.1.1.2. Ý nghĩa :
Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh:
+ Là cơ sở để ra các quyết định kinh doanh.
+ Là công cụ quan trọng trong những chức năng quản trị có hiệu quả ở doanh nghiệp.
+ Là điều hết sức cần thiết đối với mọi doanh nghiệp. Nó gắn liền với hiệu quả hoạt
động kinh doanh chỉ ra hướng phát triển của các doanh nghiệp
+ Là biện pháp quan trọng để phòng ngừa rủi ro.
2.1.1.3. Nhiệm vụ :
Đánh giá kết quả thực hiện được so với kế hoạch hoặc so với tình hình thực hiện kỳ
trước, các doanh nghiệp tiêu biểu cùng ngành hoặc chỉ tiêu bình quân nội ngành và các
thông số thị trường.
Phân tích những nhân tố nội tại và khách quan đã ảnh hưởng tình hình thực hiện kế
hoạch.
Phân tích hiệu quả các phương án kinh doanh hiện tại và các dự án đầu tư dài hạn.
Xây dựng kế hoạch dựa trên kết quả phân tích.
Phân tích dự báo, phân tích chính sách và phân tích rủi ro trên các mặt hoạt động của
doanh nghiệp.
Lập báo cáo kết quả phân tích, thuyết minh và đề xuất kế toán quản trị.
2.1.1.4. Nội dung :
Nội dung của phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh là đánh giá quá trình hướng
đến kết quả hoạt động kinh doanh với sự tác động của các yếu tố ảnh hưởng, được biểu
hiện qua các chỉ tiêu kinh tế. Nó không chỉ đánh giá biến động mà còn phân tích các nhân
tố phụ thuộc vào mối quan hệ cụ thể của nhân tố với chỉ tiêu phân tích.
Vậy trước hết phải xây dựng hệ thống các chỉ tiêu kinh tế cùng với việc xác định mối
quan hệ phụ thuộc của các nhân tố tác động đến chỉ tiêu. Xây dựng mối liên hệ giữa các
chỉ tiêu khác nhau để phản ánh được tính phức tạp đa dạng của nội dung phân tích.
2.1.2. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.1.2.1. Thế nào là ngân hàng thương mại :
_ Ngân hàng Thương mại là tổ chức tài chính nhận gửi tiền và cho vay tiền.
_ Ngân hàng Thương mại là tổ chức tài chính có giấy phép kinh doanh của chính phủ
để cho vay tiền và mở các tài khoản tiền gửi, kể cả các tài khoản tiền gửi mà dựa vào đó có
thể dùng các tờ séc.
_ Ngân hàng Thương mại là nơi trực tiếp giao dịch với công chúng để nhận ký thác
cho vay và cung ứng những dịch vụ tài chính.
_ Điều 1 của pháp lệnh Ngân hàng Việt Nam: Ngân hàng Thương mại là tổ chức kinh
doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với
trách nhiệm hoàn trả và sử dụng tiền đó cho vay. Thực hiện nghiệp vụ chiết khấu thương
phiếu và làm phương tiện thanh toán.
Tóm lại, Ngân hàng Thương mại có thể định nghĩa như sau: Ngân hàng Thương mại
là doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ - tín dụng, huy động vốn cho vay chiết
khấu. bảo lãnh dịch vụ thanh toán và cung cấp các dịch vụ khác.
2.1.2.2. Chức năng của ngân hàng thương mại :
a/Tạo tiền :
Một trong những chức năng chủ yếu của Ngân hàng Thương mại là khả năng tạo tiền
và huỷ tiền. Tạo tiền cùng với chức năng khác của Ngân hàng Thương mại hợp thành một
hệ thống các chức năng, phản ánh bản chất của các Ngân hàng Thương mại. Chức năng
này được thực hiện thông qua các hoạt động tín dụng và đầu tư, trong mối quan hệ chặt
chẽ với Ngân hàng Trung Ương của mỗi nước. Nếu tín dụng Ngân hàng được mở ra để tạo
điều kiện cho quá trinh sản xuất kinh doanh và những hoạt động của nó thì trong những
trường hợp sản xuất không thực hiện được và nguồn tích luỹ khác sẽ bị hạn chế. Hơn nữa,
các đơn vị sản xuất có thể bị ứ đọng vốn, không sản xuất được vào quá trình sản xuất ở
mọi thời điểm, nhưng lại thiếu vốn kinh doanh ở thời điểm khác.
Trong nền kinh tế, bao giờ và lúc nào cũng phải tôn trọng một nguyên tắc quan trọng
là cung tiền tệ phải vừa đủ đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, với tốc độ phát triển kinh tế
dự kiến. Nếu tiền cung ứng tăng quá nhanh tất yếu lạm phát sẽ xuất hiện và những hậu quả
của nó đương nhiên nền kinh tế phải gánh chịu. Các Ngân hàng Thương mại đóng vai trò
rất quan trọng trong việc thực hiện chính sách này, trong mối quan hệ với Ngân hàng
Trung Ương của mỗi nước. Tín dụng Ngân hàng, trong trường hợp này, thực hiện vai trò
của nó như là kênh dẫn để thông qua đó, tiền cung ứng tăng lên hoặc giảm xuống phù hợp
với chính sách tiền tệ quốc gia.
b/Cơ chế thanh toán:
Bên cạnh chức năng tạo tiền, các Ngân hàng Thương mại còn thực hiện một chức
năng khác là đưa ra cơ chế thanh toán, hay nói cách khác, sự vận động vốn là một trong
những chức năng quan trọng do các Ngân hàng Thương mại thực hiện. Ở các nước phát
triển và đang phát triển phần lớn công tác thanh toán được thực hiện thông qua séc và thẻ
thanh toán.
Phần lớn séc thanh toán trong nước được thực hiện bằng thanh toán bù trừ, thông qua
hệ thống Ngân hàng thương mại. Việc phát hành séc để rút tiền từ tài khoản tiền gửi và ký
thác trong cùng một Ngân hàng thật ra đó là sự chuyển vốn từ tài khoản này sang tài khoản
khác, và nếu giữa hai Ngân hàng trong cùng một địa bàn sẽ tiến hành trao đổi séc trực tiếp,
nhưng nếu xảy ra một trong số Ngân hàng trong cùng một địa bàn, buộc phải tiến hành
thông qua thanh toán bù trừ. Quá trình sẽ trở nên phức tạp, mất thời gian và tốn kém khi
việc thanh toán bù trừ diễn ra giữa các Ngân hàng thuộc các địa bàn khác nhau trong nước.
c/Huy động tiết kiệm :
Các Ngân hàng thực hiện các dịch vụ rất quan trọng đối với tất cả dân cư trong nước
thuộc các khu vực của nền kinh tế bằng cách đáp ứng những điều kiện và các công cụ
thuận lợi cho việc chuyển tiền và rút tiền tiết kiệm một cách dễ dàng, nhằm thực hiện các
mục đích có tính chất xã hội rộng lớn. Do đó, huy động tiết kiệm đã trở thành một chức
năng quan trọng của Ngân hàng Thương mại.
d/Mở rộng tín dụng :
Chức năng chủ yếu và quan trọng bậc nhất của Ngân hàng Thương mại là mở rộng tín
dụng đối với các Ngân hàng đáng tin cậy. Chức năng tín dụng được hình thành từ rất sớm.
Ngay từ khi hình thành những người tổ chức các Ngân hàng luôn tìm kiếm cơ hội để thực
hiện cho vay.
e/Tạo điều kiện để tài trợ ngoại thương :
Việc tài trợ này góp phần vào tự do ngoại thương giữa các nước với nhau và với một
phí tổn thấp hơn. Do quá trình hợp tác và phân công lao động có tính quốc tế, nghiệp vụ
Ngân hàng đối ngoại của các Ngân hàng Thương mại cũng tăng không ngừng.
f/Dịch vụ uỷ thác :
Các văn phòng uỷ thác có trách nhiệm đầu tư quản lý số vốn này và phân phối thu
nhập theo các điều khoản của hợp đồng uỷ thác.
g/Bảo quản an toàn vật có giá :
Chức năng bảo quản an toàn vật có giá chỉ diễn ra ở các Ngân hàng lớn, nơi có điều
kiện hình thành các kho đặc biệt. Bảo quản an toàn và chắc chắn.
h/Dịch vụ kinh kỷ :
Phần lớn Ngân hàng Thương mại đều cung cấp dịch vụ kinh kỷ - đó là việc mua và
bán các chứng khoán cho khách hàng - Mặc dù quyền hạn trong dịch vụ tài chính của các
Ngân hàng được nâng lên nhưng không vượt quá giới hạn các hoạt động bảo lãnh hoặc
cung ứng các dịch vụ nghiên cứu và vốn đầu tư thông thường, kết hợp với các hoạt động
môi giới. Việc cho phép tiến hành cung cấp những dịch vụ này được thực hiện trước năm
1983 nhưng vẫn chưa hội đủ những kinh nghiệm cần thiết để đánh giá khả năng tiềm tàng
của chúng.
2.1.2.3 Hoạt động kinh doanh của ngân hàng :
Ngân hàng Thương mại cổ phần được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần. Cổ
đông của Ngân hàng Thương mại cổ phần bao gồm nhiều thế nhân và pháp nhân. Cổ đông
được sở hữu số cổ phần của Ngân hàng theo tỷ lệ do Ngân hàng Nhà Nước quy định. Mức
vốn điều lệ tối thiểu khi thành lập Ngân hàng Thương mại cổ phần (Nghị định
141/2006/NĐ - CP ngày 22/11/2006) như sau:
Bảng 1: Quy định vốn điều lệ của Ngân hàng Thương mại cổ phần:
(Nguồn: Tạp chí
ngân hàng).
Ngân hàng
Thương mại
được xem như
một doanh
nghiệp họat
động trên lĩnh
vực kinh doanh
tiền tệ, với chức
năng là trung
gian tín dụng,
các Ngân hàng
Thương mại vừa
là người đi vay vừa là người cho vay, từ đó nghiệp vụ hoạt động chủ yếu của Ngân hàng
bao gổm 3 lĩnh vực: Huy động vốn, cho vay, môi giới trung gian.
a/Hoạt động huy động vốn:
Hoạt động huy động vốn là một trong những nghiệp vụ chủ yếu của Ngân hàng
Thương mại. Vốn huy động là nguồn vốn chiếm tỷ lệ lớn trong tổng nguồn vốn của Ngân
hàng Thương mại. Vì vậy, nếu huy động được nhiều vốn thì có thể mang lại lợi nhuận cao
cho Ngân hàng cũng như có thể mở rộng hoạt động và cung cấp vốn cho hoạt động kinh tế.
Trên thị trường có rất nhiều loại khách hàng khác nhau, trong đó gồm có hai loại
chính: Khách hàng là cá nhân và khách hàng là đơn vị kinh tế, doanh nghiệp Nhà nước,
công ty TNHH, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân. Vì thế các hình thức hoạt động vốn
Loại hình tổ chức tín dụng
Mức vốn pháp định áp dụng cho đến
năm
2008 2010
Ngân hàng
NHTM
NHTM nhà nước 3.000 tỷ đồng 3.000 tỷ đồng
NHTM cổ phần 1.000 tỷ đồng 3.000 tỷ đồng
Ngân hàng liên doanh 1.000 tỷ đồng 3.000 tỷ đồng
NH 100% vốn nước ngoài 1.000 tỷ đồng 3.000 tỷ đồng
Chi nhánh NH nước ngoài 15 triệu USD 15 triệu USD
NH chính sách 5.000 tỷ đồng 5.000 tỷ đồng
NH đầu tư 3.000 tỷ đồng 3.000 tỷ đồng
NH phát triển 5.000 tỷ đồng 5.000 tỷ đồng
NH hợp tác 1.000 tỷ đồng 3.000 tỷ đồng
Quỹ tín dụng nhân dân
Quỹ tín dụng nhân dân TW 1.000 tỷ đồng 3.000 tỷ đồng
Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở 0,1 tỷ đồng 0,1 tỷ đồng
Tổ chức tín dụng phi ngân hàng
Công ty tài chính 300 tỷ đồng 500 tỷ đồng
Công ty cho thuê tài chính 100 tỷ đồng 150 tỷ đồng
cũng rất đa dạng để thích hợp với từng loại khách hàng. Hiện nay tại các Ngân hàng
Thương mại các nước có những hình thức huy động vốn như sau:
-Tiền gởi thanh toán:
Ngân hàng thương mại từ khi mở cửa hoạt động thì không ngừng động viên khuyến
khích khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng. Tiền gửi thanh toán là loại tiền gửi mà
người gửi tiền có thể rút ra bất cứ lúc nào mà cũng không cần báo trước cho Ngân hàng và
Ngân hàng phải đáp ứng được yêu cầu đó của khách hàng
Tài khoản được sử dụng cho tiền gửi thanh toán được coi là tài khoản giao dịch hay
gọi là tài khoản Sec. Tài khoản Sec ngày nay chia ra hai loại: Tài khoản thanh toán dùng
cho các tổ chức kinh tế và tài khoản thanh toán dùng cho cá nhân.
Đặc điểm nổi bật của loại tiền gửi này là khách hàng gửi tiền vào ngân hàng đã hình
thành một khế ước mặc nhiên, trong đó ngân hàng phải thỏa mãn nhu cầu chi trả của khách
hàng bất cứ lúc nào. Nếu vi phạm Ngân hàng sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật
Mục đích của loại tiền gửi này nhằm đảm bảo an toàn về tài sản, thực hiện các khoản
chi trả trong hoạt động sản xuất kinh doanh, trong tiêu dùng, tiện lợi trong việc thanh toán
bằng tiền mặt. Đối với ngân hàng loại tiền gửi thanh toán thường có sự dao động lớn, do
đó Ngân hàng chỉ áp dụng một tỉ lệ nhất định để cho vay nên Ngân hàng thường áp dụng
với lãi suất thấp.
Trong việc sử dụng tiền gởi thanh toán, khách hàng thường dùng các công cụ thanh
toán để chi trả như: séc, lệnh chuyển tiền…. trong đó séc được coi là công cụ thanh toán
chủ yếu vì sử dụng séc một mặt bảo đảm an toàn về ngân quỹ mặt khác séc là hình thức chi
trả đơn giản và tiện lợi.
động lớn, do đó Ngân hàng chỉ áp dụng một tỉ lệ nhất định để cho vay nên Ngân hàng
thường áp dụng với lãi suất thấp.
Trong việc sử dụng tiền gởi thanh toán, khách hàng thường dùng các công cụ thanh
toán để chi trả như: séc, lệnh chuyển tiền…. trong đó séc được coi là công cụ thanh toán
chủ yếu vì sử dụng séc một mặt bảo đảm an toàn về ngân quỹ mặt khác séc là hình thức chi
trả đơn giản và tiện lợi.
-Tiền gởi có kỳ hạn:
Hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và cá nhân sau khi thu được lợi nhuận
mà tạm thời chưa sử dụng đến trong một thời gian nhất định nào đó có thể ký thác vào
Ngân hàng một cách có kỳ hạn. Đối với loại tiền gởi này, người gởi tiền chỉ được rút ra khi
đáo hạn. Tuy nhiên, trên thực tế do áp lực cạnh tranh, các Ngân hàng cho phép khách hàng
rút tiền trước hạn với điều kiện là người gởi tiền không được trả lãi hoặc chịu một mức lãi
suất thấp hơn lãi suất trả cho tiển gởi có kỳ hạn, điều kiện tuỳ thuộc vào chính sách huy
động của Ngân hàng và loại tiền gởi định kỳ.
Tiền gởi định kỳ có nhiều loại khác nhau, thông thường có kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng,
12 tháng. Khác với tiền gởi thanh toán tiền gởi định kỳ là tiền gởi tạm thời chưa sử dụng
hoặc tiền gởi để dành của các nhân. Vì vậy, mục đích gởi tiền vào Ngân hàng là nhằm
kiếm lợi tức. Do đó thường dùng biện pháp lãi suất để huy động nguồn vốn này chủ là yếu.
Hiện nay, các Ngân hàng Thương mại đang áp dụng hai loại tiền gởi định kỳ: tiền gởi
định kỳ theo tài khoản và tiền gởi định kỳ với hình thức phát hành kỳ phiếu. Nguồn tiền
gởi định kỳ là nguồn tiền gởi có tính chất ổn định ở Ngân hàng Thương mại. Do vậy, nó có
thể dùng để cho vay trung và dài hạn với lãi suất cao hơn lãi suất tiền gởi thanh toán không
kỳ hạn. Ngân hàng áp dụng nguyên tắc kỳ hạn càng dài lãi suất càng cao.
-Tiền gởi tiết kiệm:
Ở Việt Nam, tiền gởi tiết kiệm hết sức đa dạng và phong phú được chia ra làm nhiều
loại:
Tiền gởi tiết kiệm không kỳ hạn: Là loại tiền gởi không có thời gian đáo hạn, khi
nào người gởi muốn rút tiền thì phải thông báo cho Ngân hàng một thời gian, tuy nhiên
ngày nay Ngân hàng cho phép khách hàng rút tiền ra không cần thông báo trước. Đây là
hình thức hoạt kỳ mà đối tượng gởi chủ yếu là người tiết kiệm, dành dụm hầu trang trãi
những chi tiêu cần thiết đồng thời có một khoản lãi góp phần vào việc chi tiêu hàng tháng.
Ngoài ra, đối tượng gởi tiền có thể là những người thừa tiền nhàn rỗi muốn gởi vào Ngân
hàng để thu hoạch lợi tức đồng thời đảm bảo an toàn hơn tiển gởi ở nhà.
Loại tiền gởi tiết kiệm không kỳ hạn lãi suất thấp do Ngân hàng không chủ động
được nguồn vốn và lãi luôn được nhập vốn và thường tính lãi theo nhóm ngày gửi tiền.
Còn đối với tiền gửi thanh toán thì lãi nhập vốn vào cuối tháng.
Tiền gửi tiết kiệm có mục đích: người ký thác tiền ở ngân hàng nhằm mục đích
nhất định như để mua sắm nhà cửa, trang trải chi phí học tập cho con cái… đối với những
người gửi tiền loại này ngân hàng thường cấp thêm tín dụng để bù đắp phần thiếu hụt khi
sử dụng theo mục đích của người gửi tiền.
Tiền gửi tiết kiệm định kỳ hiện nay được phân thành 2 loại: tiền gửi tiết kiệm có kỳ
hạn dưới 12 tháng và tiền gửi tiết kiệm từ 12 tháng trở lên
Khách hàng gửi tiết kiệm định kỳ thì được ngân hàng cấp cho một bản kê lúc gửi tiền
đầu tiên và theo định kỳ hàng tháng để phản ánh tất cả số phát sinh, khách hàng quản lý và
mang theo bên người khi đến ngân hàng giao dịch
Về nguyên tắc khách hàng chỉ được rút vốn khi đến hạn. Nếu rút trước hạn phải được
sự đồng ý của Ngân hàng và chỉ được hưởng lãi suất của tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn
hoặc không được hưởng lãi nếu gửi có kỳ hạn mà rút ra chưa được 1 tháng.
-Kỳ phiếu ngân hàng có mục đích:là công cụ để huy động vốn tiết kiệm do ngân
hàng phát hành nhằm mục đích kinh doanh trong từng thời kỳ nhất định.
-Trái phiếu ngân hàng:là công cụ huy động vốn trung gian và dài hạn vào ngân
hàng và đây là một loại chứng khoán có thể mua bán trên thị trường chứng khoán. Thời
hạn trái phiếu thường một năm.
b/Hoạt động tín dụng:
* Khái niệm tín dụng:
- Tín dụng là quan hệ kinh tế được biểu hiện dưới dạng tiền tệ hay vật chất mà trong
đó người đi vay phải trả cho người cho vay cả gốc lẫn lãi trong thời gian nhất định
- Đối với ngân hàng thương mại, thì tín dụng có nghĩa là sự cho vay hay ứng trước
tiền do ngân hàng thực hiện, giá cả do ngân hàng ấn định đối với khách hàng đi vay mà
chúng ta thường gọi là lãi suất hay những khoản tiền hoa hồng mà người vay phải trả trong
suốt thời gian sử dụng các khoản ứng trước của ngân hàng.
* Phân loại tín dụng: